Phe Trục – Wikipedia Tiếng Việt

Phe Trục
Tên bản ngữ
    • Achsenmächte (tiếng Đức)
    • Potenze dell'Asse (tiếng Ý)
    • 樞軸國, Sūjikukoku (tiếng Nhật)
1936–1945
Lễ kí kết Hiệp ước Tam cường tại Tokyo Các nước chính:[a]
  •  Đức Quốc xã
  •  Vương quốc Ý[b]
  •  Đế quốc Nhật Bản
Các quốc gia khác:
  •  Vương quốc Hungary[c][d]
  •  Vương quốc Romania[c]
  •  Cộng hòa Slovak[c][e]
  •  Sa quốc Bulgaria[c]
  • Phần Lan Cộng hòa Phần Lan[f]
  • Nhà nước Độc lập Croatia Nhà nước Độc lập Croatia[c][e]
  • Thái Lan Vương quốc Thái Lan[g]
Vị thếLiên minh quân sự
Lịch sử
Thời kỳThế chiến 2
• Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản 25 tháng 11 năm 1936
• Hiệp ước Thép 22 May 1939
• Hiệp ước Tam cường 27 tháng 9 năm 1940
• Bị đánh bại 2 tháng 9 năm 1945
Footnotes
    1. ^ Đức, Ý và Nhật thường được mô tả là các quốc gia "chính" trong phe Trục (hoặc các cách gọi tương tự), ví dụ như trong Global Strategycủa Momah, tr. 71, hay Encyclopedia of World War II của Tucker & Roberts, tr. 102.
    2. ^ Sau khi Ý đầu hàng vào tháng 9 năm 1943, Vương quốc Ý chiến đấu với tư cách nước đồng chiến của phe Đồng Minh, trong khi đó Cộng hòa Xã hội Ý, một nhà nước bù nhìn do Đức kiểm soát – được thành lập ở miền bắc nước Ý và tồn tại cho đến khi đầu hàng vào ngày 29 tháng 4 năm 1945.
    3. ^ a b c d e Các nước này gia nhập Hiệp ước Tam cường, thường được coi là các nước thuộc phe Trục (xem Facts About the American Wars, Bowman, tr. 432 – liệt kê họ trong danh sách "các nước Trục", hoặc The Library of Congress World War II Companion của Wagner, Osborne & Reyburn, tr. 39 – liệt kê họ trong nhóm "Phe Trục").).
    4. ^ Sau Chiến dịch Panzerfaust, Hungary trở thành nhà nước bù nhìn của Đức dưới quyền Ferenc Szálasi từ ngày 15 tháng 10 năm 1944 (xem Germany and the Axis Powers, DiNardo, tr. 189).
    5. ^ a b Nhà nước bù nhìn do phe Trục dựng lên (xem Axis Rule in Occupied Europe, Lemkin, tr. 11).
    6. ^ Lập trường chính thức của chính phủ Phần Lan thời chiến là họ chỉ là nước đồng chiến đấu cùng phe Trục chống Liên Xô và Anh trong Chiến tranh Tiếp diễn, nhưng trên thực tế thường vẫn được coi là thành viên phe Trục (xem Bowman, tr. 432; Wagner, Osborne & Reyburn, tr. 39; hoặc DiNardo, tr. 95).
    7. ^ Thái Lan tuyên chiến với Anh và Mỹ, liên minh với Nhật Bản vào ngày 25 tháng 1 năm 1942, và thường được coi là một thành viên của phe Trục (ví dụ Bowman, tr. 432).

Phe Trục (tiếng Anh: Axis powers, tiếng Đức: Achsenmächte, tiếng Nhật: 枢軸国 Sūjikukoku, tiếng Ý: Potenze dell'Asse), còn được gọi là Khối Trục hoặc "Trục Roma–Berlin–Tokyo"[1] (cũng được viết tắt là "Roberto" đọc là "Rô-béc-tô"), là liên minh quân sự đã khởi xướng Chiến tranh thế giới thứ hai và chiến đấu chống lại phe Đồng Minh. Các thành viên chính của liên minh này là Đức Quốc Xã, Vương quốc Ý và Đế quốc Nhật Bản. Phe Trục thống nhất với nhau ở lập trường cực hữu và sự đối đầu nói chung với phe Đồng Minh, nhưng ngoài những điểm đó ra thì họ thiếu sự phối hợp chặt chẽ cũng như không có một hệ thống tư tưởng thống nhất tương đương.

Phe Trục hình thành từ một loạt nỗ lực ngoại giao nối tiếp nhau của Đức, Ý và Nhật nhằm bảo đảm các lợi ích bành trướng riêng của mỗi nước vào giữa những năm 1930. Bước đầu tiên là bản nghị định thư được Đức và Ý ký vào tháng 10 năm 1936; sau đó, lãnh tụ Ý Benito Mussolini tuyên bố rằng từ nay các nước châu Âu khác sẽ "xoay quanh trục Rome–Berlin", qua đó tạo ra thuật ngữ "Phe Trục".[2] Tháng 11 năm đó chứng kiến việc phê chuẩn Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản, một hiệp ước chống cộng giữa Đức và Nhật; Ý gia nhập hiệp ước này vào năm 1937, tiếp theo là Hungary và Tây Ban Nha vào năm 1939. "Trục Rome–Berlin" trở thành một liên minh quân sự vào năm 1939 với cái gọi là "Hiệp ước Thép" , và Hiệp ước Tam cường năm 1940 chính thức hợp nhất các mục tiêu quân sự của Đức, Ý, Nhật cùng một số quốc gia khác gia nhập sau đó. Ba hiệp ước này tạo thành nền tảng cho liên minh Phe Trục.[3]

Ở thời kỳ đỉnh cao năm 1942, Phe Trục kiểm soát một phần lớn châu Âu, Bắc Phi và Đông Á, thông qua chiếm đóng, sáp nhập hoặc dựng lên các nhà nước bù nhìn. Trái ngược với phe Đồng Minh,[4] không có các hội nghị thượng đỉnh Tam cường thường xuyên giữa các cường quốc Trục, và sự hợp tác cũng như phối hợp giữa họ là rất hạn chế; đôi khi lợi ích của các nước lớn trong Phe Trục còn mâu thuẫn với nhau.[5] Cuối cùng, Phe Trục chấm dứt tồn tại khi bị đánh bại vào năm 1945.

Đặc biệt là trong ngữ cảnh châu Âu, thuật ngữ "Phe Trục" đôi khi chỉ dùng để nói riêng liên minh giữa Ý và Đức, trong khi ngoài châu Âu, nó thường được hiểu là bao gồm cả Nhật Bản.[6]

Nguồn gốc và sự hình thành

[sửa | sửa mã nguồn]

Thuật ngữ "axis" (trục) lần đầu tiên được dùng cho quan hệ Ý–Đức bởi Thủ tướng Ý Benito Mussolini vào tháng 9 năm 1923, khi ông viết trong lời nói đầu cuốn La Germania Repubblicana của Roberto Suster rằng: "không còn nghi ngờ gì nữa, vào lúc này trục của lịch sử châu Âu đi qua Berlin" (tiếng Ý: non v'ha dubbio che in questo momento l'asse della storia europea passa per Berlino).[7] Khi đó, ông đang tìm cách liên minh với Cộng hoà Weimar chống lại Nam Tư và Pháp trong tranh chấp về Nhà nước tự do Fiume.[8]

Thuật ngữ này sau đó được Thủ tướng Hungary Gyula Gömbös sử dụng khi ông vận động cho một liên minh giữa Hungary với Đức và Ý vào đầu những năm 1930.[9] Nỗ lực của Gömbös dẫn đến Nghị định thư Rome giữa Ý và Hungary, nhưng cái chết đột ngột của ông năm 1936 khi đang đàm phán với Đức tại Munich, cùng với việc Kálmán Darányi lên thay, đã chấm dứt vai trò của Hungary trong việc theo đuổi một "trục Tam cường".[9] Những cuộc đàm phán căng thẳng giữa Ngoại trưởng Ý Galeazzo Ciano và Đại sứ Đức Ulrich von Hassell dẫn tới Nghị định thư Chín điểm, được Ciano và người đồng cấp Đức Konstantin von Neurath ký năm 1936. Khi Mussolini công khai thông báo việc ký kết vào ngày 1 tháng 11, ông tuyên bố hình thành "trục Rome–Berlin".[8]

Những đề xuất ban đầu về liên minh Đức–Ý

[sửa | sửa mã nguồn]

Nước Ý dưới thời Duce Benito Mussolini heo đuổi chiến lược liên minh với Đức chống lại Pháp ngay từ đầu những năm 1920.[10] Trước khi trở thành người đứng đầu chính phủ với tư cách lãnh tụ phong trào Phát xít Ý, Mussolini đã chủ trương liên minh với nước Đức bại trận sau Hội nghị Hoà bình Paris (1919–1920), nơi đã ấn định các điều khoản sau Thế chiến thứ nhất.[10] Ông tin rằng Ý có thể mở rộng ảnh hưởng của mình tại châu Âu bằng cách bắt tay với Đức chống lại Pháp.[10] Đầu năm 1923, như một cử chỉ thiện chí dành cho Đức, Ý đã bí mật chuyển giao vũ khí cho lực lượng Reichswehr, vốn bị giải trừ theo các điều khoản của Hiệp ước Versailles.[10]

Ngay từ thập niên 1920, Ý đã xác định năm 1935 là mốc thời gian then chốt để chuẩn bị cho một cuộc chiến với Pháp, vì 1935 là năm các nghĩa vụ của Đức theo Hiệp ước Versailles dự kiến hết hiệu lực.[11] Nhiều cuộc gặp đã diễn ra ở Berlin năm 1924 giữa Tướng Ý Luigi Capello và các nhân vật quan trọng của quân đội Đức như von Seeckt và Erich Ludendorff, về khả năng hợp tác quân sự giữa Đức và Ý. Các cuộc thảo luận kết luận rằng người Đức vẫn muốn một cuộc chiến phục thù chống Pháp nhưng còn thiếu vũ khí và hy vọng Ý có thể hỗ trợ Đức.[12]

