SÁCH XUẤT HÀNH (Phần Phân Tích Chi Tiết I) - Tin Mừng. TV

PHẦN II. TÌM HIỂU CHI TIẾT

I. MỘT QUÁ KHỨ LUÔN LÀ HIỆN TẠI

Như nghi thức phụng vụ Do thái diễn tả, Xuất hành không chỉ là một biến cố của quá khứ, mà là biến cố vẫn tháp tùng Israel trong suốt dòng lịch sử của họ. Khi cử hành biến cố ấy trong phụng tự thì nó trở thành hiện tại và mọi người có thể tham dự vào. Việc quy chiếu về quá khứ ấy giúp họ hiểu hiện tại : cả cuộc sống trở thành một cuộc Xuất hành, một cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa ; việc quy chiếu như thế còn giúp duy trì đức tin trong những thời kỳ khủng khiếp hoặc lưu đày : nếu ngày xưa Thiên Chúa đã giải phóng chúng ta thì hôm nay Ngài cũng vẫn có thể làm thế. Thành thử việc quy chiếu ấy lại có tác dụng duy trì niềm trông cậy hướng về tương lai nữa.

– Một thiên anh hùng ca : nhiều chi tộc cho rằng mình do cùng một nguồn gốc (những chi tộc ở lại Canaal, những chi tộc bị đuổi khỏi Ai cập và những chi tộc chạy trốn theo Môsê) đã liên minh với nhau trong Đại hội Sikem (Gs 24). Mỗi chi tộc khi liên minh với các chi tộc khác cũng đem theo những truyền thống của mình, và những truyền thống ấy đã hoà chung lại làm thành gia sản chung của liên minh mới. Do đó những kỷ niệm khác nhau lại ảnh hưởng lên nhau. Chẳng hạn như kỷ niệm về cuộc “vượt qua” sông Giođan tác động lên kỷ niệm về trận đụng độ bên bờ hồ và biến nó thành cuộc “vượt qua biển” (TOB, Gs 3,13c ; BJ Xh 14,15a). Rất nhiều biến cố đánh dấu cuộc định cư ở Canaal (qua sông Giođan, những cuộc chiếm thành, chiến thắng Taanak được Đêbôra hát mừng (Tl 5). Trong số đó có một biến cố nổi bật và trở thành biểu tượng cho mọi biến cố khác, biểu tượng cho cuộc giải phóng, đó là biến cố Xuất hành.

– Một khảo luận thần học : những kỷ niệm ấy được viết lại không nhằm mục đích giảng dạy về lịch sử hoặc địa dư, mà là để nói về Thiên Chúa. Xuyên qua những tường thuật ấy, xuất hiện gương mặt của một vị Thiên Chúa giải phóng, Ngài muốn cho một dân tộc được tự do, tự do phụng sự Ngài bằng cách sống theo giao ước với Ngài. Đấy là điều chủ yếu và là động cơ của toàn thể cuộc sống của Israel và kế đó là của các Kitô hữu.

 

II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SÁCH XUẤT HÀNH

1. Ý nghĩa sách Xuất hành

Biến cố Xuất hành là tâm điểm kinh nghiệm đức tin của dân Israel. Biến cố này trở thành điểm quy chiếu cho dân trong mọi hoàn cảnh lịch sử (x. Is 40,3; Kng 11,5). Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tự mạc khải là vị Thiên Chúa dấn thân vào lịch sử nhân loại để giải thoát nhân loại, khác hẳn hình ảnh về Thiên Chúa trừu tượng và xa lạ người ta thường nghĩ. Cũng trong sách Xuất hành, Israel xuất hiện như là Dân Chúa qua giao ước Sinai. Đây là điều làm cho Israel khác hẳn các dân.

 

2. Sách Xuất hành với người Kitô hữu

Biến cố Xuất hành là tín hiệu báo trước Ơn Cứu độ được hoàn thành trong Chúa Kitô. Vì thế, sách Xuất hành cũng được gọi là Tin Mừng về Ơn Cứu Độ. Biến cố này còn gợi hứng cho những suy tư và hành động đức tin của người Kitô hữu ngày nay, vd. thần học giải phóng. Tuy nhiên, cần đặt biến cố Xuất hành trong tương quan với mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì chỉ như thế ta mới có thể hiểu đúng ý nghĩa của biến cố này trong nhãn quan Kitô giáo.

 

III. ƠN GỌI CỦA MÔSÊ (3,1-15)

1. Danh Thiên Chúa (YHWH)

Đối với Israel cũng như các dân vùng Cận Đông, tên của một người không chỉ là tên gọi bên ngoài nhưng còn là chính con người. Muốn biết tên một người là muốn bước vào quan hệ thân tình với họ. Vì thế không lạ gì khi Môsê xin được biết danh thánh Thiên Chúa.

