RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG ...

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long báo cáo một số nội dung tại Kỳ họp thứ 10

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, đối với các kiến nghị của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam liên quan đến các quy định quản lý nhà nước về điều kiện gia nhập thị trường, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp, Bộ đã rà soát 411 văn bản (57 luật, 261 nghị định, 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 92 thông tư và thông tư liên tịch), phát hiện một số quy định mâu thuẫn, chồng chéo, vướng mắc, bất cập, không phù hợp thực tiễn như sau:

Về quy định mâu thuẫn, chồng chéo, quy định chồng chéo giữa Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, đầu tư kinh doanh có điều kiện.

Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện theo Luật Thương mại năm 2005 (quy định cụ thể tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện) có nội dung chồng chéo với Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, đầu tư kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư năm 2014 cũng như Luật Đầu tư năm 2020. Mặt khác, Phụ lục về Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP có nội dung chỉ dẫn đến các văn bản quy định cụ thể về từng loại hàng hóa, dịch vụ, tuy nhiên, các văn bản này đều đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế, nên nội dung chỉ dẫn không còn chính xác, cần được rà soát, xử lý.

Phương án xử lý, bãi bỏ Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP; chọn lọc một số nội dung còn phù hợp đưa vào Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, đầu tư kinh doanh có điều kiện ban hành kèm theo Luật Đầu tư (bảo đảm phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư ).

Về quy định bất cập, không phù hợp thực tiễn, quy định chưa rõ ràng, cụ thể về các trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh có thể yêu cầu người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp tại Luật Doanh nghiệp

Nội dung quy định “trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh” tại điểm e khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 (điểm e khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020, có hiệu lực ngày 01/01/2021) là chưa rõ ràng, cụ thể về các trường hợp người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh, có thể dẫn đến sự tùy tiện trong thực thi, gây khó khăn cho các chủ thể khi thành lập doanh nghiệp.

Phương án xử lý, quy định cụ thể các trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu Phiếu lý lịch tư pháp của người đăng ký thành lập doanh nghiệp tại các văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp.

Về việc chưa có quy định về biện pháp khắc phục đối với hành vi “sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở” và cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý chuyên ngành và cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc yêu cầu doanh nghiệp thay đổi trụ sở làm việc để bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật về nhà ở. Khoản 11 Điều 6 Luật Nhà ở năm 2014 quy định cấm “sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở”. Khoản 7 Điều 80 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở quy định: “Trường hợp trong giấy tờ đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp có ghi sử dụng căn hộ chung cư làm địa điểm kinh doanh trước ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được cấp giấy tờ đăng ký kinh doanh này phải chuyển hoạt động kinh doanh sang địa điểm khác không phải là căn hộ chung cư trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành; cơ quan có thẩm quyền cấp giấy tờ đăng ký kinh doanh phải làm thủ tục điều chỉnh lại địa điểm kinh doanh ghi trong giấy tờ đăng ký kinh doanh đã cấp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sang địa điểm khác trong thời hạn quy định tại khoản này; quá thời hạn quy định tại khoản này thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân không được kinh doanh tại căn hộ chung cư”.

Tuy nhiên, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý sử dụng nhà tại Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính phủ mới chỉ quy định việc phạt tiền đối với hành vi “sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở”, chưa có quy định về biện pháp khắc phục hậu quả (buộc thực hiện việc chuyển hoạt động kinh doanh sang địa điểm khác không phải là căn hộ chung cư trong thời hạn sáu tháng). Đồng thời, pháp luật hiện nay chưa quy định về cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý chuyên ngành với cơ quan đăng ký kinh doanh để buộc doanh nghiệp phải thay đổi trụ sở đăng ký kinh doanh, cũng như để bảo đảm thực hiện quy định về việc cơ quan có thẩm quyền cấp giấy tờ đăng ký kinh doanh phải làm thủ tục điều chỉnh lại địa điểm kinh doanh ghi trong giấy tờ đăng ký kinh doanh đã cấp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sang địa điểm khác. Điều này có thể làm suy giảm hiệu lực của quy định tại Luật Nhà ở năm 2014 và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP nêu trên.

Phương án xử lý, bổ sung quy định về biện pháp khắc phục đối với hành vi “sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở” tại Điều 66 Nghị định số 139/2017/NĐ-CP, đồng thời bổ sung quy định về việc phối hợp giữa cơ quan quản lý chuyên ngành và cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc yêu cầu doanh nghiệp thay đổi trụ sở làm việc phù hợp với quy định của pháp luật về nhà ở, làm thủ tục điều chỉnh lại địa điểm kinh doanh ghi trong giấy tờ đăng ký kinh doanh đã cấp.

Về khái niệm “doanh nghiệp nhà nước” đã được mở rộng theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, bao gồm cả doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, do đó cần rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp nhà nước” để có biện pháp xử lý phù hợp. Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”. Kể từ thời điểm Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực, một số chính sách về doanh nghiệp nhà nước trong các văn bản quy phạm pháp luật được xác lập trên cơ sở và theo phạm vi của khái niệm này.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Lê Thành Long, khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định “Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Như vậy, khái niệm “doanh nghiệp nhà nước” tại Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã thay đổi, mở rộng phạm vi so với Luật năm 2014. Theo đó, những văn bản quy phạm pháp luật có quy định về doanh nghiệp nhà nước theo định nghĩa tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 cần được rà soát để có biện pháp xử lý, điều chỉnh quy định bảo đảm tính phù hợp của chính sách với đối tượng là doanh nghiệp nhà nước theo khái niệm mới tại Luật Doanh nghiệp năm 2020./.

Từ khóa » Thay Thế Nghị định 59/2006