Quy định Về Trưng Cầu Giám định Chứng Cứ Bị Tố Cáo Là Giả Mạo
Có thể bạn quan tâm
Mục lục bài viết
- 1 1. Chủ thể có quyền trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo trong tố tụng dân sự:
- 2 2. Đối tượng có quyền yêu cầu trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo trong tố tụng dân sự:
- 3 3. Quy định về trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo trong tố tụng dân sự:
- 4 4. Thủ tục trưng cầu giám định trong tố tụng dân sự:
1. Chủ thể có quyền trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo trong tố tụng dân sự:
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2012 thì ta có thể hiểu giám định tư pháp là việc các chủ thể là người giám định sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự theo trưng cầu của cơ quan tố tụng hoặc người yêu cầu.
Vì đặc thù và tính chất của các chủ thể trong pháp luật tố tụng dân sự, cho nên chủ thể có thẩm quyền trưng cầu giám định là Tòa án theo quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Căn cứ trưng cầu giám định là khi có đương yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thẩm quyền ra quyết định trưng cầu giám định.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp cụ thể các đương sự vẫn có quyền tự mình yêu cầu giám định, với điều kiện là họ đã yêu cầu Tòa án nhưng cơ quan này không tiến hành trưng cầu. Việc ban hành quy định này đã góp phần quan trọng giúp đương sự tránh lệ thuộc quá nhiều vào Tòa án, tự mình tiến hành thu thập chứng cứ nhằm giải quyết vụ án khách quan.
Như vậy, thẩm quyền trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo theo quy định của pháp luật là do Tòa án, người tiến hành tố tụng thực hiện.
2. Đối tượng có quyền yêu cầu trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo trong tố tụng dân sự:
Theo quy định tại khoản 7 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có nội dung cụ thể như sau:
“Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, đương sự có quyền, nghĩa vụ sau đây:
7. Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản.”.
Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 102 Tố tụng dân sự năm 2015 có nội dung cụ thể như sau:
“Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự”
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các đương sự trong vụ án dân sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng trong việc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo hoặc tự mình yêu cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự.
3. Quy định về trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo trong tố tụng dân sự:
Trong thực tiễn các vụ việc dân sự, hiện nay có rất nhiều các trường hợp cần phải trưng cầu giám định cụ thể như là: giám định ADN (xác nhận cha, mẹ, con); giám định chữ ký (hợp đồng, thừa kế); giám định thương tích (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)… Đối với các vụ việc được nêu cụ thể bên trên thì kết luận giám định có tính chất quyết định đối với phán quyết của Tòa án. Không những thế, khi chứng cứ trong vụ việc dân sự bị tố là giả mạo thì các chủ thể là người tố cáo cũng có thể yêu cầu Toà án trưng cầu giám định dựa theo các căn cứ tại Điều 103 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về trưng cầu chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì theo Điều 103 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định nội dung cụ thể như sau:
“1. Trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật này.
2. Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án chuyển tài liệu, chứng cứ có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
3. Người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác và phải chịu chi phí giám định nếu Tòa án quyết định trưng cầu giám định.”
Thông qua quy định cụ thể nêu trên, ta có thể hiểu trưng cầu chứng cứ bị tố cáo là giả mạo như sau:
Việc trưng cầu chứng cứ bị tố cáo là giả mạo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại chứng cứ đó nếu không rút lại thì các chủ thể là người tố cáo có quyền yêu cầu tòa án hoặc tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đối với trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì tòa án sẽ thực hiện chuyển tài liệu, chứng cứ có liên quan cho cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Các chủ thể là người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo phải bồi thường thiệt hại cho các chủ thể bị ảnh hưởng bởi chứng cứ đó nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác và phải chịu chi phí giám định nếu tòa án quyết định trưng cầu giám định.
Về việc giám định được bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định như sau: Các đương sự có quyền yêu cầu tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị tòa án trưng cầu giám định nhưng tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Đối với tòa án, theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định.