Câu trả lời của Thiên Chúa cho Môsê là một câu rất huyền nhiệm : YHWH. Có những cách dịch khác nhau trong các bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Việt, vd. Ta là Đấng tự hữu – Ta là Đấng hằng hữu – Ta là Đấng hiện hữu. Thiết nghĩ trong mỗi cách dịch đã hàm chứa một ý nghĩa thần học. Các học giả cố gắng tìm ra ý nghĩa của danh xưng này bằng cách nối kết với những lời Thiên Chúa nói với Môsê. Theo đó, danh xưng này muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng dấn thân và tham gia cách tích cực trong lịch sử của Dân.

2. Bụi gai bốc cháy

Có thể tác giả chọn từ ngữ bụi gai (trong tiếng Hípri là seneh) vì muốn liên hệ với sinai, núi của Thiên Chúa. Như thế, bụi gai bốc cháy ở đây nối kết với ngọn lửa trong cuộc thần hiện ở Sinai (19,18). Môsê vừa bị thu hút bởi cảnh tượng kỳ lạ, vừa kinh sợ và che mặt đi khi Đức Chúa tỏ mình. Đây cũng là kinh nghiệm thiêng liêng của các tiên tri như Isaia và Jeremia.

Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê cũng là Thiên Chúa của các tổ phụ (3,16). Như thế, không chỉ vào thời Môsê nhưng Thiên Chúa đã luôn hoạt động qua bao thế kỷ vì yêu thương dân của Người. Môsê được gọi để trở thành phát ngôn viên của Chúa, nói thay cho Chúa. Truyền thống Do thái vẫn nhìn Môsê như một tiên tri (x. Đnl 18,15-20), và tiên tri chính là người nói nhân danh Chúa và vì hạnh phúc đích thực của Dân.

 

IV. CUỘC VƯỢT QUA CỦA DÂN ISRAEL VÀ CUỘC VƯỢT QUA CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

1. Xuất hành đã diễn ra thế nào ?

Nền tảng của những bài tường thuật về biến cố Xuất hành là nhân vật Môsê. Ông sinh ra dưới triều Horemheb (1334-1306) hoặc Séti I (1309-1290), được học hành trong một trường đào tạo những ký lục-thông ngôn mà Ai cập rất cần cho những cuộc giao dịch với những dân châu Á.

Thời gian ông lưu ngụ ở sa mạc Madian đã đánh dấu đời ông : ông đã tiếp xúc với một nhóm người (nhóm mà nhạc phụ của ông là Jéthro làm tư tế), nhóm này hình như rất có tinh thần tín ngưỡng và thờ kính một vị thần mà họ gọi làYAHO.

 

Có hai cuộc xuất hành ?

Một số bản văn mô tả cuộc ra khỏi Ai cập như một cuộc trục xuất, một số bản văn khác lại coi đó là một cuộc trốn chạy. Vậy có lẽ có hai cuộc Xuất hành mà sau đó dân đã hoà lẫn lại làm một trong ký ức của họ.

a) Cuộc xuất hành-trục xuất diễn ra khoảng năm 1550. Một số người thuộc chủng Sêmit (những người Hyksos) đã lên nắm quyền ở Ai cập vào khoảng năm 1720. Nhưng họ đã bị đuổi vào năm 1552. Con cháu Giacob cũng thuộc chủng Sêmít, đã lợi dụng sự hiện diện của người Hyksos ấy để tới Ai cập định cư, nhưng khi đó họ cũng bị đuổi. Họ đi con đường phía Bắc rồi vòng xuống phía Nam hướng về Ốc đảo Cadès. Một ngày kia họ sẽ vào miền Nam xứ Canaal.

b) Cuộc xuất hành-chạy trốn xảy ra khoảng năm 1250. Một nhóm người Sêmit khác đã ở lại Ai cập. Do Môsê kích thích, họ lợi dụng một cuộc lễ mùa Xuân (và có lẽ một vài tai hoạ giáng xuống Ai cập khiến nhiều trẻ con bị chết) để trốn đi. Họ đi con đường phía Bắc. Khi họ tới gần hồ Sirbonis thì bị một toán quân Ai cập đuổi kịp, nhưng các chiến xa của toán quân này bị lún cát, nhờ vậy nhóm Sêmit ấy được cứu, họ rời con đường nguy hiểm ấy để đi xuống hướng Cadès.

Như thế, cuộc xuất hành do Môsê lãnh đạo là cuộc thứ 2. Tại Sikem, nhóm người này đã kết hợp với nhóm xuất hành thứ nhất, đồng thời kết hợp với 1 số nhóm khác đã có mặt sẵn ở xứ Camaam cùng nhau ký 1 thoả ước (thoả ước Sikem. Xem Gs 24) để làm thành một dân. Và theo thói quen thời đó, khi các nhóm dân kết hợp lại với nhau thì họ coi tất cả những gì họ có riêng đều là của chung, bởi đó các nhóm đã đem những truyền thống của mình hoà hợp lại thành truyền thống chung. Các truyền thống tác động lên nhau và hoà lẫn với nhau. Chẳng hạn kỷ niệm về cuộc “vượt qua sông Giođan” hoà lẫn với kỷ niệm về “trận đụng độ với Ai cập bên bờ hồ Sirbonis” làm thành truyền thống về “Cuộc vượt qua biển”.

Xh 12,37 (truyền thống P) ghi con số những người Hípri ra khỏi Ai cập là “600 ngàn bộ đội”. Nếu cộng thêm vào đó số đàn bà và trẻ em nữa thì con số có thể lên tới 2 triệu ! Trong lúc ấy toàn dân Ai cập chỉ đạt tới số từ 6 đến 8 triệu dân. Vì thế không thể chấp nhận con số mà xuất hành đưa ra được. Có lẽ chữ “ngàn” trong bản văn ấy phải hiểu theo nghĩa cổ điển là “gia đình”. Vậy “600 ngàn bộ đội” nghĩa là “600 gia đình bộ đội”. Nếu mỗi “gia đình bộ đội” (hay tiểu đội) gồm 10 bộ đội thì tất cả là 6000 bộ đội. Nếu cộng vào đó số đàn bà và trẻ em thì tổng số khoảng 20.000 người. Con số này có thể chấp nhận được.

 

Cuộc “vượt qua” biển :

Trong truyền thống Jahviste không có nói tới “cuộc vượt qua biển” : gió thổi khô nước, các chiến xa Aicập sa lầy trước những cặp mắt ngỡ ngàng của dân Híp-ri, nhiều sử gia thời cổ cho biết rằng những bờ của hồ Sirbonis rất dễ lún vì toàn là đất cát ngăn chận nước Địa Trung Hải.

Chỉ có tường thuật của truyền thống tư tế là nói Thiên Chúa “chẻ đôi” giòng nước để cho “khô ráo” hiện ra, cũng như vào thuở bình minh của thế giới, Ngài đã chẻ đôi giòng nước nguyên sơ để cho khô ráo hiện lên ! Cuộc Xuất hành được mô tả như một hành động sáng tạo, và tường thuật về cuộc Sáng tạo (St.1) được mô tả như một hành động giải phóng.

 

2. Ý nghĩa cuộc vượt qua của người Do thái

Dân Israel phải sống trong cảnh nô lệ lầm than (Xh 1, 8-22). Nhưng Thiên Chúa đã thấy cảnh lầm than của họ và sai Môsê đến để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ, đưa họ vượt qua Biển Đỏ (Xh 14, 15-31). Nhờ Chiên được sát tế và máu chiên bôi lên thành cửa, dân Israel được cứu thoát và lên đường đi đến miền đất tự do (Xh 12, 29-34. 12-14). Chính Thiên Chúa thực hiện cuộc giải thoát này bằng những điềm thiêng dấu lạ, nhưng Chúa đã chọn Môsê làm người lãnh đạo Dân Chúa và thực hiện kế hoạch của Người.

 

3.Cuộc vượt qua của người Kitô hữu

Nhân loại vẫn sống trong cảnh nô lệ tội lỗi là thứ nô lệ tồi tệ nhất, làm cho con người bị tha hoá, đánh mất phẩm giá đích thực của mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Kitô là Môsê mới, là vị lãnh đạo của Dân mới. Chiên được sát tế trong lễ Vượt Qua là hình bóng Chúa Kitô hiến dâng chính mình, nhờ đó chúng ta được sống (x. Ga 19,31-37). Việc vượt qua Biển Đỏ loan báo bí tích Thánh Tẩy: giải thoát ta khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, biến ta thành con cái Thiên Chúa, và cho ta thành phần tử của Dân mới là Hội Thánh.

 

V. LỄ VƯỢT QUA VÀ CỬ HÀNH THÁNH THỂ

1. Cử hành lễ Vượt Qua

Môsê đưa ra những chỉ thị về việc cử hành lễ Vượt Qua (Xh 12,14) và người Do thái vẫn trung thành tuân giữ cho đến ngày nay. Trong nghi thức cử hành lễ Vượt Qua, sau tuần rượu thứ hai, một người con trong gia đình sẽ lên tiếng hỏi: tại sao đêm nay lại khác mọi đêm? Và người cha trong gia đình sẽ giải thích dựa vào Đnl 26,5-11.

 

2. Chúa Giêsu cử hành bữa Tiệc Ly

Chúa Giêsu đã cử hành Bữa Tiệc Ly trong bối cảnh lễ Vượt Qua (Lc 22, 14-20). Tuy nhiên trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm hai cử chỉ độc đáo. Một là Ngài chuyển chén rượu của người đứng đầu gia đình cho mọi người trong nhà, hai là Ngài thêm vào những lời minh giải: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em,” “Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” Những lời này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa Tiệc Ly và biến cố thập giá.

 

3. Thánh Thể, lễ Vượt Qua mới

Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Trong Thánh Kinh, tưởng niệm không chỉ đơn thuần là nhớ lại một sự kiện trong quá khứ, nhưng bao hàm cả ba chiều kích thời gian là hiện tại, quá khứ và tương lai (Xh 12,14). Chính vì thế, thần học Công giáo giải thích về tưởng niệm như là signum rememorativum (dấu chỉ tưởng nhớ hành động cứu độ đã xảy ra trong quá khứ), signum demonstrativum (dấu chỉ Ơn Cứu độ đang diễn ra trong hiện tại), signum prognosticum (dấu chỉ loan báo bữa tiệc cánh chung trong Nước Chúa).

Cử hành Thánh Thể là làm theo lời di chúc của Chúa Giêsu. Vì thế, trong suốt lịch sử, Hội Thánh không ngừng cử hành Thánh Thể (x. Cv 2,42.46; 1Cr 11,23), và người Kitô hữu phải hết sức trân trọng việc cử hành này.

 

VI. KINH NGHIỆM SA MẠC

1. Kinh nghiệm của dân Israel trong sa mạc (15,22 – 18,27)

Được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập, Israel còn phải trải qua hành trình lâu năm trong sa mạc mới được đặt chân vào Đất Hứa. Hành trình sa mạc đã ban tặng cho họ nhiều kinh nghiệm. Trước hết, họ kinh nghiệm về sự thiếu thốn lương thực cũng như những hiểm nguy đe doạ, và những khó khăn này không chỉ dừng lại ở mức độ vật chất nhưng còn dẫn đến những thử thách cho chính đức tin: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (17,7). Cùng với kinh nghiệm về những khó khăn và thử thách trong sa mạc, Dân Chúa lại cảm nghiệm được từng ngày và qua từng biến cố sự đồng hành và tình thương chăm sóc Thiên Chúa dành cho dân của Người.

 

2. Kinh nghiệm sa mạc trong đời sống Kitô hữu

Kinh nghiệm sa mạc của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng giúp ta nhìn lại đời sống Kitô hữu của mình trong ánh sáng mới. Trở thành Kitô hữu là bước vào một hành trình dài trong đó ta phải đối diện với rất nhiều cám dỗ và thử thách, hi sinh và từ bỏ. Như Dân Chúa ngày xưa, nhiều lần ta cảm thấy mệt mỏi, muốn bỏ cuộc và quay về nếp sống cũ. Tuy nhiên chính những khó khăn và thử thách đó lại là những cơ hội Thiên Chúa dùng để giáo dục và thanh luyện ta nên giống Chúa Kitô hơn.

 

VII. MƯỜI ĐIỀU RĂN (20,1-21)[1]

1. Trong bối cảnh Giao Ước

Giao ước là sự thiết lập một tương quan trong đó quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên được xác định và chấp nhận, vd. giao ước giữa Giacóp và Laban (St 31,43-32,3). Tuy nhiên, giao ước giữa Thiên Chúa và Israel không phải là giao ước giữa hai bên ngang hàng với nhau. Đúng hơn, Thiên Chúa ký kết giao ước với Israel chỉ vì tình thương cho không. Môsê đã nhấn mạnh điều này nhiều lần, và trình thuật về Mười Điều Răn cũng làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa giao ước: Mười điều răn được mở đầu bằng khẳng định của Thiên Chúa là Đấng đã trực tiếp can thiệp vào đời sống của dân: “Ta là Đức Chúa đã đưa ngươi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập” (20,2). Thiên Chúa dùng ngôi thứ hai để nói trực tiếp với dân. Như thế, thập điều không phải là hệ thống luật pháp vô hồn, nhưng được đặt nền trên một ngôi vị.

 

2. Đón nhận Mười điều răn cách tích cực

Những nhận xét trên giúp ta khám phá Mười điều răn như là những điều khoản của giao ước tình yêu. Kinh nghiệm về giao ước hôn nhân có thể giúp ta hiểu phần nào ý nghĩa cao quý này. Trong giao ước hôn nhân có những điều khoản mà hai người phối ngẫu cam kết với nhau, chẳng hạn một vợ một chồng, chung thủy với nhau đến trọn đời. Tuy nhiên, tất cả những điều khoản đó được đặt nền trên tình yêu, và là sự diễn tả ra bên ngoài những đòi hỏi nội tại của tình yêu đích thực. Tương tự như thế, Mười điều răn là cách thể hiện tương quan yêu thương trong giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Người. Tách biệt Mười điều răn ra khỏi tương quan giao ước sẽ biến Mười điều răn thành một bộ luật luân lý vô hồn và mất đi tính năng động của nó. Đồng thời khi nhìn Mười điều răn trong bối cảnh của giao ước, ta sẽ khám phá giá trị tích cực của Mười điều răn như con đường đưa đến sự sống phong phú chứ không chỉ là những rào cản ngăn lối hạnh phúc của con người như nhiều người ngày nay lầm tưởng.

 

VIII. NHÀ TẠM VÀ HÒM BIA GIAO ƯỚC

1. Ý nghĩa

Trong trình thuật về cuộc Thần hiện (24, 15b-18), tác giả nối kết cuộc thần hiện trên núi Sinai với việc xây cất thánh điện (40,17,33b). Cũng như mây bao phủ núi Sinai và vinh quang Đức Chúa ngự trị ở đó (24,15-16) thì mây cũng bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang Đức Chúa tràn ngập thánh điện (40,34). Như thế, việc thờ phượng trên núi Sinai là mẫu mực cho việc thờ phượng của dân.

Đồng thời Đức Chúa truyền lệnh cho Môsê làm một nơi thánh để Chúa ngự giữa dân. Nơi này được gọi bằng hai từ là Lều Hội Ngộ (40,34) và Nhà Tạm (25,9). Thiên Chúa là Đấng siêu việt nhưng Nhà Tạm sẽ là nơi Ngài gặp gỡ con cái Israel (29,42-43). Hòm Bia là hòm làm bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi; trong hòm đặt bia đá mà Đức Chúa đã ban cho Môsê (câu 16,21 // 31, 18).

 

2. Cho đời sống Kitô hữu

Trong các nhà thờ Công giáo, Nhà Tạm là nơi thánh, nơi Chúa ngự giữa dân Ngài, nơi dân được gặp Chúa. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân đến ở giữa loài người (Ga 1,14), và Ngài còn ở lại với chúng ta cho đến tận thế (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể. Nhà Tạm là nơi cất giữ Thánh Thể. Vậy tôi có thực sự coi đó là nơi thánh, nơi Chúa ở giữa cộng đoàn, nơi tôi gặp gỡ Chúa không? Mỗi khi ta rước lễ, chính lòng ta trở thành “nhà tạm” của Chúa. Liệu chúng ta có ý thức về điều đó không, hay thói quen đã làm phai nhạt ý thức về sự thánh thiện đó? Và liệu người ta có thể thấy nơi chúng ta sự thánh thiện và tình thương của Chúa không?

Ở đây cũng là dịp cho ta chiêm ngắm Mẹ Maria. Truyền thống Công giáo gọi Đức Mẹ là Hòm Bia Thiên Chúa vì Mẹ mang trong lòng dạ Mẹ chính Thiên Chúa làm người. Đây cũng là nền tảng để các thánh suy niệm về mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chính vì Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa nên Mẹ được giữ gìn khỏi tội Tổ tông truyền, và Mẹ được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đức Mẹ thực sự là dấu chỉ hi vọng và là mẫu gương tuyệt vời cho Dân Chúa trong hành trình về quê trời vĩnh cửu.

 

IX. CON BÊ BẰNG VÀNG

Trình thuật về việc dân Isarel thờ lạy bò vàng (32,1-6) làm nổi bật ý nghĩa này: Con người tự làm ra thần thánh theo ý muốn của mình chứ không nhìn nhận Đấng Thiên Chúa đã làm nên họ và cứu sống họ (32,1). Ông Aaron đã nhượng bộ theo yêu cầu của dân quá dễ dàng.

Sách Xuất Hành cũng kể rằng Dân Israel muốn ruồng bỏ Môsê để có một vị lãnh đạo mới, và như thế họ ruồng bỏ chính Thiên Chúa (32,2-4). Sách Dân Số 12,1-8 còn ghi nhận Aaron đã chống lại Môsê khiến Đức Chúa nổi giận.

Trình thuật này là bài học quý giá cho người Kitô hữu. Chỉ trong Chúa Giêsu, ta mới biết Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Chỉ một mình Chúa Giêsu là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6). Vì thế, chỉ nơi Chúa Giêsu, chúng ta mới nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải những thần thánh con người tự tạo ra theo sở thích và ý muốn của mình.

Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người Chúa chọn để lãnh đạo Dân Chúa như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Sức mạnh chống lại quyền lực tử thần không phải là sức mạnh của cá nhân Phêrô nhưng là quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các vị kế vị Thánh Phêrô và các tông đồ. Chính tầm nhìn đức tin này dẫn ta đến thái độ vâng phục đối với Đức Giáo hoàng là “nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu” (Hiến chế Giáo Hội, số 23).

 

X. MỘT BIẾN CỐ THÀNH LẬP DÂN”

Israel luôn coi việc ra khỏi Ai cập là thời điểm độc nhất vô nhị trong lịch sử của họ, là một biến cố có vị trí đặc biệt hơn mọi biến cố khác” (TOB). Với Abraham thì có lẽ đã có dân, nhưng chỉ mới có trong lời hứa. Chính Xuất hành mới là biến cố tạo họ thành một dân tộc thực sự.

Khi ta muốn hiểu ý nghĩa của các biến cố, các định chế, các lễ nghi khác; khi ta muốn giải thích sự tồn tại của dân Israel, nhất thiết ta phải quy chiếu về biến cố Xuất hành.

 

XI. MỘT CUỘC GẶP GỠ THIÊN CHÚA

Trong biến cố này, Israel bắt đầu khám phá Thiên Chúa của mình là ai, tên Ngài là gì. Họ đã khám phá rằng Thiên Chúa là Đấng giải phóng, Đấng cứu độ, trước khi nhận biết Ngài là Đấng tạo hoá. Đây là một điểm rất quan trọng nên sau này ta sẽ nói lại. Thiên Chúa là “Đấng đã kéo chúng ta ra khỏi nhà nô lệ”, đấy là danh hiệu chính của Ngài, và hầu như là danh hiệu riêng không ngừng được dùng trong Thánh kinh.

Trong thị kiến bụi gai rực cháy, Thiên Chúa đã xưng tên cho Môsê: YAVE tên mà TOB dịch ra là “Ta là Đấng sẽ là” (Je suis qui je serai) nghĩa là : Ta là gì thì các ngươi sẽ khám phá trong điều Ta sẽ là và sẽ làm với ngươi, với các ngươi, trong lịch sử (Xh 3,14).

Như vậy, Thiên Chúa và dân Ngài được hiệp nhất bởi cùng một liên hệ huyết thống (xem lễ nghi trong Xh 24,3-8), bởi cùng một giao ước.

“Từ nô lệ tới phục vụ” : đây là tựa đề mà một bài chú giải đã đặt cho biến cố Xuất hành. Tựa đề này tóm lược rất đúng điểm chủ yếu của biến cố ấy. Dân ý thức rằng Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai cập ; từ nay họ có thể hoàn toàn tự do để phục vụ Ngài, phục vụ bằng cách sống hàng ngày trong tâm tình trung thành với Giao ước và biểu lộ ra trong phụng tự.

 

XII. KHUNG CẢNH GIÚP HIỂU THẬP GIỚI ĐÚNG HƯỚNG

Có 1 số yếu tố chung quanh những bản văn “Thập giới”. Chúng có thể giúp ta hiểu đúng hướng nội dung của Thập giới.

1. Thập giới được ban hành trên 1 ngọn núi.

a) Trong lịch sử các tôn giáo, các ngọn núi có 1 vai trò quan trọng hàng đầu, quan trọng không do số lượng hoặc vị trí cho bằng vì tính chất của chúng :

– ngọn của núi : chạm trời

– Chân của núi : chạm đất

– trụ của núi : chạm âm phủ

Như thế, núi liên kết cả 3 chiều kích của vũ trụ theo vũ trụ quan trọng thời xưa là trời, đất và âm phủ. Vì thế, núi được coi là trung tâm và là trụ chính của vũ trụ.

Cựu ước kể tên nhiều núi thánh, đặc biệt là núi Sinai/Horeb và núi Sion. Ed 38,12 còn gọi là Giêrusalem (ở trên núi Sion) là “cái rốn của trái đất”.

b) Tuy nhiên cũng có những điểm khác biệt về quan niệm giữa Israel với các tôn giáo phương Đông :

– Các tôn giáo phương Đông (Ai cập, Lưỡng Hà Địa) coi những ngọn núi là thánh vì chúng là những nơi mà thần thánh chọn để biểu dương uy lực của các Ngài.

– Còn Israel coi những ngọn núi là thánh vì chúng có liên quan tới những biến cố của lịch sử cứu độ. Cụ thể như núi Sinai / Horeb sở dĩ được coi là thánh vì đó là nơi Thiên Chúa hiện ra cho Môsê, cho dân chúng, và ban luật cho họ, cho họ có cảm nghiệm về sự hiện diện của Ngài.

c) Ngọn núi mà Thiên Chúa hiện ra cho ông Môsê và ban hành Luật. Sách Xuất hành gọi tên là SINAI (x. Xh 19,1.2.11.18.20.23 24.16 31,16 34,2.4.29.32). Còn sách Đệ Nhị Luật gọi là HOREB (x. Đnl 1,2.6.19 4,10.15 5,2 9,8 18,16 18,69). Hiện nay các nhà chuyên môn còn đang tìm hiểu xem 2 tên ấy có phải là gọi 2 ngọn núi khác nhau hay chỉ là 1 ngọn núi duy nhất có 2 tên.

d) Dựa trên các văn bản của Cựu ước thì núi Sinai / Horeb được coi trọng vì :

– Đó là nơi Thiên Chúa đã gặp gỡ dân Ngài (Xh 19-20 Đnl 5)

– Đó là nơi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Ngài (Xh 25,1-11 Đnl 5,2-3)

– Đó là nơi Thiên Chúa ban lề luật cho dân Ngài : không chỉ Thập giới mà còn Bộ Luật Giao Ước (Xh 20,22-23,19), Luật tư tế và Bộ luật về Sự Thánh (Xh 25 đến Ds 10), về sau cùng là Bộ Đệ Nhị Luật (Đnl 12-25).

2. Thập giới được ban hành trong dòng lịch sử.

a) Trước tiên có 2 chi tiết về mặt văn chương đáng ta lưu ý:

– Mở đầu bản văn Thập giới trong sách Xuất hành và Đệ Nhị Luật là lời Thiên Chúa tự giới thiệu như sau : “Ta là Yavê Thiên Chúa của ngươi. Đấng đã đem ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi nhà tôi mọi” (Xh 20,2 Đnl 5,6).

– Trong quy định về lễ nghi tổ chức bữa tiệc vượt qua có ghi “Mai ngày khi con người hỏi ngươi rằng “là gì thế các sấm chỉ luật truyền và phán quyết Yavê Thiên Chúa của chúng ta đã truyền cho chúng ta ?”., ngươi sẽ bảo con ngươi rằng : “Chúng ta xưa làm tôi mọi cho Pharao ở Ai cập, và Yavê với tay mạnh mẽ đã đem chúng ta ra khỏi Ai cập… Yavê đã truyền dạy chúng ta phải thi hành tất cả các luật điều này… được chúng ta được phúc mọi thời, để Ngài cho chúng ta được sống như thấy ngày hôm nay” (Đnl 6,20-24). Đứa con hỏi về những khoản luật, người cha lại trả lời về việc giải thoát khỏi Ai cập!

b) 2 chi tiết trên cho ta hiểu rằng Thập giới không phải đơn thuần là 1 số khoản luật tự dưng Thiên Chúa muốn buộc loài người tuân giữ, nhưng chúng được ban hành trong dòng lịch sử, nói cụ thể hơn, ban hành sau biến cố lịch sử của Thiên Chúa giải phóng Israel khỏi ách nô lệ của Ai cập.

c) Do đó chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa của thập giới trong bối cảnh lịch sử, cụ thể là trong bối cảnh giải phóng khỏi ách nô lệ. Thập giới sẽ có những ý nghĩa sau đây :

. Mục đích là giúp dân sống 1 cách tự do và xứng đáng, để đừng rơi lại vào vòng nô lệ nữa.

. Thập giới không phải là 1 cái gì áp đặt mà chính là 1 ơn ban của Thiên Chúa,. Để đáp lại ơn ban đó, dân phải biết ơn và tỏ lòng biết ơn bằng cách trung thành tuân giữ các giới luật ấy.

. Sau cùng thập giới cũng là 1 bổn phận của dân : họ tuân giữ chúng không phải để được cứu thoát mà chính vì đã được cứu thoát : họ có tuân giữ thập giới thì họ mới xứng đáng là những người tự do thực sự, họ mới duy trì được sự tự do Thiên Chúa ban.

*** Tóm lại có thể nói rằng Thập giới là Luật của Yêu thương (vì Thiên Chúa yêu thương nên mới ban) và là Luật của Tự Do (Thiên Chúa ban để cho dân được sống như người tự do, dân có tuân giữ thì mới sống đúng như người tự do).

3. Thập giới được ban hành trong khung cảnh thần hiện và giao ước.

Đơn vị văn chương viết về Thập giới chứa đựng 2 yếu tố rất quan trọng là Thần hiện và Giao Ước. Như thế, Luật – Thần hiện – và Giao ước là 3 yếu tố lên kết chặt chẽ với nhau 1 một cách vững chắc như chiếc kiềng 3 chân.

a) Thần hiện

Trong cả 2 quyển Xh và Đnl, đoạn viết về Thập giới được xếp ở giữa, phía trước và sau là đoạn viết về Thần hiện :

Xh 19,6-19 : thần hiện Đnl 5,4-5 : thần hiện

20,8-11 : Thập giới 12-15 : Thập giới

18-21 : Thần hiện 22-27 : Thần hiện

Những đoạn về Thần hiện chứa đựng các chi tiết quy ước của thể văn này như mây, sấm, chớp, khói, lửa, đất động vv… tạo thành 1 khung cảnh vừa uy nghi vừa đáng sợ. Giữa khung cảnh đó, tiếng Thiên Chúa vang ra : “Thiên Chúa đã phán những lời này rằng … (Xh 20,1). “Những lời này” tức là Thập giới.

Được ban hành trong khung cảnh thần hiện như thế, Thập giới phải được coi là Luật của Thiên Chúa. Đây chính là điểm độc đáo của Luật thập giới so với các luật khác. Trong các tôn giáo phương Đông, người ta cũng liên kết luật với thần linh, nhưng thần linh chỉ là những vi bảo vệ luật, bảo đảm cho luật được thi hành, chứ không bao giờ là chính tác giả của Luật.

 

b) Giao ước

Cũng trong cả 2 quyển Xh và Đnl, trước những đoạn viết về thần hiện là những đoạn viết về Giao ước :

Xh 19,5 : Giao ước Đnl 5,2 : Giao ước

16,19 : Thần hiện 4-5 : thần hiện

20,8-11: thập giới 12-15: Thập giới

Xh 19,5 : “Vậy bây giờ nếu các ngươi quyết nghe tiếng Ta mà giữ Giao ước của TA thì …” ; Đnl 5,2 : “Yavê Thiên Chúa của chúng ta đã kết giao ước với chúng ta ở Horeb”.

Như thế thần hiện trở nên 1 yếu tố của Giao ước, và Thập giới trở thành văn kiện của Giao ước. Nếu là văn kiện của Giao ước, thì Thập giới là 1 sự cam kết song phương. Mà nếu là cam kết thì đương nhiên kẻ kết ước phải thi hành đúng đắn.

[1] Trong những chương viết về biến cố xuất hành, chen lẫn với những đoạn theo văn thể tường thuật là những đoạn quy định lễ nghi mà chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu trong bài này.

Đoạn này gom góp những bản văn phụng vụ được soạn ra vào nhiều thời điểm khác nhau, thuộc 3 truyền thống J, E và P . Tác giả của chúng đã mượn những tục lệ có sẵn trong vùng rồi sửa đổi ý nghĩa để thành những lễ nghi tưởng niệm biến cố xuất hành và cho biết ý nghĩa của những lễ nghi ấy đối với cuộc sống của người Israel.

1. Bữa ăn vượt qua.

Theo ý kiến của Wiéner, có lẽ đây là “một nghi lễ rất xa xưa của những người chăn chiên du mục : vào mùa xuân, mùa chiên sinh sản, người ta sát tế và ăn thịt một con chiên non (rôti theo kiểu dân du mục và phải ăn hết không chừa lại thứ gì cả khi người ta nhổ trại). Họ lấy máu con chiên ấy phết lên cọc lều để xua trừ những ảnh hưởng xấu có thể hại cho đời sống của bộ lạc và cho đoàn vật. Chính tên của tục lệ này, pâque, gợi lên hình ảnh “nhảy” có thể phát xuất từ một điệu múa trong lễ nghi này”

Về bữa ăn này bản văn J nói vắn tắt : 12,21-22. P nói dài hơn : 12,2-11

Nhưng tác giả đã sửa đổi ý nghĩa của tục lệ nguyên thuỷ. Sửa đổi như thế nào ? Hãy đọc 12,25-27 và 13,3.8-10

2. Bánh không men.

Cũng theo Wiéner, “có lẽ lễ ăn bánh không men nguyên thuỷ cũng là 1 nghi lễ mùa xuân nhưng phát sinh từ dân định cư và canh nông : vào lúc khởi đầu mùa thu hoạch, người ta muốn đánh dấu sự khai mở 1 chu kỳ mới bằng cách loại bỏ những gì thuộc chu kỳ trước. Do đó người ta loại khỏi nhà mình mọi dấu vết của bột đã lên men trong khi chờ có men mới đó bột mới sinh ra”.

Lễ nghi này chỉ có P ghi lại : 12,15

Israel đã sửa đổi ý nghĩa của nó thế nào ? Đọc 12,17a (P) và 12,39 (J).

3. Dâng sinh vật đầu lòng

Đây cũng là 1 tục lệ rất cổ xưa và rất quen thuộc trong cả vùng Cận Đông thời cổ : người ta sẽ hiến cho thần linh các con vật đầu lòng, và đôi khi cả những con trai đầu lòng, để biểu lộ niềm tin rằng chính thần linh đã ban cho họ những sinh vật ấy và những con cái. Làm như thế, họ cũng hy vọng là thần linh tiếp tục ban ơn như thế cho họ.

Israel đã sửa đổi ý nghĩa của tục lệ này thế nào ? Hãy đọc 13,2 và 14-15

*** Tóm lại, nguồn gốc của những lễ nghi này là các tục lệ của 1 thứ tín ngưỡng thiên nhiên, nghĩa là dựa trên chu kỳ biến thiên của thiên nhiên và nhằm mục đích vụ lợi cho đời sống. Khi vay mượn chúng thành những lễ nghi của mình, Israel đã sửa đổi ý nghĩa cho phù hợp với tín ngưỡng của họ vốn là thứ tín ngưỡng lịch sử, nghĩa là tín ngưỡng tin rằng Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử.

Từ khóa » Tóm Tất Sách Xuất Hành