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Mussolini nhấn mạnh một điều kiện quan trọng cho bất kỳ liên minh nào với Đức: Ý "phải là bên kéo họ đi, chứ không bị họ kéo".[10] Ngoại trưởng Ý Dino Grandi đầu những năm 1930 nhấn mạnh tầm quan trọng của "trọng lượng quyết định" trong quan hệ giữa Ý với Pháp và Đức. Ông thừa nhận rằng Ý chưa phải là một cường quốc lớn, nhưng cho rằng Ý có đủ ảnh hưởng để làm thay đổi cục diện chính trị châu Âu bằng cách đặt sức nặng ủng hộ của mình về phía bên này hay bên kia, và vì vậy tìm cách cân bằng quan hệ giữa ba nước.[13] [14]

Liên minh vùng Danube và tranh chấp về Áo

[sửa | sửa mã nguồn]
Adolf Hitler, Quốc trưởng (Führer) kiêm Thủ tướng Đế chế Đức, 1933–1945

Năm 1933, Adolf Hitler và Đảng Quốc xã lên nắm quyền tại Đức. Hitler đã chủ trương một liên minh giữa Đức và Ý từ những năm 1920.[15] Không lâu sau khi được bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức, Hitler gửi một thông điệp cá nhân cho Mussolini, bày tỏ "lòng ngưỡng mộ và tôn kính" và nói rằng ông kỳ vọng vào triển vọng hữu nghị Đức–Ý và thậm chí là một liên minh.[16] Hitler biết rằng Ý lo ngại về khả năng Đức đưa ra yêu sách lãnh thổ với Nam Tyrol, nên trấn an Mussolini rằng Đức không quan tâm đến Nam Tyrol. Trong Mein Kampf, Hitler đã tuyên bố rằng vấn đề Nam Tyrol là chuyện nhỏ nếu so với những lợi ích mà một liên minh Đức–Ý có thể mang lại. Sau khi Hitler lên cầm quyền, đề xuất "Hội đồng Bốn Cường quốc" của Ý được Anh quan tâm, nhưng Hitler không thực sự cam kết với nó, dẫn tới việc Mussolini thúc giục Hitler cân nhắc lợi ích ngoại giao mà Đức có thể thu được khi thoát khỏi tình trạng cô lập bằng cách gia nhập cơ chế này, đồng thời tránh một cuộc xung đột vũ trang ngay lập tức.[17] Đề xuất này quy định rằng Đức sẽ không còn bị buộc phải giới hạn quân bị và sẽ được phép tái vũ trang theo từng giai đoạn, dưới sự giám sát của nước ngoài.[18] Hitler hoàn toàn bác bỏ ý tưởng tái vũ trang "có kiểm soát" dưới sự giám sát quốc tế.[18]

Mussolini không tin tưởng ý đồ của Hitler về Anschluss, cũng như lời hứa không yêu sách Nam Tyrol.[19] Mussolini thông báo với Hitler rằng ông hài lòng với sự tồn tại của chính phủ chống Mác-xít của Engelbert Dollfuss tại Đệ nhất Cộng hoà Áo, và cảnh báo Hitler rằng ông kiên quyết phản đối Anschluss.[19] Hitler đáp lại với thái độ khinh miệt, nói rằng ông dự định "ném Dollfuss xuống biển".[19] Do bất đồng về vấn đề Áo, quan hệ giữa Hitler và Mussolini dần trở nên xa cách.[19]

Hitler tìm cách phá thế bế tắc với Ý về vấn đề Áo bằng cách cử Hermann Göring sang đàm phán với Mussolini năm 1933, nhằm thuyết phục Mussolini gây sức ép buộc Áo đưa các đảng viên Quốc xã Áo vào chính phủ.[20] Göring cho rằng việc phe Quốc xã thống trị Áo là điều không thể tránh khỏi và Ý nên chấp nhận điều đó; đồng thời lặp lại lời hứa của Hitler rằng Đức "coi vấn đề biên giới Nam Tyrol là đã được giải quyết dứt điểm bởi các hoà ước".[20] Đáp lại chuyến thăm của Göring, Dollfuss lập tức tới Ý để ngăn chặn mọi bước tiến ngoại giao của Đức.[20] Dollfuss khẳng định chính phủ của ông đang kiên quyết trấn áp phe Mác-xít ở Áo, và tuyên bố rằng một khi lực lượng Mác-xít bị đánh bại, sự ủng hộ dành cho phe Quốc xã Áo sẽ suy giảm.[20]

Tháng 6 năm 1934, Hitler và Mussolini gặp nhau lần đầu tại Venice. Cuộc gặp không diễn ra êm thấm. Hitler yêu cầu Mussolini nhân nhượng trong vấn đề Áo bằng cách gây sức ép buộc Dollfuss đưa người Quốc xã Áo vào nội các, nhưng Mussolini thẳng thừng từ chối. Đáp lại, Hitler hứa rằng tạm thời ông sẽ chấp nhận nền độc lập của Áo, nói rằng do các căng thẳng nội bộ ở Đức (ám chỉ phe Sturmabteilung trong Đảng Quốc xã, lực lượng mà Hitler sắp thanh trừng trong "Đêm của những con dao dài") nên Đức không thể liều lĩnh chọc giận Ý.[21] Galeazzo Ciano thông báo với báo chí rằng hai nhà lãnh đạo đã đạt được một "thoả thuận quý ông" không can thiệp vào Áo.[22]

Engelbert Dollfuss, Thủ tướng Áo, 1932–1934

Vài tuần sau cuộc gặp ở Venice, ngày 25 tháng 7 năm 1934, những người Quốc xã Áo ám sát Dollfuss.[21] Mussolini hết sức phẫn nộ, coi Hitler phải chịu trách nhiệm trực tiếp về vụ ám sát này, vốn đã vi phạm lời hứa của Hitler chỉ vài tuần trước về việc tôn trọng độc lập Áo.[23][22] Mussolini nhanh chóng điều một số sư đoàn lục quân và phi đội không quân tới đèo Brenner và cảnh báo rằng bất kỳ động thái quân sự nào của Đức chống lại Áo sẽ đồng nghĩa với chiến tranh giữa Đức và Ý.[24] Hitler phản ứng bằng cách phủ nhận mọi trách nhiệm của Đảng Quốc xã Đức đối với vụ ám sát, đồng thời ra lệnh giải tán mọi mối liên hệ chính thức giữa Đảng Quốc xã Đức và chi bộ Quốc xã tại Áo – lực lượng mà Berlin tuyên bố là bên gây ra khủng hoảng chính trị.[25]

Ý trên thực tế đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đức và quay sang Pháp để cùng đối trọng với sự cứng rắn của Berlin, bằng việc ký kết một hiệp ước Pháp–Ý nhằm bảo vệ nền độc lập của Áo.[26] Bộ tổng tham mưu Pháp và Ý đã thảo luận về khả năng phối hợp quân sự trong trường hợp phải tiến hành chiến tranh với Đức nếu Hitler dám tấn công Áo.

Quan hệ Đức–Ý chỉ được khôi phục sau này nhờ việc Hitler ủng hộ cuộc xâm lược Ethiopia của Ý vào năm 1935, trong khi các nước khác lên án và đòi áp đặt trừng phạt đối với Ý.

Hình thành liên minh Đức–Ý–Nhật

[sửa | sửa mã nguồn]
Hideo Kodama, bộ trưởng nội các thời chiến của Đế quốc Nhật Bản

Sự quan tâm đến một liên minh Đức–Nhật bắt đầu khi nhà ngoại giao Nhật Bản Hiroshi Ōshima đến thăm Joachim von Ribbentrop tại Berlin năm 1935.[27] Dù khi đó Nhật Bản chưa muốn tham gia một liên minh chống lại Anh và Pháp, Ōshima cho Ribbentrop biết Tokyo quan tâm đến một liên minh Đức–Nhật nhằm chống Liên Xô.[28][27] Ribbentrop mở rộng đề xuất này, cho rằng liên minh nên được đặt trong bối cảnh chính trị của một hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản.[27] Đề xuất hiệp ước này gây phản ứng trái chiều ở Nhật Bản: một phe siêu dân tộc chủ nghĩa trong chính quyền ủng hộ, trong khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Bộ Ngoại giao Nhật kịch liệt phản đối.[29] Chính phủ Nhật lo ngại rằng một hiệp ước như vậy với Đức có thể phá vỡ quan hệ với Anh, đe doạ những năm tháng hợp tác có lợi trong khuôn khổ quan hệ Anh–Nhật, vốn đã giúp Nhật Bản vươn lên trong cộng đồng quốc tế.[30] Đáp lại, phía Đức cũng chia rẽ: hiệp ước được giới lãnh đạo cao cấp của Đảng Quốc xã hoan nghênh, nhưng bị nhiều người trong Bộ Ngoại giao, quân đội và giới kinh doanh phản đối, do họ vẫn có lợi ích tài chính lớn tại Trung Hoa Dân Quốc, quốc gia vốn đang đối đầu với Nhật.

Nhà văn người Nhật Shūmei Ōkawa, một nhân vật chủ chốt của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản.

Khi biết về các cuộc đàm phán Đức–Nhật, Ý cũng bắt đầu quan tâm tới việc lập liên minh với Nhật.[27] Ý hy vọng rằng, do mối quan hệ lâu dài giữa Nhật và Anh, một liên minh Ý–Nhật có thể gây sức ép buộc Anh có lập trường mềm mỏng hơn đối với Ý ở Địa Trung Hải.[27] Mùa hè năm 1936, Ngoại trưởng Ý Galeazzo Ciano nói với Đại sứ Nhật tại Ý Sugimura Yotaro: "Tôi nghe nói một thoả thuận Đức–Nhật liên quan đến Liên Xô đã đạt được, và tôi nghĩ sẽ là tự nhiên nếu có một thoả thuận tương tự giữa Ý và Nhật".[27] Ban đầu, Nhật khá thờ ơ với đề xuất của Ý, coi liên minh Đức–Nhật chống Liên Xô là thiết yếu, còn liên minh Ý–Nhật chỉ là thứ yếu, vì Tokyo dự đoán rằng hiệp ước với Ý sẽ khiến Anh tức giận – đất nước vốn đã lên án cuộc xâm lược Ethiopia của Ý.[27] Thái độ này của Nhật đối với Ý thay đổi vào năm 1937, sau khi Hội Quốc Liên lên án Nhật gây hấn tại Trung Quốc, khiến Nhật rơi vào tình trạng bị cô lập quốc tế, trong khi Ý vẫn ủng hộ Nhật.[27] Do được Ý hậu thuẫn trong bối cảnh bị quốc tế lên án, Nhật Bản bắt đầu nhìn nhận Ý tích cực hơn và đưa ra đề xuất ký hiệp ước bất tương xâm hoặc trung lập với Ý.[31]

Trung tướng Hiroshi Ōshima, đại sứ Nhật Bản tại Đức trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Hiệp ước Tam cường được Đức, Ý và Nhật ký ngày 27 tháng 9 năm 1940 tại Berlin. Sau đó, các nước khác lần lượt gia nhập: Hungary (20 tháng 11 năm 1940), Romania (23 tháng 11 năm 1940), Slovakia (24 tháng 11 năm 1940) và Bulgaria (1 tháng 3 năm 1941).[32]

Ý thức hệ

[sửa | sửa mã nguồn]

Mục tiêu chính của phe Trục là mở rộng lãnh thổ bằng cách chiếm đất đai của các nước láng giềng.[33] Về mặt tư tưởng, phe Trục mô tả mục tiêu của mình là phá vỡ sự thống trị của các cường quốc tư bản “trọc phú” phương Tây và bảo vệ nền văn minh khỏi chủ nghĩa cộng sản. Phe Trục cổ vũ nhiều biến thể khác nhau của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa bảo thủ và tự cung tự cấp kinh tế.[34] Việc xây dựng các đế chế lãnh thổ liền mạch, có khả năng tự túc tự cấp là mục tiêu chung của cả ba cường quốc phe Trục.[6]

Nguồn lực kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Dân số của phe Trục năm 1938 là 258,9 triệu người, trong khi dân số phe Đồng Minh (không tính Liên Xô và Hoa Kỳ, hai nước chỉ gia nhập phe Đồng Minh sau này) là 689,7 triệu người.[35] Như vậy, về dân số, phe Đồng Minh đông hơn phe Trục với tỉ lệ khoảng 2,7 : 1.[36] Các nước đứng đầu phe Trục có dân số trong nước như sau: Đức có 75,5 triệu người (bao gồm 6,8 triệu dân từ Áo mới được sáp nhập), Nhật Bản có 71,9 triệu người (không tính thuộc địa) và Ý có 43,4 triệu (không tính thuộc địa). Về phía Đồng Minh, Vương quốc Anh (không tính thuộc địa) có khoảng 47,5 triệu người và Pháp (không tính thuộc địa) có 42 triệu người.[35]

Tổng sản phẩm quốc nội thời chiến (GDP) của phe Trục đạt 911 tỉ đô la ở mức cao nhất năm 1941 (tính theo đô la quốc tế, giá năm 1990).[37] GDP của phe Đồng Minh là 1.798 tỉ đô la. Chỉ riêng Hoa Kỳ đã đạt 1.094 tỉ đô la, cao hơn tổng GDP của toàn bộ phe Trục cộng lại.[38]

Gánh nặng chiến tranh đối với các nước tham chiến có thể đo bằng tỷ lệ phần trăm tổng sản phẩm quốc dân (GNP) dành cho chi tiêu quân sự.[39] Khoảng 1/4 GNP của Đức dành cho chiến tranh năm 1939, tăng lên 3/4 GNP vào năm 1944, trước khi nền kinh tế sụp đổ.[39] Năm 1939, Nhật Bản giành 22% GNP cho chiến tranh ở Trung Quốc; đến năm 1944 con số này cũng tăng lên 3/4 GNP.[39] Ý không huy động toàn diện nền kinh tế; tỷ lệ GNP dành cho chiến tranh nhìn chung vẫn ở mức tương đương trước chiến tranh.[39]

Ý và Nhật Bản thiếu năng lực công nghiệp, kinh tế tương đối nhỏ, phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và nguồn nhiên liệu, tài nguyên công nghiệp từ bên ngoài.[39] Vì vậy, mức độ huy động kinh tế chiến tranh của Ý và Nhật vẫn thấp, ngay cả đến năm 1943.[39]

Trong ba cường quốc Trục, Nhật Bản có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất, còn Đức và Ý có mức thu nhập tương đương Vương quốc Anh.[40]

Dầu mỏ của Romania mang lại cho nước này tầm quan trọng vượt trội trong cuộc chiến. Trong các năm 1940 và 1941, Romania cung cấp 94% và 75% lượng dầu nhập khẩu của Đức. Ý vốn thiếu cả sản lượng dầu tự nhiên lẫn tổng hợp – thậm chí phụ thuộc vào dầu của Romania còn nhiều hơn Đức. Việc mất nguồn dầu Romania sau khi nước này rút khỏi phe Trục vào tháng 8 năm 1944 đã dẫn tới lần đầu tiên Hitler thừa nhận rằng cuộc chiến đã thua.[41]

Các quốc gia thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Ba thế lực chính của phe Trục là:

Đức Ý Nhật Bản

Một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác nằm trong khối Trục vì bị bắt buộc hay có tính cách bù nhìn, một số khác gia nhập rồi tách ra tùy theo hoàn cảnh chính trị quân sự nhất thời. Những quốc gia và vùng lãnh thổ này đóng vai trò quân sự hay chính trị không đáng kể, và gồm có:

Bulgaria Hungary Romania
Thái Lan Phần Lan Iraq
Miến Điện Trung Quốc Croatia
Ý Campuchia Mãn Châu
Mông Cương Libya Đông Phi
Philippines Slovakia Pháp
Việt Nam Triều Tiên Đài Loan

Hình thành

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công căn cứ hải quân của Mỹ tại Trân Châu Cảng, Hawaii. Theo như điều khoản của Hiệp ước Tam cường, Đức Quốc xã chỉ phải đứng ra bảo vệ đồng minh của mình khi họ bị tấn công. Vì Nhật Bản là đối tượng ra tay trước, Đức và Ý không có nghĩa vụ phải hỗ trợ cho tới khi Mỹ phản công. Mặc dù vậy, Hitler đã chính thức tuyên chiến với Mỹ và Ý cũng tuyên bố chiến tranh.[42]

Nhà sử học Ian Kershaw cho rằng việc tuyên chiến với Mỹ là một sai lầm nghiêm trọng của Đức bởi điều này cho phép Mỹ tham chiến mà không vấp phải bất kỳ ràng buộc nào.[43] Tuy nhiên xét mặt khác, những con tàu khu trục Mỹ trên thực tế đã ở vào tình trạng đối đầu với những chiếc tàu ngầm U-boat của Đức trên Đại Tây Dương trong vài tháng, và một lời tuyên chiến ngay lập tức có thể giúp U-boat tấn công bất ngờ vào lúc mà sự phòng thủ bên phía Mỹ còn yếu và kém tổ chức.[44] Dù vậy kể từ thời điểm tham chiến, Mỹ đã đóng một vai trò chủ đạo trong việc tài trợ và tiếp tế cho phe Đồng Minh, trong hoạt động ném bom chiến lược và trong cuộc tiến công cuối cùng vào lãnh thổ Đức.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Goldberg, Maren; Lotha, Gloria; Sinha, Surabhi (ngày 24 tháng 3 năm 2009). "Rome-Berlin Axis". Britannica.Com. Britannica Group, inc. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2021.
  2. ^ Cornelia Schmitz-Berning (2007). Vokabular des Nationalsozialismus. Berlin: De Gruyter. tr. 745. ISBN 978-3-11-019549-1.
  3. ^ Cooke, Tim (2005). History of World War II. Quyển 1 – Origins and Outbreak. Marshall Cavendish. tr. 154. ISBN 0761474838. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2020.
  4. ^ Tucker, Spencer; Roberts, Priscilla Mary (2005). Encyclopedia of World War II A Political, Social and Military History. ABC-Clio. tr. 102. ISBN 9781576079997. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ Momah, Sam (1994). Global strategy : from its genesis to the post-cold war era. Vista Books. tr. 71. ISBN 9789781341069. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
  6. ^ a b Hedinger, Daniel (ngày 8 tháng 6 năm 2017). "The imperial nexus: the Second World War and the Axis in global perspective". Journal of Global History. 12 (2): 184–205. doi:10.1017/S1740022817000043. ISSN 1740-0228.
  7. ^ Glessgen, Martin-Dietrich; Holtus, Günter, biên tập (1992). Genesi e dimensioni di un vocabolario etimologico. Lessico Etimologico Italiano: Etymologie und Wortgeschichte des Italienischen (bằng tiếng Ý). Ludwig Reichert. tr. 63.
  8. ^ a b Watt, D. C. (1960). "The Rome–Berlin Axis, 1936–1940: Myth and Reality". The Review of Politics. 22 (4): 530–531.
  9. ^ a b Sinor 1959, tr. 291.
  10. ^ a b c d e Knox 2000, tr. 124.
  11. ^ Knox 2000, tr. 125.
  12. ^ Gooch, John (2007). Mussolini and His Generals: The Armed Forces and Fascist Foreign Policy, 1922–1940. Cambridge University Press. tr. 11.
  13. ^ Schreiber, Gerhard; Stegemann, Bern; Vogel, Detlef (1995). Germany and the Second World War. Oxford University Press. tr. 113.
  14. ^ Burgwyn 1997, tr. 68.
  15. ^ Leitz, Christian. Nazi Foreign Policy, 1933–1941: The Road to Global War. tr. 10.
  16. ^ Burgwyn 1997, tr. 75.
  17. ^ Burgwyn 1997, tr. 81.
  18. ^ a b Burgwyn 1997, tr. 82.
  19. ^ a b c d Burgwyn 1997, tr. 76.
  20. ^ a b c d Burgwyn 1997, tr. 78.
  21. ^ a b Neville 2004, tr. 123.
  22. ^ a b Knickerbocker, H.R. (1941). Is Tomorrow Hitler's? 200 Questions On the Battle of Mankind. Reynal & Hitchcock. tr. 7–8.
  23. ^ Neville 2004, tr. 123–125.
  24. ^ Martel, Gordon (2003). Origins of Second World War Reconsidered: A. J. P. Taylor and Historians . Routledge. tr. 179.
  25. ^ Martel, Gordon (2006). Austrian Foreign Policy in Historical Context. New Brunswick, New Jersey: Transaction Publishers. tr. 179.
  26. ^ Neville 2004, tr. 125.
  27. ^ a b c d e f g h Boscaro, Gatti & Raveri 1990, tr. 32–39.
  28. ^ Weinberg (2005), tr. 30–31
  29. ^ Boscaro, Gatti & Raveri 1990, tr. 33.
  30. ^ Boscaro, Gatti & Raveri 1990, tr. 38.
  31. ^ Boscaro, Gatti & Raveri 1990, tr. 39–40.
  32. ^ Hill 2003, tr. 91.
  33. ^ Shelley Baranowski. Axis Imperialism in the Second World War. Oxford University Press, 2014.
  34. ^ Stanley G. Payne. A History of Fascism, 1914–1945. Madison: University of Wisconsin Press, 1995. p. 379.
  35. ^ a b Harrison 2000, tr. 3.
  36. ^ Harrison 2000, tr. 4.
  37. ^ Harrison 2000, tr. 10.
  38. ^ Harrison 2000, tr. 10, 25.
  39. ^ a b c d e f Harrison 2000, tr. 20.
  40. ^ Harrison 2000, tr. 19.
  41. ^ Axworthy 1995, tr. 17–20.
  42. ^ Kershaw 2007, tr. 385.
  43. ^ Kershaw 2007, Chapter 10.
  44. ^ Duncan Redford; Philip D. Grove (2014). The Royal Navy: A History Since 1900. I.B. Tauris. tr. 182.

Tài liệu tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn in

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Asada, Sadao (2006). From Mahan to Pearl Harbor: The Imperial Japanese Navy and the United States. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 978-1-55750-042-7.
  • Axworthy, Mark (1995). Third Axis – Fourth Ally: Romanian Armed Forces in the European War, 1941–1945. London: Arms and Armour. ISBN 9781854092670.
  • Bachelier, Christian (2000). "L'armée française entre la victoire et la défaite". Trong Azéma & Bédarida (biên tập). La France des années noires. Quyển 1. Le Seuil.
  • Boscaro, Adriana; Gatti, Franco; Raveri, Massimo, biên tập (1990). Rethinking Japan: Literature, visual arts & linguistics (bằng tiếng Anh). Quyển 1. Psychology Press. ISBN 978-0-904404-78-4.
  • Bowen, Wayne H. (2000). Spaniards and Nazi Germany: Collaboration in the New Order. Columbia: University of Missouri Press. ISBN 978-0-8262-1300-6.
  • Brackman, Roman (2001). The Secret File of Joseph Stalin: A Hidden Life. London; Portland: Frank Cass. ISBN 978-0-7146-5050-0.
  • Leonard, Thomas M.; Bratzel, John F. (2007). Latin America During World War II. Lanham Road, Maryland; Plymouth, England: Rowman & Littlefield. ISBN 978-0-7425-3740-8.
  • Burgwyn, H. James (1997). Italian Foreign Policy in the Interwar Period, 1918–1940 (bằng tiếng Anh). Greenwood Publishing Group. ISBN 978-0-275-94877-1.
  • Churchill, Winston (1949). Their Finest Hour. The Second World War. Quyển II. Boston; Toronto: Houghton Mifflin. OCLC 396145.
  • Corvaja, Santi (2008) [2001]. Hitler & Mussolini: The Secret Meetings. New York: Enigma.
  • Donaldson, Robert H; Nogee, Joseph L (2005). The Foreign Policy of Russia: Changing Systems, Enduring Interests. Armonk, New York: M. E. Sharpe. ISBN 978-0-7656-1568-8.
  • Dull, Paul S (2007) [1978]. A Battle History of the Imperial Japanese Navy, 1941–1945. Annapolis: Naval Institute Press.
  • Harrison, Mark (2000) [1998]. The Economics of World War II: Six Great Powers in International Comparison. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-78503-7.
  • Hehn, Paul N. (1971). "Serbia, Croatia and Germany 1941-1945: Civil War and Revolution in the Balkans". Canadian Slavonic Papers. 13 (4). University of Alberta: 344–373. doi:10.1080/00085006.1971.11091249. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
  • Hill, Richard (2003) [2002]. Hitler Attacks Pearl Harbor: Why the United States Declared War on Germany. Boulder, CO: Lynne Rienner.
  • Jabārah, Taysīr (1985). Palestinian leader, Hajj Amin al-Husayni, Mufti of Jerusalem. Kingston Press. tr. 183. ISBN 978-0-940670-10-5.
  • Jokipii, Mauno (1987). Jatkosodan synty: tutkimuksia Saksan ja Suomen sotilaallisesta yhteistyöstä 1940–41 [Birth of the Continuation War: Analysis of the German and Finnish Military Co-operation, 1940–41] (bằng tiếng Phần Lan). Helsinki: Otava. ISBN 978-951-1-08799-1.
  • Kennedy-Pipe, Caroline (1995). Stalin's Cold War: Soviet Strategies in Europe, 1943 to 1956. New York: Manchester University Press. ISBN 978-0-7190-4201-0.
  • Kershaw, Ian (2007). Fateful Choices: Ten Decisions That Changed the World, 1940–1941. London: Allen Lane. ISBN 978-1-59420-123-3.
  • Kirby, D. G. (1979). Finland in the Twentieth Century: A History and an Interpretation. London: C. Hurst & Co. ISBN 978-0-905838-15-1.
  • Knox, MacGregor (2000). Common Destiny: Dictatorship, Foreign Policy, and War in Fascist Italy and Nazi Germany. Cambridge University Press. ISBN 978-0521582087.
  • Lebra, Joyce C (1970). The Indian National Army and Japan. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies. ISBN 978-981-230-806-1.
  • Lewis, Daniel K. (2001). The History of Argentina. New York; Hampshire: Palgrave MacMillan.
  • Lidegaard, Bo (2003). Dansk Udenrigspolitisk Historie, vol. 4 (bằng tiếng Đan Mạch). Copenhagen: Gyldendal. ISBN 978-87-7789-093-2.
  • Lowe, Cedric J.; Marzari, Frank (2002) [1975]. Italian Foreign Policy, 1870–1940. Foreign Policies of the Great Powers. London: Routledge.
  • McKercher, B. J. C.; Legault, Roch (2001) [2000]. Military Planning and the Origins of the Second World War in Europe. Westport, Connecticut: Greenwood Publishing Group.
  • Montgomery, John F. (2002) [1947]. Hungary: The Unwilling Satellite. Simon Publications.
  • Nekrich, Aleksandr Moiseevich; Ulam, Adam Bruno; Freeze, Gregory L. (1997). Pariahs, Partners, Predators: German-Soviet Relations, 1922–1941. Columbia University Press. ISBN 0-231-10676-9.
  • Neville, Peter (2004). Mussolini (bằng tiếng Anh). Psychology Press. ISBN 978-0-415-24989-8.
  • Paxton, Robert O (1993). "La Collaboration d'État". Trong J. P. Azéma & François Bédarida (biên tập). La France des Années Noires. Paris: Éditions du Seuil.
  • Payne, Stanley G. (1987). The Franco Regime, 1936–1975. Madison: University of Wisconsin Press. ISBN 978-0-299-11074-1.
  • Payne, Stanley G. (1999). Fascism in Spain, 1923–1977. Madison: University of Wisconsin Press. ISBN 978-0-299-16564-2.
  • Petrow, Richard (1974). The bitter years: The invasion and occupation of Denmark and Norway, April 1940–May 1945. New York: Morrow. ISBN 978-0688002756.
  • Piehler, G. Kurt; Grant, Johnathan A., biên tập (2023). The Oxford Handbook of World War II. New York: Oxford University Press. ISBN 9780199341795.
  • Potash, Robert A. (1969). The Army And Politics in Argentina: 1928–1945; Yrigoyen to Perón. Stanford: Stanford University Press.
  • Roberts, Geoffrey (2006). Stalin's Wars: From World War to Cold War, 1939–1953. Yale University Press. ISBN 0-300-11204-1.
  • Preston, Paul (1994). Franco: A Biography. New York: Basic Books. ISBN 978-0-465-02515-2.
  • Rodao, Florentino (2002). Franco y el imperio japonés: imágenes y propaganda en tiempos de guerra. Barcelona: Plaza & Janés. ISBN 978-84-01-53054-8.
  • Rohr, Isabelle (2007). The Spanish Right and the Jews, 1898–1945: Antisemitism and Opportunism. Eastbourne, England; Portland, Oregon: Sussex Academic Press.
  • Sarner, Harvey (1997). Rescue in Albania: One Hundred Percent of Jews in Albania Rescued from the Holocaust. Cathedral City, California: Brunswick Press.
  • Senn, Alfred Erich (2007). Lithuania 1940: Revolution From Above. Amsterdam; New York: Rodopi Publishers. ISBN 978-90-420-2225-6.
  • Seppinen, Ilkka (1983). Suomen ulkomaankaupan ehdot 1939–1940 [Conditions of Finnish Foreign Trade 1939–1940] (bằng tiếng Phần Lan). Helsinki: Suomen historiallinen seura. ISBN 978-951-9254-48-7.
  • Shepherd, Ben H. (2012). Terror in the Balkans: German Armies and Partisan Warfare. Cambridge: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-04891-1.
  • Shirer, William L. (1960). The Rise and Fall of the Third Reich. New York: Simon & Schuster. LCCN 60-6729.
  • Sinor, Denis (1959). History of Hungary. Woking; London: George Allen and Unwin.
  • Steinberg, David Joel (2000) [1982]. The Philippines: A Singular and a Plural Place. Boulder Hill, Colorado; Oxford: Westview Press. ISBN 978-0-8133-3755-5.
  • Walters, Guy (2009). Hunting Evil: The Nazi War Criminals Who Escaped and the Quest to Bring Them to Justice. New York: Broadway Books.
  • Weinberg, Gerhard L. (2005). A World at Arms: A Global History of World War II (ấn bản thứ 2). New York: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-85316-3.
  • Wettig, Gerhard (2008). Stalin and the Cold War in Europe. Landham, Md: Rowman & Littlefield. ISBN 978-0-7425-5542-6.
  • Wylie, Neville (2002). European Neutrals and Non-Belligerents During the Second World War. Cambridge; New York: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-64358-0.
  • Zaloga, Steven J. (2013). Tanks of Hitler's Eastern Allies 1941–45. Oxford: Osprey. ISBN 978-1-78096-020-3.

Nguồn trực tuyến

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Halsall, Paul (1997). "The Molotov–Ribbentrop Pact, 1939". New York: Fordham University. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện về Phe Trục.
  • Full text of the Pact of Steel
  • Full text of the Anti-Comintern Pact
  • Full text of The Tripartite Pact
  • Silent movie of the signing of The Tripartite Pact

Từ khóa » Trục Axis Là Gì