Pháp luật hiện hành quy định, Tòa án cho phép người đưa ra chứng cứ giả mạo có quyền rút lại chứng cứ đã đưa ra, tuy nhiên nếu họ cố tình không rút lại chứng cứ đã đưa ra thì người tố cáo có quyền yêu cầu. Việc trưng cầu giám định được thực hiện cụ thể như sau:
– Theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định được thẩm phán đưa ra cần phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
– Các chủ thể là người giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định phải tiến hành giám định theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và các quy định cụ thể khác có liên quan.
– Đối với trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Cần lưu ý rằng các chủ thể là người đã thực hiện việc giám định trước đó không được thực hiện giám định lại. Và nếu có căn cứ cho rằng có dấu hiệu của tội phạm hình sự thì sẽ chuyển cho cơ quan công an có thẩm quyền xử lý các vụ án hình sự. Nếu các chủ thể đưa ra chứng cứ giả mạo mà gây ra thiệt hại thì sẽ phải bồi thường thiệt hại cho các chủ thể là người bị thiệt hại theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
4. Thủ tục trưng cầu giám định trong tố tụng dân sự:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì thủ tục yêu cầu trưng cầu giám định trong tố tụng dân sự của đương sự được thực hiện cụ thể như sau:
Chuẩn bị:
– Các đương sự cần xác định nơi nộp yêu cầu trưng cầu giám định: nơi nộp đơn yêu cầu trưng cầu giám định là Tòa án Nhân dân nơi đã thụ lý đơn khởi kiện.
– Hồ sơ cần có bao gồm:
+ Đơn yêu cầu trưng cầu giám định.
+ Các tài liệu chứng minh cơ sở của yêu cầu để thẩm phán nghiên cứu hồ sơ có thể xem xét, đánh giá việc ra quyết định trưng cầu giám định.
Trình tự thực hiện:
– Các đương sự sẽ nộp đơn yêu cầu trưng cầu giám định đến Tòa án Nhân dân nơi đã thụ lý đơn khởi kiện. Các đương sự có thể nộp đơn trực tiếp hoặc bằng đường bưu tiện.
– Đối với trường hợp được Toà án chấp nhận yêu cầu thì đương sự trong vụ việc có yêu cầu trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Khoản tiền này do tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tạm tính; để thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
– Đối với trường hợp Toà án từ chối ra quyết định trưng cầu giám định thì đương sự có quyền tự mình yêu cầu giám định.
Thời hạn giải quyết:
Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hợp lệ thì Thẩm phán sẽ ra quyết định trưng cầu giám định hoặc từ chối yêu cầu của đương sự. Nếu yêu cầu của đương sự được chấp nhận thì việc giám định sẽ được tiến hành sau khi có quyết định trưng cầu và trả về kết quả giám định sau khi giám định xong.
Từ khóa » Tội Cung Cấp Chứng Cứ Giả
-
Luật Sư Cung Cấp Chứng Cứ Giả, Xử Lý Sao?
-
Làm Giả Chứng Cứ, Có Bị Gì Không? - PLO
-
Trách Nhiệm Cung Cấp Tài Liệu, Chứng Cứ Của Cơ Quan, Tổ Chức, Cá ...
-
Tư Vấn Quy định Pháp Luật Về Tội Làm Giả Giấy Tờ, Tài Liệu ?
-
Trưng Cầu Giám định Chứng Cứ Bị Tố Cáo Là Giả Mạo Khi Nào?
-
Ngụy Tạo Chứng Cứ Trong Vụ án Hình Sự Sẽ Bị Xử Lý Như Thế Nào?
-
Tòa án Xác Minh, Thu Thập, Bổ Sung Chứng Cứ
-
Làm Giả Chứng Cứ, Có Bị Gì Không? - Ngân Hàng Pháp Luật - LawNet
-
Tố Cáo Thiếu Chứng Cứ, Coi Chừng Phạm Tội Vu Khống - LuatVietnam
-
Cung Cấp Chứng Cứ Mới Trong Giải Quyết Tranh Chấp | Le & Tran
-
Cung Cấp Tài Liệu Chứng Cứ Cho Tòa án ở Giai đoạn Sơ Thẩm
-
Tội Cung Cấp Tài Liệu Sai Sự Thật Hoặc Khai Báo Gian Dối (điều 382)
-
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ BỊ TỐ CÁO GIẢ MẠO
-
BÀN VỀ NHẬN THỨC TRONG VIỆC ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP ...