Thông tin chung: Công trình: Quần thể kiến trúc tôn giáo tại Mahabalipuram (Group of Monuments at Mahabalipuram) Địa điểm: Quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ (N12 37 0,012 E80 11 30,012) Thiết kế kiến trúc: Quy mô: Năm hình thành: Thế kỷ thứ 7 - 8 Giá trị: Di sản thế giới (1984; hạng mục i ; ii ; iii ; vi) Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km2 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1324 triệu người (năm 2016). Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia. Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn có số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim… Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên). Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle Kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á. Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn: Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay tổng hợp các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism. Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 534 TCN) sáng lập. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa). Jaina giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 trước TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn; Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (năm 1469 - 1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ. Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực. Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã có một tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành được nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14. Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như: Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này được thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền Bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông; Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga dynasty): thuộc vùng Kalinga (bao gồm cả bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I, giai đoạn năm 1238-1264. Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác. Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh cao vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (hoàng đế thứ năm Đế quốc Mughal, trị vì năm 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal đạt đến đỉnh cao với các công trinh nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort). Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19. Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (năm 1869 – 1948) lãnh đạo. Ngày nay, Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã. Bản đồ Ấn Độ và vị trí thị trấn Mahabalipuram, quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ Ấn Độ là một trong quốc gia nổi tiếng bởi công trình kiến trúc tôn giáo, đặc biệt là Kiến trúc cắt vào đá (Rock-cut rchitecture). Kiến trúc cắt vào đá của Ấn Độ rất đa dạng và phong phú hơn bất kỳ hình thức kiến trúc cắt đá nào trên thế giới. Kiến trúc cắt vào đá là hoạt động tạo ra một công trình kiến trúc bằng cách chạm khắc vào khối đá tự nhiên rắn chắc. Kiến trúc cắt đá của Ấn Độ chủ yếu mang tính chất tôn giáo, ngoại trừ giếng bậc thang (Stepwells, đẽo gọt vào trong đá tạo thành bể chứa. Các bậc thang cho phép tiếp cận với nước ở bất kỳ mức nước nào). Có hơn 1.500 cấu trúc cắt vào đá được biết đến ở Ấn Độ, trong đó chứa các tác phẩm nghệ thuật với tầm quan trọng toàn cầu và hầu hết được trang trí bằng những bức chạm khắc đá tinh xảo. Cấu trúc cắt vào đá thời Cổ đại và Trung đại này đại diện cho những thành tựu đáng kể về kỹ thuật kết cấu và nghề thủ công. Công sức bỏ ra xây dựng kiến trúc cắt vào đá thường rất lớn. Đá bị loại bỏ trong quá trình cắt, đẽo được sử dụng cho mục đích khác. Ở Ấn Độ, hang động từ lâu đã được coi là nơi linh thiêng, nơi tu sĩ thường sử dụng cho hoạt động tu luyện, tĩnh tâm tôn giáo. Hang động nhân tạo cũng được cho là linh thiêng như hang động tự nhiên. Hang được thiết kế tạo cảm giác như hang động tự nhiên với đặc điểm là không gian nhỏ và thiếu ánh sáng mặt trời. Kiến trúc cắt vào đá lâu đời nhất tại Ấn Độ có từ thế kỷ thứ 3 TCN, hầu hết là đền thờ và tu viện Phật giáo (phù hợp với ý tưởng tôn giáo của họ về chủ nghĩa khổ hạnh và đời sống tu luyện). Ban đầu, cấu trúc hang động nhân tạo được mô phỏng theo kết cấu gỗ, thậm chí được đánh bóng như gương. Chi phí xây dựng lớn của những hang động này cho thấy mối liên hệ giữa tôn giáo và thương mại. Những nhà truyền giáo Đạo Phật thường đồng hành với thương nhân trên các tuyến đường buôn bán quốc tế. Một số công trình tôn giáo cắt vào đá (chùa hang) xa hoa do các thương nhân giàu có ủy thác xây dựng với cột trụ, mái vòm và mặt tiền công phu. Chúng được thực hiện trong thời kỳ giao thương hàng hóa bùng nổ giữa Đế chế La Mã và Đông Nam Á qua Ấn Độ. Kiến trúc cắt đá (chùa hang) không chỉ được tạo ra bởi tu sĩ Phật giáo, mà còn được tạo ra bởi các vị vua Ấn Độ giáo từ miền nam Ấn Độ dành riêng cho những vị thần Hindu giáo (đền hang). Vào thế kỷ thứ 5, những ngôi chùa, đền hang dần nhường chỗ cho các ngôi chùa, đền với cấu trúc độc lập, song vẫn còn được xây dựng tiếp tục cho đến thế kỷ 12. Một trong những kiến trúc cắt đá nổi tiếng Ấn Độ là Quần thể công trình tôn giáo tại thị trấn Mahabalipuram, quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Thị trấn Mahabalipuram (hay Mamallapuram) nằm dọc theo bờ biển Coromandel, tại đông nam Ấn Độ và là một thị trấn cảng từ thời Vương triều Pallava (Pallava Dynasty, tồn tại năm 275 – 897). Tên của Thị trấn được đặt bởi vua Narasimhavarman I (Vương triều Pallava, trị vì năm 630- 668) có nghĩa là "Thành phố của cường quốc". Cùng với sự thịnh vượng về kinh tế, Mahabalipuram còn trở thành địa điểm hình thành những công trình tôn giáo chiếm một vị trí đặc biệt trong kiến trúc cổ điển Ấn Độ. Công trình tôn giáo tại Mahabalipuram được xây dựng phần lớn dưới thời vua Narasimhavarman I (trị vì năm 630- 668) và người kế vị là vua Rajasimhavarman II (Rajasimha Pallava, trị vì năm 700–728); thể hiện sự dịch chuyển từ kiến trúc cắt vào đá sang xây dựng công trình đứng độc lập. Công trình tôn giáo tại Mahabalipuram đánh dấu chất lượng cao của nghề thủ công trong khu vực vào thế kỷ thứ 6, cũng như việc tận dụng sáng tạo cảnh quan thiên nhiên (vách đá, tảng đá) vào cấu trúc xây dựng. Quần thể công trình tôn giáo tại Mahabalipuram có thể được chia thành 5 loại: Đền thờ tạc vào vách đá (Rathas): Được người dân địa phương gọi là “Ratha” (xe ngựa), vì chúng giống như những cỗ xe rước của một ngôi đền. Tại đây có các ngôi đền nguyên khối, được tạc từ một tảng đá lớn, hiển thị đầy đủ hình thức, đặc điểm của đền thờ đương đại và cho thấy các biến thể cả về mặt bằng, độ cao. Các ngôi đền được chạm khắc phong phú với họa tiết, mảng điêu khắc mô tả những vị thần Hindu và chân dung các vị vua. Hang thờ tạc vào vách đá (Cave Temples/ Mandapas): Các ngôi đền trong hang động tại Mahabalipuram đều chưa hoàn thiện, được hình thành bởi các nghệ nhân khoét vào trong vách đá, tiếp đó được đánh bóng và tạo ra các họa tiết, điêu khắc các hình tượng Hindu giáo. Quá trình tạo ra các đền hang tại đây có ảnh hưởng đến cấu trúc các ngôi đền Hindu giáo sau này. Địa điểm này có hơn mười ngôi đền bằng đá với niên đại từ thế kỷ thứ 7. Phù điêu đá (Rock Reliefs): Được hình thành trong thời vua Narasimhavarman I. Đây là những điêu khắc đầy sáng tạo của các bậc thầy. Có 4 bức phù điêu như vậy tại Mamallapuram. Đền thờ (Structural Temples): Được hình thành muộn hơn so với 3 loại trên, vào thời vua Rajasimha I (Vương triều Pallava, trị vì năm 730 – 765). Đầu tiên và khiêm tốn nhất là đền Mukundanayananar, tiếp theo là đền Olakkanesvara và nổi tiếng nhất là đền Shore. Cấu trúc đá khác: Được phát hiện trong quá trình khai quật xung quanh đền Shore. Các cấu trúc này được hình thành trong thời vua Narasimhavarman I (Vương triều Pallava, trị vì năm 630- 668). Ngoài ra, tại đây còn tiếp tục phát hiện các di tích khác trong quá trình khai quật khảo cổ học gần đây. Các ngôi đền tại Mahabalipuram phần lớn theo phong cách kiến trúc Dravidian (miền Nam Ấn Độ) với cấu trúc từ ngoài vào trong gồm: Sảnh hiên (Ardhamandapa), thường là không gian bán mở, chuyển tiếp từ không gian bên ngoài và bên trong đền; Không gian nghi lễ hay Bái đường (Mandapa), được bao quanh bởi bức tường với ít khoảng trống ở giữa để đi vòng quanh; Điện thờ hay Hậu cung (Garbhagriha), nơi đặt biểu tượng của các vị thần thờ trong đền, là căn phòng có một lối vào duy nhất, thường từ phía đông để có thể tiếp cận với mặt trời và không có cửa sổ; thông thường chỉ linh mục được phép vào; bên trong không có các trang trí. Phía trên của Điện thờ là một mái tháp, gồm Thân tháp (Shikhara), mang hình tượng ngọn núi); Đỉnh tháp (Amalaka) có hình một đĩa đá được phân thành các khía, tượng trưng cho hoa sen; Biểu tượng trên đỉnh tháp (Kalasa), có hình dạng giống một cái bình đựng nước, tượng trưng cho sự chào đón, giàu có và an lành. Các hàng cột bên trong ngôi đền theo phong cách kiến trúc Dravidian, thường là các hàng cột với chân cột trang trí hình tượng Vyala (một sinh vật thần thoại được nhìn thấy trong nhiều ngôi đền Nam Ấn Độ, sự kết hợp của sư tử, voi, ngựa). Ngôi đền theo phong cách kiến trúc Dravidian, miền Nam Ấn Độ Kiểu cột theo phong cách kiến trúc Dravidian, miền Nam Ấn Độ Quần thể di tích kiến trúc tôn giáo tại Mahabalipuram, quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1984) với tiêu chí: Tiêu chí (i): Bức phù điêu “Hậu duệ của sông Hằng” - giống như bức phù điêu tại hang động trên đảo Elephanta (Elephanta Island, bang Maharashtra, Ấn Độ), là một thành tựu nghệ thuật độc đáo, một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người. Tiêu chí (ii): Ảnh hưởng của các tác phẩm điêu khắc tại Mahabalipuram, được đặc trưng bởi sự mềm mại và uyển chuyển trong mô hình của chúng, lan truyền đến những nơi như Campuchia, Việt Nam và Java (Indonesia). Tiêu chí (iii): Mahabalipuram, trước hết là minh chứng đặc biệt cho nền văn minh Pallavas ở đông nam Ấn Độ. Tiêu chí (vi): Khu vực Di sản là một trong những trung tâm chính của tín ngưỡng thờ thần Siva. Sơ đồ vị trí các cụm di tích trong phạm vi Di sản Quần thể di tích kiến trúc tôn giáo tại Mahabalipuram, quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ Di tích đền thờ tại Mahabalipuram, quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ gồm 3 cụm di tích chính: Quần thể chính Mahabalipuram, Đền Mukunda Nayanar và Đền Pidari Ratha / Valian Kuttai Ratha: Quần thể chính Mahabalipuram Quần thể chính Mahabalipuram (Main complex of Mahabalipuram) nằm trên bờ biển Coromandel, vịnh Bengal (N12 37 3,00 E80 11 56,00), có niên đại vào thế kỷ thứ 7 và 8. Quần thể còn được gọi là "Bảy đền" (Seven Pagodas of Mahabalipuram). Kiến trúc cắt vào đá, đặc biệt là dạng đền thờ tạc vào vách đá (Rathas) tại đây đã trở thành mô hình cho các đền thờ ở phía nam Ấn Độ; Các đặc điểm kiến trúc, đặc biệt là các tác phẩm điêu khắc, đã được chấp nhận rộng rãi ở các ngôi đền Nam Ấn Độ, Campuchia, Việt Nam và Java (Indonesia).Quần thể chính Mahabalipuram có tới 40 di tích cổ và đền thờ Hindu được phân thành 5 nhóm: Rathas (những ngôi đền tạc vào đá hình cỗ xe với 10 Rathas chính); Mandapas (những ngôi đền trong hang động với 10 Mandapas chính); Đền thờ (3 ngôi đền); Phù điêu đá (2 bức phù điêu) và Các tàn tích khai quật. Quần thể có bố cục dựa trên hình chữ nhật, hình tròn, hoặc hình vuông lồng vào nhau. Các phù điêu, tác phẩm điêu khắc và kiến trúc thể hiện sự kết hợp truyền thống Hindu giáo (Ấn Độ giáo), giữa các giáo phái lớn nhất là Shaivism (tôn thờ Đấng tối cao Shiva - thần Hủy diệt, là một trong ba vị thần chính của đạo Hindu - Trimurti gồm: Brahma, Vishnu và Shiva), Vaishnavism (tôn thờ Đấng tối cao Vishnu - thần Bảo trợ) và Shakism (tôn thờ các nữ thần – Devi); là biểu tượng cho một vị thần hoặc một nhân vật trong thần thoại Hindu. Các di tích trong Quần thể lưu giữ nhiều bản khắc bằng tiếng Phạn thế kỷ 7 và 8, cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử, văn hóa, chính thể và tôn giáo Nam Ấn Độ thời trung cổ. Sơ đồ vị trí di tích quan trọng trong Quần thể chính Mahabalipuram: 1. Arjuna's Penance; 2. Paanchapandava Cave; 3. Krishna Mandapa; 4. Krishna's Butterball; 5. Trimurthy Cave; 6. Elephant Group; 7. Ganesha Ratha; 8. Varaha Cave Temple; 9. Raya Gopuram; 10. Lion Throne; 11. Mahishashumrdini; 12. Adivaraha Mandapa; 13. Old Light House; 14. Five/ Pancha Rathas; 15. Sculpture Workshop; 16. Tiger Cave; 17. Athiranachanda Cave; 18. Vishnu Temple; 19. The Shore Temple Cụm công trình cắt vào đá Pancha Rathas Cụm công trình Pancha Rathas (Five / Pancha Rathas, hình vẽ ký hiệu vị trí 14), được chạm khắc dưới thời vua Narasimhavarman I (trị vì năm 630- 668) với ý tưởng hiện thực hóa các ngôi đền được chạm từ đá nguyên khối, thay vì các ngôi đền bằng gỗ. Cụm công trình này được cho là chưa có tiền lệ trong kiến trúc Ấn Độ, trở thành khuôn mẫu cho xây dựng các ngôi đền cắt vào đá của người Dravidian (Dravidian peoples) tại miền Nam Ấn Độ. Cụm công trình có 5 công trình, hình dạng giống như một cỗ xe. Mỗi công trình được tạc trên một phiến đá granit nguyên khối. Mặc dù gọi là đền thờ, song những công trình kiến trúc này không bao giờ được thánh hiến vì chưa được hoàn thành sau cái chết của vua Narasimhavarman I. Cụm công trình được đặt theo tên của Pancha Pandavas (nữ anh hùng trong sử thi Hindu, một người phụ nữ xinh đẹp nhất trong thời đại của mình và được tiên tri là sẽ mang đến sự kết thúc của nhiều cuộc chiến tranh). 5 khối công trình bố cục thẳng hàng theo trục bắc - nam. Từ nam ra bắc gồm: Dharmaraja Ratha; Bhima Ratha; Arjuna Ratha; Nakula Sahadeva Ratha; và Draupadi Ratha. Mỗi khối công trình có một bố cục khác nhau, hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình chóp. Kích thước lớn nhất là 13m x11m và cao nhất là 12m. Tất cả các công trình đều có lối vào từ phía Tây ngoại trừ Nakula Sahadeva Ratha có lối vào từ phía Nam. 5 khối công trình đại diện cho sự đa dạng của kiến trúc vùng Dravidian Nam Ấn Độ thời đó và có thể bắt nguồn từ hình dạng xe ngựa bằng gỗ trong các đền thờ, từ các không gian tịnh xá (Viharas) và gian thờ (Chaitya) của Phật giáo. Các khối công trình có mái dạng tháp tròn, nhọn hoặc vòm. Các tháp có thể là tháp đơn (Ekathala), tháp 3 tầng (Trithala). Việc đục đẽo được thực hiện bởi các nghệ nhân điêu khắc đá. Trên những bức tường có các hốc tường hình chữ nhật. Bên trong chạm khắc hình tượng các vị thần, á thần và các vị vua. Bao quanh họ là hình tượng của những động vật hoang dã sống dưới nước với hình dáng "‘đuôi tán lá và hàm mở". Hiên nhà có các cột đỡ. Trên tường biên có cửa sổ vòm với hình chạm khắc trên cửa. Phía trên mái hiên có gờ lan can được chạm khắc trang trí. Công trình được bảo quản tốt do độ bền của đá granit. Ngoài công trình, tại đây còn có điêu khắc miêu tả con vật: Voi đứng ở phía đông của Nakula Sahadeva Ratha; Sư tử ở phía tây Draupadi Ratha; Bò đực ở phía đông của Arjuna Ratha. Phối cảnh tổng thể Cụm công trình cắt vào đá Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Sơ đồ vị trí di tích chính trong Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Draupadi Ratha nằm tại phía bắc của Cụm công trình Pancha Rathas, được dành riêng cho nữ thần Durga (vợ của thần Shiva, thần Mẫu, nữ thần Sức mạnh và Bảo vệ), song chưa hoàn thiện. Ngôi đền có mặt bằng hình vuông, kích thước 3,4m x3,4m, lối vào từ hướng tây. Thiết kế của công trình theo phong cách Nagara (Nagara Style, tại miền bắc Ấn Độ, cùng với kiến trúc Dravidian tại miền nam Ấn Độ) được đơn giản hóa. Đền có hình dáng một túp lều có mái hình nón. Mái nhà có thiết kế tán lá và dây leo ở các góc. Bệ nền của công trình có các gờ với trang trí hình tượng con thú. Tại hốc tường hai bên lối vào và bề mặt của công trình có trang trí là tượng nữ thần Durga đứng trên đầu trâu và các vị thần bảo vệ. Bên trong, trên bức tường phía sau có bức chạm khắc miêu tả nữ thần Durga trong vai Korravai (nữ thần Chiến tranh và Chiến thắng). Ngoài ra, trong Đền còn có nhiều chạm khắc hình các vị thần, sư tử và voi xen kẽ. Phía tây của công trình là tượng một con sư tử (Lion) có kích thước lớn. Phối cảnh đền Draupadi Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Sơ đồ mặt bằng, mặt đứng và chi tiết trụ góc Đền Draupadi Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bên trong điện thờ với búc phù điêu miêu tả nữ thần Durga,Đền Draupadi Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Arjuna Ratha nằm tại kề liền tại phía nam của đền Draupadi Ratha, trên cùng một bậc nền. Đền thờ thần Shiva, song cũng chưa được hoàn thiện. Đền được cho là bản sao của một ngôi đền bằng gỗ trước đó. Công trình có mặt bằng với kích thước 3,5m x 4,9m và cao 6,1m, lối vào từ hướng tây. Đền có cấu trúc đơn giản, hình thức tương tự như Đền Dharmaraja Ratha, chỉ khác là mái chia thành 3 tầng, thu nhỏ dần. Tầng mái 1 và tầng mái 2 có cấu trúc tương tự như nhau gồm các khối trang trí. Tầng mái 3 là một khối mái với mặt bằng hình bát giác. Tại mặt tường chính phía tây có một hàng hiên với 2 cột. Các mặt còn lại là trang trí được phân thành mảng bởi trụ tường. Những mảng tường được chạm khắc miêu tả các vị thần, nhà hiền triết. Bên trong Đền, tác phẩm điêu khắc trung tâm mô tả thần Shiva bắt chéo chân và dựa vào bò Nandi. Các bức tường xung quanh có những bức điêu khắc mô tả các vị thần hộ vệ. Hai bên của Đền Arjuna Rathas có tượng sư tử (Lion) và bò (Nandi). Phối cảnh Đền Arjuna Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Trang trí bề mặt Đền Arjuna Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bhima Ratha nằm tại phía nam của Đền Arjuna Rathas, trải dài theo hướng bắc nam. Đền được cho là thờ thần Vishnu. Đây là đền thờ lớn nhất trong 5 đền thờ tạc vào đá tại cụm công trình Pancha Rathas. Đền có mặt bằng kích thước 12,8m x 7,3m, cao 7,6m, hướng về phía tây. Công trình cao 2 tầng. Tầng dưới chưa hoàn thiện. Công trình gợi nhớ đến chùa hang Phật giáo, hoặc theo phong cách kiến trúc cung điện với mái chính dạng vòm thùng và mái hiên dài. Phía tây của Đền tạo thành một hang rộng với 2 hàng cột ; hàng trong 2 cột và hàng ngoài 4 cột. Phía đông của Đền là hàng hiên với một hàng 4 cột. Mặt bằng ngôi đền thuôn dài, được phỏng đoán là nơi bố trí một bức tượng nằm nghiêng của thần Vishnu. Bề mặt công trình được chạm khắc tinh xảo. Nội thất công trình chưa hoàn thiện, không có chạm khắc trang trí. Phối cảnh tổng thể Đền Bhima Rath, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Sơ đồ mặt bằng Đền Bhima Rath, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Dharmaraja Ratha nằm tại phía nam của Bhima Ratha. Tương tự như công trình khác, đền thờ bằng đá này là bản sao của một ngôi đền bằng gỗ trước đó và chưa hoàn thành. Đền có mặt bằng hình chữ nhật với kích thước 8,2m x 6,3m cao 10,9m; hàng hiên mở với các cột tại phía tây và trụ tường tại 3 mặt còn lại. Công trình cao 3 tầng. Tầng 1 có lưới cột rộng và các hàng cột quy mô lớn. Tầng 2 và 3 là không gian với các hàng cột nhỏ. Trên đỉnh mái là một tòa tháp với mặt bằng hình bát giác. 4 góc tường đều có điêu khắc thể hiện thần thánh: Thần Ardhanarishvara, là sự kết hợp của thần Shiva và thần Parvati (biểu tượng của sự sinh sản, tình yêu, sắc đẹp, hòa hợp, hôn nhân, con cái và sự tận tâm); Thần Harihara, là sự kết hợp của thần Shiva và thần Vishnu; Thần Brahma (biểu tượng cho sáng tạo, tri thức); Thần Skanda (còn gọi là Kartikeya, Kumara, Murugan, Mahasena, Shanmukha và Subrahmanya, biểu tượng cho chiến tranh); Thần Bhairava (Shiva). Tầng trên có những mảng chạm khắc hình tượng thần Shiva và Vishnu. Phối cảnh tổng thể Đền Dharmaraja Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đền Dharmaraja Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Nakula Sahadeva Ratha không nằm trên trục dọc của 4 công trình kể trên, mà nằm tách sang phía tây. Công trình chưa hoàn thành này là một ngôi đền kiểu Vesara, một dạng đền thờ chứa các yếu tố của cả hai phong cách Dravida (Dravidian Architecture, nổi bật tại Nam Ấn Độ) và Nagara (nổi bật ở Bắc Ấn Độ). Công trình dài 5,5m, cao 4,9 m, 2 tầng. Đền có thể thờ thần Brahma, thần Skanda, thần Ayyappan (biểu tượng cho sức mạnh, lòng dũng cảm, sự tự chủ) hoặc thần Indra (vua của các vị thần, biểu tượng cho bầu trời, sấm sét, mưa bão và chiến tranh). Phía đông của Đền Nakula Sahadeva Ratha là tượng voi. Phối cảnh tổng thể Đền Nakula Sahadeva Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Sơ đồ mặt bằng Đền Nakula Sahadeva Ratha, Cụm công trình Pancha Rathas, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Công trình cắt vào đá Ganesha Ratha Công trình Ganesha Ratha (hình vẽ ký hiệu 7), được hình thành vào cuối thế kỷ thứ 7, nằm trên một gò đồi tại phía tây bắc của Quần thể chính Mahabalipuram, cách Pancha Rathas khoảng 1km; ở mặt sau của tảng đá với bức phù điêu "Hậu duệ của sông Hằng". Công trình quay mặt về phía tây. Đây là một trong mười ngôi đền thờ tạc vào vách đá (Rathas) tại khu vực Di sản. Ban đầu đền thờ Shiva Linga (Lingam, biểu tượng của thần Shiva), nhưng vào những năm 1880, dân làng đã thay thế Shiva Linga bằng hình ảnh thần Ganesha (hình dạng đầu voi, mình người, tượng trưng cho tài trí, hạnh phúc và thành công; là con của thần Shiva và nữ thần Parvati). Ganesha Ratha là một công trình kiến trúc hoàn chỉnh, trong khi những ngôi đền gần đó chưa được hoàn thiện. Ganesha Ratha có mặt bằng hình chữ nhật, kích thước 6,1m x 3,5m, cao 8,5m. Điện thờ bên trong là một không gian rộng 2,1m x 1,2m và cao 2,1m. Công trình cao 3 tầng với hình thức tương tự như Đền Dharmaraja Ratha, chỉ khác biệt là phần mái trên cùng dạng vòm thùng. Tại mặt chính, tầng 1 và 2 chia thành 5 khối trang trí; tầng 3 thu gọn lại còn 4 khối. Tại mặt bên, tầng 1 và 2 chia thành 3 khối trang trí; tầng 3 thu gọn còn 2 khối. Mặt tiền chính hướng tây của công trình có hàng hiên với dãy 2 cột đơn và 2 trụ tường. Chân cột trang trí hình tượng Vyala (một sinh vật thần thoại được nhìn thấy trong nhiều ngôi đền Nam Ấn Độ, là sự kết hợp của sư tử, voi, ngựa). Phối cảnh Đền Ganesha Ratha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Paanchapandava Đền hang Paanchapandava (Paanchapandava Cave, hình vẽ ký hiệu 2) nằm tại trung tâm Quần thể chính Mahabalipuram, phía nam của Bức phù điêu "Hậu duệ sông Hằng". Đền hang hướng về phía đông, đang xây dựng dở dang. Công trình được xây dựng theo phong cách điển hình của kiến trúc Pallava, miền Nam Ấn Độ. Sảnh hiên (Ardhamandapa) có 6 cột đơn và 2 trụ vách tường có trang trí hình tượng Vyala. Ngôi đền là một hang động dài nhất trong số các đền hang của Khu Di tích với chiều dài đến 15m. Sau Sảnh hiên (Ardhamandapa) là không gian Bái đường (Mandapa) với 4 cột và 2 trụ tường. Phía sau Bái đường là Điện thờ hay Hậu cung (Garbhagriha). Đây là một không gian nhỏ được cắt theo hình bát giác với 2 hốc tường. Tường bên trong của Đền được chạm khắc. Trên mái của Đền là diềm mái với các trang trí. Bức ảnh chụp Đền Pandava Mandapa tại Mamallapuram, Ấn Độ, những năm 1860 (Thư viện Anh) Phối cảnh Đền hang Paanchapandava,Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Trimurthy Đền hang Trimurthy (Trimurthy Cave, hình vẽ ký hiệu 5) nằm tại phía bắc của Quần thể chính Mahabalipuram. Ngôi đền này khác với tất cả các ngôi đền hang khác tại Khu Di tích là không có Sảnh hiên (Ardhamandapa) vàkhông gian Bái đường (Mandapa), chỉ có không gian Điện thờ (Garbhagriha). Đền hướng về phía tây. Đền là một cụm gồm 3 Điện thờ đặt chung trên một bệ nền và sát cạnh nhau. Điện thờ chính giữa thờ thần Shiva. Phía trước của Điện thờ là linh vật Shiva Linga. Phia sau linh vật là tượng thần Shiva đứng, xung quanh có 4 vị thần hộ vệ. Điện thờ bên phải của Điện thờ chính thờ thần Vishnu. Trong Điện thờ có phù điêu thể hiện thần Vishnu trong tư thế đứng, 4 phía là các vị thần hộ vệ. Cạnh Điện thờ thần Vishnu có một điện thờ nhỏ thờ thần Durga. Bên trong có tượng thờ thần Durga đang đứng trên một cái đầu trâu. Điện thờ bên trái của Điện thờ chính thờ thần Surbrahmanya (thông thường là thần Brahma). Bên trong Điện thờ có phù điêu thể hiện thần Surbrahmanya (Kartikeya, Skanda, Kumara, Murugan, Mahasena, Shanmukha, biểu tượng cho chiến tranh) trong tư thế đứng, 4 phía là các vị thần hộ vệ. Phối cảnh Đền hang Trimurthy, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Điện thờ chính giữa thờ thần Shiva với linh vật Shiva Linga, Đền hang Trimurthy, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bên trong Điện thờ thần Vishnu Đền hang Trimurthy, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bên trong Điện thờ thần Surbrahmanya, Đền hang Trimurthy, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bên trong Điện thờ thần Durga, Đền hang Trimurthy, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Varaha Đền hang Varaha (Varaha Cave Temple, hình vẽ ký hiệu 8) được tạc vào một vách đá thẳng đứng tại phía tây của một ngọn đồi thuộc Quần thể Mamallapuram. Công trình được xây dựng vào thế kỷ thứ 7. Kiến trúc của ngôi đền đơn giản theo giáo phái Vaishnavism (tôn thờ Đấng tối cao Vishnu - thần Bảo trợ). Mặt tiền của ngôi đền bao gồm 2 cột và 2 trụ vách tường; phía sau là một không gian sảnh (Mandapa). Từ đây có một bậc thang lên Điện thờ khắc sâu vào trong vách đá. Cột hàng hiên có bệ cột rộng 0,61m x 0,61m. Chân cột có trang trí hình tượng Vyala. Thân cột hình bát giác, đỡ đỉnh cột là một đèn lồng và mũ cột đỡ dầm với 6 vòm trang trí phía trên. Phần trên của mặt tiền ngôi đền là các trang trí hình tượng 3 ngôi đền liên kết với nhau bởi hành lang. Các bức tường bên trong không gian Bái đường đều được chạm khắc tinh xảo, gồm 4 bức điêu khắc miêu tả truyền thuyết Hindu giáo: Truyền thuyết Vamana-Trivikrama (hóa thân/avatar của thần Vishnu trên trái đất dưới dạng người lùn, vật nhỏ bé); Truyền thuyết Varaha (hóa thân của thần Vishnu dưới dạng một con heo rừng); Truyền thuyết Durga (thần mẫu Durga) và Truyền thuyết Gajalakshmi (liên quan đến nữ thần Gajalakshmi - biểu tượng giàu có, quyền lực, sinh sản, tình yêu, niềm vui, sắc đẹp; Nữ thần Gajalakshmi cùng với nữ thần Parvati và nữ thần Saraswati - biểu tượng của tri thức, âm nhạc, nghệ thuật, ngôn ngữ, tạo thành ba ngôi chính của nữ thần Hindu giáo - Trideva/ Trimurti, tương đương với ba ngôi chính của nam thần Brahma, Vishnu và Shiva để tạo ra, duy trì và tái tạo vũ trụ). Hai bên của lối vào Điện thờ có tượng thần hộ mệnh. Điện thờ bên trong chưa được hoàn thành. Phối cảnh Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Mặt bằng Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bên trong không gian Bái đường, Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bức phù điêu liên quan đến truyền thuyết Vamana-Trivikrama, Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bức phù điêu liên quan đến truyền thuyết Varaha, Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bức phù điêu liên quan đến truyền thuyết Durga, Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bức phù điêu liên quan đến truyền thuyết Gajalakshmi, Đền hang Varaha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Mahishashumrdini Đền Mahishashumrdini (Mahishashumrdini Mandapa,hình vẽ ký hiệu 11) nằm tại trung tâm Quần thể Mamallapuram, được xây dựng vào thế kỷ thứ 7. Đền cắt vào trong vách của một hòn đá được gọi là "Ngọn hải đăng" (Olakkanatha). Trên đỉnh hòn đá có một ngôi đền mang tên Olakkannesvara. Ngôi đền quay mặt về hướng đông, thờ thần Vishnu, thần Durga và thần Shiva. Đền có mặt bằng với kích thước 9,8m x 4,6m, cao 3,8m. Hàng hiên của Đền có 3 gian với 4 cột và 2 trụ vách tường. Cột có dạng đơn giản. Bên trong Bái đường, phía trước Điện thờ chính được nhấn mạnh bởi một khối trang trí với 2 cột. Chân cột có hình tượng Vyala. Tường xung quanh Bái đường có 3 bức phù điêu được chạm khắc tinh xảo, miêu tả sự tích liên quan đến thần Vishnu, thần Durga và thần Shiva. Sau Bái đường là 3 Điện thờ, bên trong đặt các biểu tượng gắn với 3 vị thần được thờ trong đền. Trên mặt tiền của Đền có các bức chạm khắc còn dang dở. Mặt trước Đền Mahishashumrdini, phía trên là Đền Olakkanesvara, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bức chạm khắc miêu tả sự tích liên quan đến thần Durga, Đền Mahishashumrdini, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ; phía trước, bên trái ảnh là cột có trang trí hình tượng Vyala Bức chạm khắc miêu tả sự tích liên quan đến thần Shiva, Đền Mahishashumrdini, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Adivaraha Đền hang Adivaraha (Adivaraha Mandapa, hình vẽ ký hiệu 12) nằm tại phía tây của Quần thể Mamallapuram, phía bắc của công trình Pancha Rathas. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 7. Đền thờ thần Vishnu, được cho là mô phỏng theo kiến trúc đền bằng gỗ. Đền hang Adivaraha hiện vẫn còn được sử dụng. Đền được biết tới với các tác phẩm điêu khắc liên quan đến các truyền thuyết Hindu giáo về Shaivism (tôn thờ Đấng tối cao Shiva - thần Hủy diệt), Vaishnavism (tôn thờ Đấng tối cao Vishnu - thần Bảo trợ) và Shakism (tôn thờ các nữ thần – Devi). Ngoài ra, những bức điêu khắc còn miêu tả các vị vua nổi tiếng thời bấy giờ. Ngôi đền hiện bị bao phủ bởi bức tường xây dựng sau này, nên đền hang tối và ẩm thấp. Cấu trúc của Đền tương tự như cấu trúc của các đền hang khác trong Khu vực Di sản. Mặt ngoài Đền hang Adivaraha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Một bức chạm khắc bên trong Đền hang Adivaraha, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Atiranachanda Đền hang Atiranachanda (Atiranachanda Cave, hình vẽ ký hiệu 17), nằm tại phía bắc của Quần thể chính Mahabalipuram. Công trình được xây dựng vào thế kỷ thứ 7. Công trình có mặt tiền nhỏ với cột bát giác tại sảnh hiên. Phía sau sảnh hiên là Bái đường (Mandapa) và Điện thờ. Lối vào chính của Đền có hai tượng hộ pháp (Dvarapalas Shaiva). Bên trong Điện thờ đặt một Shiva Linga 16 mặt. Trên bức tường phía sau Điện thờ là một tấm phù điêu Somaskanda (miêu tả thần Shiva và vợ là nữ thần Parvati đang bế đứa trẻ sơ sinh Skanda, sau này là vị thần Chiến tranh). Lân cận của ngôi đền là những di tích, trong đó có bức phù điêu bằng đá 3m x 6m. Ngôi đền còn có 16 dòng chữ Phạn theo bảng chữ cái Grantha vùng Nam Ấn Độ trên bức tường phía nam và theo bảng chữ Nāgarī của vùng Bắc Ấn Độ trên bức tường phía bắc. Các bản chữ khắc này cơ ngợi công tích của các vị thần Shiva, Parvati và Skanda. Phối cảnh Đền hang Atiranachanda, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền hang Tiger Đền hang Tiger (Tiger Cave, hình vẽ ký hiệu 16) nằm tại phía đông bắc của Quần thể Mamallapuram, gần với Đền hang Athiranachanda (Athiranachanda Cave). Hang được đặt tên theo các hình đầu hổ trên mặt tiền của hang. Đền được xây dựng vào thời vương triều Pallava, thế kỷ thứ 8 và được cắt vào vách đá. Mặt trước Đền hang Tiger, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền Krishna Đền Krishna (Krishna Mandapa, hình vẽ ký hiệu 3) nằm trên một gò đồi, gần bức phù điêu "Hậu duệ sông Hằng". Ban đầu, đây là một bức phù điêu ngoài trời dành riêng cho thần Krishna (được tôn thờ như đại diện thứ tám của thần Vishnu, biểu tượng của sự bảo vệ, từ bi, dịu dàng và tình yêu; là một những vị thần phổ biến nhất và được tôn kính rộng rãi trong Hindu giáo). Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 7. Vào thế kỷ thứ 16, dưới thời Đế chế Vijayanagara (tồn tại năm 1336–1646), bức phù điêu được bọc trong một ngôi đền (Mandapa). Ngôi đền hướng về phía đông, dài 8,8m, chiều cao 3,7m. Sảnh hiên (Ardhamandapa) và Bái đường Bái đường (Mandapa) là một không gian với 3 hàng 4 cột đơn và trụ vách tường. Tường bao 3 mặt, trừ mặt đông, được xây bằng đá granit địa phương. Bên trong Đền có 9 bức phù điêu được chạm khắc trên bề mặt đá. Tất cả đều có niên đại từ thế kỷ thứ 7 và được bổ sung thêm vào thế kỷ 16. Một trong những bức phù điêu kể lại câu chuyện thần Krishna nâng Đồi Govardhana (ngọn đồi linh thiêng trong Hindu giáo) để bảo vệ những người chăn nuôi bò khỏi những trận mưa và lũ lụt…Các bức phù điêu khác miêu tả cuộc sống đời thường của người dân và các truyền thuyết trong sử thi Ấn Độ. Phối cảnh tổng thể Đền hang Paanchapandava, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Mảng phù điêu tạc vào đá bền trong Đền Paanchapandava, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền Olakkannesvara Đền Olakkanesvara còn được gọi là là "Ngọn hải đăng cổ" (Old Light House, hình vẽ ký hiệu 13) nằm trên tảng đá phía trên Đền hang Mahishamardini. Ngôi đền được hình thành vào đầu thế kỷ thứ 8 bởi vua Rajasimha I (trị vì năm 730 – 765). Công trình được xây dựng bằng đá granit xám cắt thành từng khối. Đền có mặt bằng hình vuông. Lối vào từ phía tây, được bảo vệ bởi chiến binh giám hộ (Dvarapala). Các bức tường trong Đền miêu tả truyền thuyết Ravananugraha liên quan đến thần Shiva. Phối cảnh Đền Olakkanesvara, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ; bên dưới là Đền hang Mahishamardini. Trang trí bề mặt Đền Olakkanesvara, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Cụm đền Shore Đền Shore (Shore Temple, hình vẽ ký hiệu 19) là một cụm các ngôi đền nằm dọc theo vịnh Bengal với lối vào chính từ phía tây, phía biển. Toàn bộ khu phức hợp đền được gọi là "Jalashayana" (nằm trong nước). Công trình được vua Narasimhavarman II (vương triều Pallava, trị vì năm 700 – 729) khởi dựngnăm 700-728, vào thời kỳ nơi đây là một bến cảng sầm uất. Ngôi đền có thể đóng vai trò như một cột mốc dẫn đường cho những người đi biển. Theo truyền thuyết, Marco Polo (nhà thám hiểm nổi tiếng người Venezia, Ý, năm 1254 – 1324) và các thương gia châu Âu theo ông đến châu Á đã gọi địa điểm này là ‘ Bảy ngôi đền’. Một trong số này là Đền Shore. Đền Shore là một phức hợp kiến trúc được đánh giá là đỉnh cao của những sáng tạo kiến trúc thời bấy giờ. Trận sóng thần vào cuối năm 2004 tràn vào bờ biển Coromandel đã làm lộ ra một ngôi đền cũ bị sập. Qua đây, người ta phỏng đoán rằng còn có các công trình khác (trong số Bảy ngôi đền) nằm dưới mực nước biển. Trận sóng thần cũng làm lộ ra một số tác phẩm điêu khắc đá cổ về sư tử, voi và các con thú khác, được sử dụng để trang trí các bức tường và đền thờ trong thời kỳ vương triều Pallava. Cụm đền Shore gồm 3 ngôi đền: Kshatriyasimha Pallavesvara-gruham, Rajasimha Pallavesvara-gruham và Pllikondaruliya-devar, trên cùng một bậc nền và được xây dựng bằng đá granit, khai thác từ một mỏ gần đó. Ngôi đền chính Kshatriyasimha Pallavesvara-gruham là nơi thờ biểu tượng Shiva Linga. Ngôi đền thứ hai Rajasimha Pallavesvara-gruham nhỏ hơn, cũng là nơi thờ biểu tượng Shiva Linga. Ngôi đền thứ ba Pllikondaruliya-devar có quy mô nhỏ nhất, nằm giữa hai ngôi đền, thờ thần Vishnu nằm nghiêng. Cấu trúc của cụm công trình với hai đền thờ thần Shiva (giáo phái Shaivism) và một đền thờ thần Vishnu (giáo phái Vaishnavism) cho thấy nỗ lực kết nối các giáo phái với nhau. Hai ngôi đền thờ thần Shiva theo phong cách kiến trúc Dravidian (miền Nam Ấn Độ). Nhìn từ đầu hướng bắc, các ngôi đền dường như là một bản sao của ngôi đền cắt vào đá Dharmaraja Ratha. Ngôi đền chính thờ thần Shiva quay mặt về hướng đông để các tia nắng chiếu vào biểu tượng Shiva Linga trong đền. Đền chính gồm Sảnh hiên kết hợp Bái đường với mặt bằng hình chữ nhật; phía sau là Điện thờ với mặt bằng hình vuông. Xung quanh Đền là bức tường dày, che 3 mặt, mở ra phía tây. Cấu trúc tháp mái của đền cao 18m, 3 tầng, đáy hình vuông mỗi chiều rộng 15m. Ngôi đền phụ thờ thần Shiva quay mặt về hướng tây, ra phía biển. Đền phụ có mặt bằng tương tự như Đền chính song quy mô nhỏ hơn. Đền thờ phụ không nằm trên trục tổ hợp của Đền thờ chính. Cấu trúc tháp mái của Đền phụ cao 2 tầng; thân tháp (Shikhara) hình bát giác dật bậc. Đền thờ phụ này có thể xây dựng bổ sung sau này. Ngôi đền phụ thờ thần Vishnu nằm giữa hai ngôi đền trên, song có trục tổ hợp trùng với Đền chính; lối vào từ phía đông. Bái đường và Điện thờ có mặt bằng hình chữ nhật dài. Bên trong Điện thờ có tượng Anantashayi Vishnu (thể hiện tư thế nằm nghiêng của Vishnu trên con rắn Ananta). Cấu trúc tháp mái của Đền hiện không còn. Ngôi đền được cho là được xây dựng sớm nhất trong Cụm đền Shore. Bên trong Bái đường và Điện thờ của 3 ngôi đền ít có trang trí. Song các cột tại Bái đường (kết hợp Sảnh hiên) đều được chạm khắc với hình tượng Vyala. Các trang trí mặt ngoài tương tự như đền cắt vào đá Pancha Rathas. Toàn bộ các bức tường xung quanh 3 đền thờ và bức tường bao quanh Đền chính đều có các chạm khắc trang trí, ca ngợi các vị thần và lan truyền sự tích tôn giáo. Năm 1990, Cơ quan Khảo sát Khảo cổ học Ấn Độ (ASI) đã phát hiện ra một ngôi đền thu nhỏ thờ thần Shiva trong một chiếc giếng dật bậc hình elip. Đền được hình thành từ thế kỷ thứ 7. Phối cảnh tổng thể Cụm đền Shore, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Mặt bằng 3 ngôi đền trong Cụm đền Shore, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Linh vật Shiva Linga trong Đền chính thờ thần Shiva, Cụm đền Shore, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Tượng thần Vishnu nằm trong Đền phụ thờ thần Vishnu, Cụm đền Shore, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền thờ thu nhỏ trong Cụm đền Shore, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Bức phù điêu "Hậu duệ sông Hằng" "Hậu duệ sông Hằng" (Descent of the Ganges, còn được gọi là Arjuna's Penance/Bhagiratha's Penance, hình vẽ ký hiệu 1) là một bức phù điêu khổng lồ bằng đá lộ thiên, hướng về phía đông, được chạm khắc trên 2 tảng đá nguyên khối với kích thước 29m x 13m. Bức phù điêu được coi là một trong những tác phẩm phù điêu lớn nhất thế giới, tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc đá Ấn Độ. Truyền thuyết được miêu tả trong Bức phù điêu là câu chuyện về dòng sông thiêng Ganges (nhân cách hóa thành Nữ thần sông Hằng của Ấn Độ giáo) được vị vua huyền thoại Bhagiratha mang từ Thiên đàng đến Trái đất. Bức phù điêu được tạo ra để kỷ niệm chiến thắng của Narasimhavarman I (vua của triều đại Pallava, trị vì năm 630- 668, tại miền nam Ấn Độ, trước Pulakesin II (vua của triều đại Chalukiya, trị vì năm 610 – 642, tại miền nam và trung Ấn Độ). Khe nứt tự nhiên nằm giữa hai tảng đá được điêu khắc một cách khéo léo. Một bể nước đặt trên đỉnh tảng đá là biểu tượng sông Hằng. Nước chảy tràn qua khe hở và bức phù điêu tạo ấn tượng về việc sông Hằng từ trên trời xuống đất theo dẫn dắt của thần Shiva. Bức phù điêu bao gồm 146 nhân vật thần, con người, nửa người và nửa động vật, động vật. Tại đây còn có các chạm khắc hình tượng voi (như kích thước thật), khỉ, nhân vật nửa người nửa ngựa (là nam được gọi là Kinnara, là nữ gọi là Kinnari), nửa người nửa chim. Nhân vật Kinnara cầm nhạc cụ; Nhân vật Kinnari cầm chũm chọe. Thần Shiva được tạc ở phía trước biểu tượng sông Hằng (bên phải khe hở) trong tư thế đứng cùng với Bhagiratha, nhà hiền triết đang đứng trên một chân cầu nguyện. Bức phù điêu miêu tả Mặt trời tại bên trái và Mặt trăng ở bên phải; cảnh săn bắn với hình tượng thợ săn và con thú như sư tử, hươu…Trên bức phù điêu còn miêu tả cảnh một ngôi đền với vị thần Vishnu được tạc bên trong. Hình ảnh Bức phù điêu "Hậu duệ sông Hằng", Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ; bên trái ảnh là Đền hang Paanchapandava Hình ảnh chi tiết một đoạn Bức phù điêu "Hậu duệ sông Hằng", Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Các bức phù điêu đá khác Trong phạm vi Di sản có nhiều chạm khắc trên đá hoặc trên tảng đá. Ngoài tượng voi đá, sư tử đá, bò đá tại Công trình Pancha Rathas; Bức phù điêu đá nổi tiếng "Hậu duệ sông Hằng"…tại đây còn có các phù điêu đá như: Tượng voi khắc trên một tảng đá (Elephant Group, hình vẽ ký hiệu 6); Tượng sư tử nằm trên một bệ tượng trưng cho ngai vàng (Lion Throne, hình vẽ ký hiệu 10). Tượng sư tử trên một tảng đá như ngai vàng (Lion Throne), Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Tượng voi khắc trên một tảng đá (Elephant Group), Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Trong phạm vi khu vực Di sản vẫn còn tồn tại ngôi làng của những người thợ đục, đẽo đá (Sculpture Workshop, hình vẽ ký hiệu 15). Ngày nay, những nghệ nhân đá (với khoảng hơn một ngàn người) vẫn tiếp tục tạo ra các tác phẩm phức tạp và tinh xảo cho thị trường rộng lớn xung quanh. Nghệ nghân trong Làng thủ công truyền thống đẽo, tạc đá nghệ thuật, Quần thể chính Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Đền Mukunda Nayanar Đền Mukunda Nayanar (Mukunda Nayanar Temple) nằm ở phía bắc Mamallapuram, trên một ngọn đồi (N12 37 38.086 E80 11 41.586). Công trình được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 8, do vua Rajasimha I (trị vì năm 730 -765) khởi xướng. Ngôi đền có hình dáng kiến trúc giống ngôi đền cắt vào trong đá (Ratha). Đền có mặt bằng bằng hình vuông đơn giản, hướng về phía đông. Mặt tiền chính có Sảnh hiên với 2 cột tròn nhỏ. Tường xung quanh Đền được xây bằng đá granit gắn với các bổ trụ tường. Sau Sảnh hiên là Điện thờ (Garbhagriha). Trần phía trên của Điện thờ được nâng cao để tạo thành một tháp mái (Shikhara, mang hình tượng ngọn núi). Tháp mái cao 2 tầng với tầng trên thu nhỏ lại và có hình dáng như mái của ngôi đền cắt vào trong đá. Phối cảnh Đền Mukunda Nayanar, Quần thể di tích kiến trúc tôn giáo tại Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Công trình cắt vào đá Pidari Ratha và Valian Kuttai Ratha Pidari Ratha và Valian Kuttai Ratha là cụm công trình cắt vào đá, nằm tại phía tây Mamallapuram (N12 37 9.829 E80 11 15.292). Các công trình đều chưa hoàn thành. Công trình Valayankuttai Ratha có kiến trúc kiểu Nagara miền Bắc Ấn Độ. Công trình Pidari Ratha gồm 2 khối nhà đặt cạnh nhau, có kiến trúc kiểu Dravida miền Nam Ấn Độ. Phối cảnh Cụm công trình cắt vào đá Pidari Ratha và Valian Kuttai Ratha,Quần thể di tích kiến trúc tôn giáo tại Mahabalipuram, Tamil Nadu, Ấn Độ Di sản đền thờ tại Mahabalipuram, quận Chengalpattu, bang Tamil Nadu, Ấn Độ nổi tiếng bởi các kiến trúc tôn giáo cắt vào đá. Đây là một dạng kiến trúc đa dạng và phong phú hơn bất kỳ hình thức kiến trúc cắt đá nào trên thế giới. Di sản là niềm tự hào to lớn về truyền thống văn hóa của Ấn Độ, một cường quốc văn hóa. Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD Nguồn : https://whc.unesco.org/en/list/249/ https://en.wikipedia.org/wiki/India https://en.wikipedia.org/wiki/Mamallapuram https://en.wikipedia.org/wiki/Seven_Pagodas_of_Mahabalipuram https://en.wikipedia.org/wiki/Group_of_Monuments_at_Mahabalipuram https://en.wikipedia.org/wiki/Descent_of_the_Ganges_(Mahabalipuram) https://en.wikipedia.org/wiki/Pallava_dynasty https://en.wikipedia.org/wiki/Narasimhavarman_I https://en.wikipedia.org/wiki/Dravidian_architecture https://en.wikipedia.org/wiki/Indian_rock-cut_architecture https://en.wikipedia.org/wiki/Vastu_shastra https://en.wikipedia.org/wiki/Hindu_temple_architecture https://en.wikipedia.org/wiki/Mamallapuram https://en.wikipedia.org/wiki/Pancha_Rathas https://en.wikipedia.org/wiki/Dharmaraja_Ratha https://en.wikipedia.org/wiki/Draupadi_Ratha https://en.wikipedia.org/wiki/Arjuna_Ratha https://en.wikipedia.org/wiki/Bhima_Ratha https://en.wikipedia.org/wiki/Nakula_Sahadeva_Ratha https://en.wikipedia.org/wiki/Ganesha_Ratha https://en.wikipedia.org/wiki/Panchapandava_Cave_Temple https://en.wikipedia.org/wiki/Krishna%27s_Butterball https://en.wikipedia.org/wiki/Krishna_Mandapam,_Mahabalipuram https://en.wikipedia.org/wiki/Shore_Temple https://en.wikipedia.org/wiki/Varaha_Cave_Temple https://en.wikipedia.org/wiki/Mahishasuramardini_Mandapa https://en.wikipedia.org/wiki/Olakkannesvara_Temple https://en.wikipedia.org/wiki/Vesara https://smarthistory.org/shore-temple-mamallapuram/ https://puratattva.in/2016/08/07/mamallapuram-trimurti-cave-4078 https://www.coroflot.com/archiwebresource/Humanities-Indian-Architecture-Session-9 https://en.wikipedia.org/wiki/Group_of_Monuments_at_Mahabalipuram https://tamilnadu-favtourism.blogspot.com/2015/10/pancha-rathas.html https://en.wikipedia.org/wiki/Tiger_Cave_(India) Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi |