Sinh Hoạt âm Nhạc Dân Gian Của Người Ba Na Nhóm Rơ Ngao ở ...

  • Tiếng Việt
  • English
  • Trang chủ
  • Chính quyền
    • Giới thiệu
      • Lịch sử hình thành
      • Điều kiện tự nhiên
      • Đơn vị hành chính
      • Dân số và lao động
      • Bản đồ hành chính
    • Bộ máy tổ chức
      • Tỉnh ủy
      • Ủy ban nhân dân tỉnh
      • Các sở, ban, ngành
      • UBND các huyện, thành phố
    • Hoạt động của Lãnh đạo
    • Thông tin chỉ đạo điều hành
  • Nhà đầu tư
  • Thủ tục hành chính
    • Hệ thống thông tin giải quyết TTHC
    • Dịch vụ công trực tuyến
    • Công khai thủ tục hành chính
  • Sản phẩm địa phương

Thứ hai, Ngày 06/01/2025 -

  • Thu hồi diện tích đất đã cho Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Mai thuê để thực hiện Dự án nhà máy bột giấy và giấy Tân Mai - Kon Tum
  • TIN BUỒN
  • Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
  • Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tháng 12 và năm 2024
  • Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 và bình quân cả năm 2024 trên địa bàn tỉnh
Đất và người Kon Tum Sinh hoạt âm nhạc dân gian của người Ba Na nhóm Rơ Ngao ở Kon Tum Ngày đăng: 19/10/2010 09:44 Đọc tin bài Xem: 1656 In trang Mặc định Cỡ chữ Cũng như bao dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên, âm nhạc dân gian của người Ba Na nhóm Rơ Ngao ở Kon Tum rất phong phú và đa dạng, họ có thể đàn hát ở nhà, trong rừng trên rẫy hay khi xuống suối … Âm nhạc luôn gắn liền với cuộc sống đời thường của họ thường diễn ra hàng ngày và bất cứ lúc nào như: Nghe tếng chiêng rộn ràng vào những ngày lễ hội, kon plây (dân làng) được mùa, hay tiếng chiêng buồn tiễn đưa người đã khuất ! Đêm về trăng lên nghe tiếng đàn Ting Ning (đàn Goong) quyến rũ hẹn hò, hay Đing But ( K’lông Pút giục giã cùng tiếng chày của bao cô gái …).

 

Trong lúc mọi người đang ngon giấc, thoang thoảng vọng tiếng Brook Oot, Brook Doông (đàn K’ni) hay tiếng Hool (sáo 3 lỗ) trước khi gà gáy … Trên rẫy vang tiếng Glâng glât (đàn T’rưng), Klang Khok, Reng reo (đàn Gió) hoặc dưới suối có tiếng Pơchet (đàn suối) … Những giai điệu dân ca mượt mà, đậm sắc thái của núi rừng, làm cho cuộc sống của họ càng vô tư và yêu đời, yêu quê hương nơi mình sinh ra và lớn lên …Vui hay buồn, âm nhạc luôn theo suốt cuộc đời họ…       Với người Rơ Ngao, sinh hoạt âm nhạc dân gian của họ bao gồm: Nhạc đàn và nhạc hát.   A – Nhạc đàn :   I - Nhạc cụ gõ :   1. “ Chinh Goong” ( Cồng Chiêng) :                 Xin kể một câu chuyện dưới đây, giúp hiểu về nguồn gốc xuất xứ cồng chiêng đến với người Rơngao:             …Ngày xưa khi chưa có cồng chiêng, người Rơ Ngao lúc đó xoong, nồi đất chưa có để nấu ăn, họ thường đi lấy ống lồ ô hoặc ống nứa trong rừng mang về, cho gạo hay cá, rau thịt rừng vào ống rồi đem nướng. Sau khi dùng hết thức ăn, họ quăng ống xuống sân, bà con gọi ống này là “ Ding Droông” (ống nướng cháy). Trẻ con vốn tính nghịch ngợm, hay đùa giỡn chọc ghẹo nhau chẳng đã, chúng lượm 3 ống dài ngắn không đồng đều, cầm thả dập lên xuống đất nhiều lần, hay lấy que đánh vào thân ống, nghe “ …Tứng..tưng..từng…” rất êm tai. Thấy vậy, bắt chước trẻ con nghịch ngợm kia, người lớn đi lấy ống về đốt cho cháy vỏ ngoài, rồi cất trên giàn bếp trước đó 3 ngày, khi ống đã khô (ráo hết nước trong thân ống) họ lấy dao cắt ra dài ngắn khác nhau rồi đem ra đánh (họ kết cấu như thang âm của chiêng bây giờ) trong các ngày hội của làng.    …Hồi đó, có một ông trong làng tên là Xăng Miăng, ông này rất nghèo so với bà con trong làng, ông nghĩ ra một ý tưởng rất táo bạo, tìm cách lừa như thế nào để lấy cho được tài sản người giàu có để bản thân mình thoát được cái nghèo khổ này. Ngày này qua ngày khác, ông tự đục, đẽo làm mâm gỗ xách đi xuống sông suối, đãi lấy bã sắt dành dụm được ít nhiều về nung, rèn thành từng cục lớn nhỏ không ra mẫu mã nào cả gọi là “ Mam lu lek lu li” (sắt lẩn quẩn), rồi ông mài cho thật bóng sáng, lấy khăn cuốn gói cất kỹ…   …Một hôm, không chịu nổi sự dày vò của nghèo khổ cứ bám theo, ông quyêt định mang gói sắt hiếm hoi của mình đi bán cho người Lào… Đường rừng hiểm trở lại xa 2, 3 ngày mới tới nơi, nên ông dừng chân nghỉ trên tảng đá to sát đường bên bờ sông, ông nằm và ôm gói sắt bên người… Tinh cờ  Bô Pơtău (lúc đó gọi là già làng, đồng thời cũng là người giàu có nhất) người Lào đi ngang qua, thấy Xăng Miăng ngồi ôm gói gì trước mặt, ông tò mò đến hỏi:… “ Này XăngMiăng, ông ôm gói gì trong người ông vậy ? XăngMiăng đáp: “ Có gì đâu, Mam lu lek lu li BôPơTău không hiểu “Mam lu lek lu li” là gì, ông bắt Xăng Miăng mở gói sắt ra xem, nhưng Xăng Miăng không chịu: “ Nếu ông muốn ông hãy tự mở ra xem, tôi mở rồi ông không mua, mất công tôi phải gói lại sao được! Bô PơTău nghĩ trong gói khăn kia chắc chắn có vật quý lắm, nên Xăng Miăng mới ôm kỹ vậy. Sau khi Xăng Miăng đồng ý, Bô Pơ Tău cầm lấy gói sắt vốn tính tò mò muốn tận mắt xem cho bằng được, ông vội giật tháo dây mở chưa kịp xem, toàn bộ cục sắt bóng loáng bên trong bị rơi toàn bộ xuống sông sâu thẳm…? Thấy vậy Xăng Miăng đứng dậy tức giận quát: “ Này Bô Pơ Tău ! Ông có biết trong gói đó “ Mam lu lek lu li” là vật quý giá đối với tôi như thế nào không ? Ông đã làm rơi toàn bộ của tôi xuống sông, ông lặn xuống mà tìm nhặt đủ cho tôi, nếu không tôi sẽ lấy toàn bộ chiêng ché, trâu bò… và cả nhà ông chịu làm “ Dik” (đầy tớ) cho tôi đó”.!...Nghe vậy, vì tiếc tài sản quý giá và sợ xấu hổ phải làm “Dik” cho kẻ nghèo nàn như Xăng Miăng, ông vội chạy về nhà gọi hết các chàng trai khoẻ mạnh trong làng cùng ông lặn xuống đáy sông cả buổi, mà chẳng thấy “Mam lu lek lu li” đâu cả. Cuối cùng đành chấp nhận “ Hru “ (bồi thường) cho Xăng Miăng toàn bộ tài sản quý giá trong đó có “Cồng Chiêng” và chịu làm “Dik” cho ông cả đời…Lúc bấy giờ, ông đã thật sự giàu có nhất nhờ “ Mam lu lek lu li” mà ông đã lừa được Bô PơTău (Sau này người Lào đặt tên cho ông Xăng Miăng“ Xik Ket” người hay nói láo.)…đó mà !   Từ đó, người Rơ Ngao mới có cồng chiêng thật, để đánh trong những dịp hội hè của làng, là nhờ ông Xăng Miăng có trí thông minh, được bà con kính trọng và quý mến và phong cho ông chức “ Bô Pơtău” (già làng), dân làng không còn chê bai hay khinh ông nghèo nàn như xưa nữa… và chính ông cũng là người chỉ huy “ tơnul ching” và vừa là người đánh, vừa sửa chiêng rất giỏi ./.          - Một dàn cồng chiêng đầy đủ   họ gọi là: “ Môi hơ mruk ching” (Một giọng cồng chiêng)     a/- Tên chung của loại chiêng: “ Ching Goong Hon” (Cồng chiêng Hon)             b/- Tên riêng của một dàn cồng chiêng:                                                                                                   + Ching Goong Brong : (Cồng chiêng có âm thanh cao thanh thót) hay họ gọi tắt là: Ching Tơ ham (Chiêng 8) … Dàn chiêng có 8 chiếc chiêng bằng (chiêng không có núm). + Ching Goong Broong : (Cồng Chiêng có âm thanh thấp và trầm) hay họ gọi tắt là: Ching Môi jât (Chiêng 10) … Dàn chiêng có 10 chiếc chiêng bằng (chiêng không có núm).   c/- Tên riêng của từng chiếc chiêng, cồng và nhạc cụ khác : có 3 nhóm:   * Nhóm 1 gồm có 3 chiếc cồng to có núm (còn gọi là cồng đệm) :
Cồng to nhất Cồng to vừa Cồng nhỏ
Tên cồng :  Kăn Goong               Moông Goong Moong Goong
(Cồng vợ) (Cồng chồng) (Cồng con)
Ký hiệu xướng âm " chơ-châp " đọc là
" Pu hu” " Pô " " Pep "
  * Nhóm 2 gồm có 08 hay 10 chiếc chiêng bằng (còn gọi là chiêng giai điệu) . Xếp thứ tự từ số 1 đến 10:
Chiêng số Tên chiêng Ký hiệu xướng âm đọc là
1 Kăn ching (chiêng vợ)                Tột
2 Moông ching (chiêng chồng)     Teeng deeng   
3 Mong Pi (con thứ 3)                  Tê lêt                 
4 Mong Puon (con thứ 4)              Dêt  
5 Mong pơ dăm (con thứ 5)          Nglat  
6 Mong Tơ druo (con thứ 6)         
7 Mong tơ pâih (con thứ 7)            Lêt
8 Mong Tơ ham (con thứ 8)          Glang
9 Mong Tơ chin (con thứ 9)          Gleng
10 Mong Môi jât (con thứ 10)          Glet
  * Nhóm 3 gồm có 1 trống to, 1 trống nhỏ ( còn gọi là trống vỗ ) và 1 bộ “ chũm choẹ ”   (trong đó có 3 cặp lớn nhỏ) :     - Trống to nhất có tên là: “ Hâgâr Mơnâng”( Đó là da bò chung của làng, sau khi làm thịt mừng các ngày lễ, lấy da phơi khô cất trên giàn nhà rông, khi cần họ lấy ra để làm trống.) Khi sử dụng trống này người ta thường đeo trên vai để đánh bằng dùi. …Ngày xưa người Rơ Ngao làm loại trống này bằng gỗ. Họ đục rỗng bên trong và lấy rựa rìu đẻo và khắc hoa văn trên bụng, thân trống. Hai bên miệng trống được bịt bằng da bò       - Trống nhỏ hay trống vỗ có tên là: “ Hâgâr Tap” …Cách làm cũng giống như “ Hâgâr Mơnâng” nhưng nhỏ hơn nhiều. Khi sử dụng trống này người ta thường choàng dây vào vai cổ, dùng hai bàn tay vỗ hai bên mặt trống vừa nhảy múa và làm trò hề.   - Chũm chọe có tên là: “ Roong roih”…Loại này người ta đúc bằng sắt thành hình tròn có đường kính lớn nhỏ khác nhau. Trên mặt vành người ta đục lòi ra nhiều hình lổm chổm, ở giữa có lỗ để xỏ dây từ vành này sang vành kia thành 1 cặp riêng. Khi xử dụng, họ dùng hai tay cho hai vành va vào nhau. * Hâgâr Mơnâng (Trống to)    * Hâgâr tap (Trống vỗ)  * Roong roih (Chũm choẹ). Tóm lại Ching goong Brong” ( Chiêng 8 ) hay“Ching goong Broông”(Chiêng 10) đều chung tên gọi là “ Ching Hon” như đã trình bày trên.                        2/ - “ Glâng glât” (Đàn T’rưng):    T’rưng là loại nhạc cụ phổ biến của các dân tộc Tây Nguyên nói chung, chỉ khác nhau ở chỗ tên gọi của mỗi dân tộc và bố trí thang âm của riêng dân tôc mình. Đối với người Rơ Ngao ở KonTum ngày xưa, họ sử dụng loại đàn này chủ yếu ở trên rẫy để đuổi chim thú phá hoại hoa màu, đồng thời cũng là thứ mà họ giải trí sau những buổi làm việc mệt nhọc. Sau khi lấy ống nứa “ Ding Phat” hay “ Ding Rơjêl” về chòi rẫy, họ dùng con dao nhọn, vót, khoét, cắt nhiều ống dài ngắn có cao độ khác nhau, lấy dây mây chẻ đôi và buộc ống thứ tự từ thấp lên cao, hay từ ống dài đến ống ngắn nhất. Cách làm dân gian, họ chỉ đo bằng bàn tay hay ngón tay để phân biệt cao độ trầm bổng của nó:… Các cụ có kể lại câu chuyện tình yêu với đàn T’rưng rằng:…  “Khi chàng trai ngồi trên chòi rẫy nhìn thấy người yêu từ xa, chàng báo hiệu cho nàng bằng giai điệu đàn T’rưng để nàng đợi một nơi nào đó chàng đến gặp mà không ai trông thấy ”.   Đàn T’rưng của người Rơ Ngao có 2 cách làm :    - “ Glâng glât bak” Đàn T’rưng này người ta cắt sát và để lại mắt ống ở phần ngọn, cắt bỏ mắt ống phần gốc (rỗng), sau đó vót độ cao thấp rồi cắt nhọn hay ngang, ta sẽ có âm thanh của ống đó. Lưu ý khi vót chỉnh âm thanh, không nên vót quá 1/2 ống, và càng không nên cắt quá ngắn phần dẫn đường âm thanh.   - “ Glâng glât chok” Đàn T’rưng này cũng tương tự như “ Glâng glât bak”, nhưng chỉ vót, khoét ở giữa thân ống, khoảng cách điều chỉnh cao độ hai bên phải bằng nhau, để có âm thanh thật chính xác.   *" Glâng glât bak " hay " Glâng glât chok ", cách làm tuy có khác nhau, nhưng bố trí thang âm vẫn giống nhau.   3/ - “Pơ-Chet(Đàn suối) : Loại đàn này dùng bằng sức nước, họ lấy vỏ cây gọi là “ Kruăh” kẹp bằng cây le cắm bên bờ suối,và từ cây le cột nối dây đến nơi treo ống đàn, nước giọt chảy xuống đụng vỏ cây đã được đặt lung lay, làm cho dây di chuyển lên xuống. Một dây từ dưới suối kéo lên thành 2, 3 đường tuỳ theo ý người muốn làm nhiều hay ít ống, sức nước chảy mạnh hay yếu. Khoảng cách giữa ống với nhau không đồng đều, tuỳ theo trường độ của giai điệu mà ý định của người chủ thích làm. Còn cách làm ống đàn cũng giống như đàn T’rưng hoặc khoét ở giữa ống như “langkhok”hay“Rengreo”.     Có một câu chuyện về tình yêu của đôi trai gái với đàn suối “Pơ-chet ”dưới đây:  … Ngày xưa, đôi tình nhân người Rơ Ngao phải khó khăn lắm mới có thể gặp được nhau để bày tỏ tình cảm, vì cha mẹ quản lý họ rất chặt chẽ, đi đâu, làm việc gì cũng phải có sự đồng ý của cha mẹ… Vào một ngày kia, có một chàng trai chưa vợ đi làm rẫy cùng với cha mẹ của mình. Trong lúc chàng đang đan gùi trong chòi, tiếng đàn suối “ Pơ-che” của chàng vẫn reo bình thường như mọi khi. Lúc đó, có một cô gái (người yêu của chàng) đi hái mướp (loại mướp bà con hay trồng xen lẫn với lúa) đi ngang qua rẫy, rất muốn gặp chàng để tâm sự, muốn gọi chàng ra khỏi chòi, sợ cha mẹ chàng nghe thấy rồi xấu hổ. Bằng mọi giá phải gặp chàng cho bằng được,nàng quyết định xuống nơi giọt nước chảy, cố ý lấy và dấu đi vỏ cây “ Kruăh” lung lay bởi giọt nước chảy mà chàng đã đặt. Tự nhiên không nghe tiếng đàn reo nữa, chàng vội chạy xuống nơi giọt nước…Thật là bất ngờ khi thấy nàng tủm tỉm cười quyến rũ bên giọt nước… và đưa cho chàng đặt lại “ Kruăh”, tiếng đàn suối của chàng tiếp tục reo như mọi khi… ý nguyện của nàng đã được đáp ứng, bởi bây giờ nàng đã được gặp và tỏ tình với chàng suốt cả buổi là nhờ có đàn suối ấy…                                                    Vậy người Rơ Ngao ngày xưa khi làm rẫy, họ chọn những nơi đất tốt vừa có suối nhỏ để làm loại đàn này, và họ xử dụng “ Pơ-chet” vào những mùa lúa chín. Rẫy nào có tiếng đàn suối reo lên, là họ biết nhà đó có lúa ăn rồi.   4/ - “ Reng reovà “ Klang khok” cùng có tên là “ Đàn gió” :   - “ Reng reo” từ 8 đến 10 ống, ống này khi lấy về họ cắt rỗng hai đầu, lấy dây đo chiều dài của ống gấp đôi lại và khắc ngang lỗ ở giữa, ngọn đầu bên kia khắc lỗ nhỏ để xỏ dây treo theo cái vòng đã làm sẵn, ở giữa treo một ống to vừa, đan một tấm phên mỏng hình chữ nhật, từ ngọn le kéo xỏ dây theo ống giữa chùm “ Reng reo” sau cùng là treo tấm phên.  Cây le được cắm xuống đất tuỳ ý người chủ rẫy chọn vị trí thuận tiện. Gió thổi bay tấm phên qua lại ngược xuôi hay dọc ngang làm cho chùm “ Reng reo” vang lên tiếng âm thanh hỗn hợp.   II – Nhạc cụ dây :   1. Ting Ning” còn gọi là “ Đàn goong” : “ Ting ning” xuất hiện với người Rơ Ngao cũng khá lâu, có câu chuyện kể rằng: “… Ngày xưa, có cặp tình nhân nọ rất yêu nhau mà không thể lấy được nhau để sống chung một bếp lửa, bởi người con trai ấy là chú, và người con gái nọ là cháu ruột. Cha mẹ anh chị can ngăn, nhất quyết không cho hai người nên vợ nên chồng được, vì quan hệ máu mủ quá gần gũi… Nhưng hai người vẫn lén lút gặp nhau.   …Một hôm trong lúc mọi người đi vắng, hai người bàn với nhau lấy cái chết còn hơn là sống không có nhau. Họ cùng nhau lên rừng thắt cổ tự tử. Lạ thay! Khi đến nơi, hai người lời qua tiếng lại, ai trước ai sau thắt cổ ?...Cuối cùng, người con gái mềm lòng, phần vì quá yêu chàng, nên nàng đã thắt cổ chết trước…Thấy vậy, chàng trai kia sợ quá liền vội chạy về nhà kêu cứu !... Dân làng đến đưa xác cô gái về và tổ chức tang lễ theo phong tục của làng…Vài tháng sau khi nàng mất, chàng buồn chán, ăn cơm chẳng vào mà ngủ cũng chẳng lành… Đến chết chàng nhất định không lấy vợ nữa....Vào một buổi chiều hôm nọ, một mình chàng khăn gói đi ngủ đêm bên bờ suối trong rừng. Càng về khuya mắt chàng càng cay, không thể nhắm mắt ngủ được…Thoảng nghe từ dưới suối tiếng âm thanh rất lạ, chàng chổm dậy đốt thanh củi tre, lội đến nơi rọi thấy “ Kơ’bong” ( loại cây ống mọc bên bờ suối ) va vào nhau lúc mạnh lúc yếu, phát ra hai âm thanh có cao độ khác nhau, lúc va vào giữa thân cây tiếng kêu to “ Ting”, va vào mắt cây tiếng kêu nhỏ hơn “ Ning”… Chàng về nhà đi chặt cây lồ ô và lấy “Kơxi Rơ-bo” ( rễ cây rừng dập phơi khô làm dây đàn ), lúc đó chàng chỉ làm được 3 dây ( nếu là giọng La ) cao độ của nó từ trầm lên bổng : “ Là, Mi, Lá” … Có cây đàn, tuy có nhớ nàng, trong lòng chàng thấy thanh thản hơn nhiều, cứ chiều tối về, nhất là những đêm có trăng, chàng ngồi dựa trên thành cửa nhà Rông gẩy đàn, trong lúc đang cảm hứng với tiếng đàn của mình, từ dưới mộ nàng uyển chuyển đi tới cổng làng vẫy tay gọi chàng: “ Chàng đàn hay quá ! Làm em từ dưới mộ tỉnh dậy đến nghe tiếng đàn của chàng đây” ! Quá mừng thấy nàng về, vừa kịp móc cây đàn trên thành nhà Rông, chàng liền nhảy xuống đất để đến với nàng… Không ngờ, chiếc “Lao” ( chiếc đao ) của chàng bị tuột khỏi vỏ bọc đâm trúng bụng chết ngay tại chỗ… Còn cô gái mừng lắm ! Vì đã có chàng bên cạnh mình rồi !... Từ đó người ta đặt tên cho đàn này là “ Ting Ning” bởi tiếng âm thanh “ Kơ’bong” như câu chuyện vừa kể trên.   …Mãi sau này mới có dây kim loại, các nghệ nhân phát triển thành nhiều dây, mỗi lần nghe giai điệu “ Ting Ning” reo, các cô gái đẹp giành nhau đem lòng yêu thương, và ngỏ ý lấy làm chồng vì quá say mê tiếng đàn “Ting Ning”.                                                             Người Rơ Ngao nói chung, và các chàng trai chưa vợ nói riêng rất thích loại đàn này, bởi nó là công cụ dễ làm ngã lòng bao cô gái… So với các loại nhạc cụ khác, “ Ting ning” có thể là loại đàn tương đối khó chơi, từ cách làm đàn, bố trí dây, sắp xếp các ngón tay, tuy nó là dây buông, nhưng mật độ dây rất dày, khi chơi đàn cũng hay nhầm lẫn giữa các nốt với nhau.                   2. " Brook DoôngĐàn 2 dây :   Ngày xưa " Brook Doông” là loại nhạc cụ dây mà người Rơ Ngao hay sử dụng vào những lúc tối trước khi đi ngủ, hay trước lúc gà gáy sáng. Được mùa gặt hái nhiều hay ít, no đủ hay ăn không giáp mùa, họ vẫn vô tư đàn, hát và tự thưởng thức các loại hình nghệ thuật sẵn có của mình, nhất là " Khai Ning nơng " (Tháng nhàn rỗi, nghỉ ngơi ăn chơi).   - Cách làm :  Đây là loại đàn có hai dây, họ dùng các ngón tay phải để gẩy ( móc ) dây đàn. Các ngón tay trái dùng để bấm các nốt trên cần đàn. Cách làm đàn cũng đơn giản, không phức tạp như đàn " Ting ning ", lấy ống lồ ô to bằng hoặc nhỏ hơn cổ tay một chút, cắt dài khoảng 0,80 cm (Dài ngắn tuỳ thuộc vào người làm đàn, ngắn dây bổng, dài dây trầm ), đút khúc gỗ vào ống làm chân đàn, đồng thời để làm ngựa căng 2 dây ( 1 dây khoảng cách cao hơn, 1 dây sát mặt cần đàn ), khoét 2 lỗ đút 2 trục cao thấp để chỉnh dây đàn, trục lòi ra dài là dây buông (cố định, không bấm ), trục lòi ra ngắn là dây buông, bấm các nốt trên cần đàn (thường xuyên di chuyển ).                3. Brook oot ( đàn K'ni ) :   Cũng nhưBrook Doông về nội dung và thời điểm sử dụng,  Brook oot là nhạc cụ dây có nét đặc trưng riêng, âm thanh nhẹ nhàng cuốn hút người nghe, và hiểu được tiếng đàn đang nói gì ? …với ai ?.    - Cách sử dụng : cũng tương đối khó nếu chưa quen. Người chơi ở tư thế ngồi, các ngón tay trái bấm các nốt trên cần đàn, tay phải cầm cần kéo vót mỏng để nguyên vỏ lồ ô dài khoảng 0,50 cm, lấy nhựa thông bôi lên thân cần kéo ấy, sau đó buộc sợi chỉ từ dây đàn kéo lên miệng ngậm " Hơ-gia " ( ngày xưa họ làm bằng sừng trâu ) . Khi chơi đàn phải dùng miệng hoạt động liên tục, lúc mở vừa, to hay khép lại, để có âm thanh của cây đàn.   III - Nhạc cụ hơi :   1. Đing But ( K'long Put ):    - " Đing but " là loại nhạc cụ hơi, người ta dùng hai tay vỗ vào miệng ống, hơi lùa vào bên trong phát ra âm thanh của ống đó.   - Ngày xưa, loại nhạc cụ này chỉ dành riêng cho phái nữ, nhất là những đêm trăng " Mơnêl " ( trăng lưỡi liềm ), các cô gái trẻ thường đến với nhau trò chuyện, đồng thời có người mang đàn Ding but  ra để trổ tài, người thì xúm nhau cùng giã gạo nếu trong nhà có lúa… Tiếng chày giục giã hoà với tiếng đàn, làm cho đêm trăng càng sáng, tiếng vui đùa càng rộn ràng hơn… Có một câu chuyện mà các cụ hay kể về đàn này rằng: " Thời cha ông ngày xưa khi mới biết làm rẫy, họ thường dùng ống lồ ô hoặc ống nứa khô gọi là " Đing hơnoi " (ống trỉa lúa ) cho lúa giống vào, khi trỉa tay phải nắm hạt lúa cho vào lỗ đã chọc sẵn, tay trái cầm ống và dùng chân ống lấp lỗ đi, khi gần hết hạt lúa trong ống, tiếng lấp lỗ phát ra âm thanh của ống. Từ đó các cụ nhgĩ ra và làm nhiều ống dài ngắn thành đàn  Đing but  bây giờ.   - Cách làm : Cũng không khó lắm, nhưng tìm ống để làm đàn khó khăn hơn nhiều. Sau khi lấy bó ống nứa về, nếu đã khô đem ra ngâm nơi ao bùn lầy, nếu ống còn tươi nên dựng đứng cho đến khi ống đã chuyển sang màu vàng mới đem ra ngâm từ 1 - 2 tháng rồi vớt lên rửa sạch, sau đó để trên giàn bếp sấy thật khô mới lấy ra làm đàn. ( không riêng đàn " Đing but " kể cả nhạc cụ khác nếu liên quan đến ống tre nứa, đều phải làm theo trình tự như vậy, bảo quản được lâu, không bị mối mọt ). Vậy nên khi làm đàn, cẩn thận là tốt nhất để chúng ta cắt ống từ dài lên ngắn dần, để tìm ra cao độ như ý muốn, ống được cắt rỗng hai bên.   - Thang âm " Đing but " dân gian của người Rơ Ngao chỉ có 3 âm, mỗi âm cách nhau 1 quảng 8. Ví dụ : Âm thấp nhất xuất phát từ nốt, các âm tiếp theo phải là Đô - Sol - Lá - Đố - Sol - Lá - Đố… Sau này chúng ta mới phát triển đủ thang âm để thuận tiện trong việc xử lý các tác phẩm khác nhau.   2. Đing Jơng, Đing Hor ( Đàn thổi ống ) :   - "Đing Jơng" là loại nhạc cụ thu nhỏ từ " Đing but ", ống chỉ bằng ngón tay trỏ, dùng hơi từ miệng thổi vào lỗ ống âm thanh rất nhỏ, chỉ đủ cho người bên cạnh và bản thân người chơi nghe được thôi. Ngày xưa, loại đàn này chỉ dành cho người có tuổi, khi buồn nhớ bạn tình cũ, họ thường lấy đàn để thổi cho riêng mình nghe để nhớ lại những kỷ niệm xa xưa khi còn trẻ.- Cách làm đàn cũng rất đơn giản, vì ống nhỏ nên dễ cắt hơn so với đàn " Đing but ", sau khi cắt xong, người ta kẹp các ống thành hàng ngang từ ống dài đến ống ngắn, lấy dây mây buộc chặt lại, như vậy chúng ta đã có đàn " Đing Jơng " cho riêng mình.   - Thang âm của " Đing Jơng " cũng giống như đàn " Đing but ": Là - Đô - Sol - Lá - Đố - Sol - Lá…    - " Đing hor”Về nội dung và hình thức không khác gì " Đing Jơng ", nhưng về thang âm, " Đing hor " lại giống thang âm chiêng. Nếu ống dài nhất có cao độ từ nốt Si giáng, thì chủ âm là giọng Đô trưởng, thang âm của nó sẽ là: Sì - Đô - Mi - Fa - Sol - Si - Đô - Re - Fa - Sol – Lá.    3 . Hool( Sáo ) :    Cũng như bao dân tộc anh em ở Tây Nguyên nói chung, và Kon Tum nói riêng, người Rơ Ngao ngày xưa khi chưa biết làm sáo " Hool ", vào những mùa tuốt lúa họ cắt lấy gốc rạ hay nhặt cây lá bí già, rồi họ bóp sát mắt ống thành nhiều đường ống dẫn hơi, bằng ngón tay họ đo, cắt khoảng cách lỗ với nhau rồi thổi. Gốc rạ hay lá bí không thể xử dụng được lâu nên họ mới nghĩ ra làm sáo " Hool " băng ống nứa như bây giờ.   " Hool”của người Rơngao to hơn hoặc bằng ngón tay cáI, ở đầu sát mắt ống họ khoét lỗ dẫn hơi gọi là " trôm hmui ", chẻ lấy vỏ nứa vót mỏng buộc chặt với lưỡi gà, dùng bàn tay hay ngón tay để khoảng cách và khoét các lỗ thang âm như sau:  

Ông rỗng                    Bấm lỗ 1                    Bấm lỗ 2                   Bấm lỗ 3              
Thổi mạnh, nhẹ          Thổi mạnh, nhẹ       Thổi mạnh, nhẹ     Thổi mạnh, nhẹ

B - Nhạc hát " Hri, ChơChâp ": 

Loại hình ca hát của người Rơ Ngao cũng như bao dân tộc khác ở KonTum, phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Họ có thể ngồi hát một mình ở nhà, khi đi làm trên rừng, dưới suối…hoặc đối đáp với người cùng giới hay khác giới khi quây quần bên ché rượu cần.   " Hri” Hát có lời, " Chơchâp” Xướng giai điệu, ( có nghĩa là không thuộc lời bài hát, chỉ nhớ phần giai điệu gọi là " chơchâp”.   Loại hình ca hát của người Rơ Ngao gồm có: " Hri Loông” ( Hát ru ). " Hri 'nhoi” ( Hát đồng dao ) " Hri hơnhông, hri cheo hoặc hri trôm” ( Hát đối đáp, dạy bảo con cái ). " Hmoi”( Hát khóc )…                     1. Hri Loông ( Hát ru ) :   - Hát ru của người Rơ Ngao gắn liền trong sinh hoạt hàng ngày của các bậc ông bà, cha mẹ anh chị, chú bác, cô dì. Là người có quan hệ họ hàng gần gũi mật thiết với người được ru. Nếu người thân đi vắng hay đi làm xa, người được ru chưa cai sữa mẹ được thì người ru phải đi theo, gần thì phải dỗ ở nhà.   - Hát ru của người Rơ Ngao được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1:Từ trẻ sơ sinh cho đến khi em bé biết ngồi. Giai đoạn 2: Bé biết bò cho đến khi biết đứng tập đi chập chững. Giai đoạn 3: Bé biết đi cho đến khi biết theo cha mẹ đi xa.   -Cách thể hiện bài hát cũng khúc giai điệu ấy, giữa người hát ru và người được ru có mối quan hệ như thế nào, người được ru là em hay con cháu, thì người hát ru phải tự mình xử lý cách xưng hô. Giai đoạn 2 : Lời bài hát dành cho người hát ru là ông bà, cha mẹ, cô chú. Mừng cho bé biết ngồi,bò , chập chững tập đi. Giai đoạn 3 : Lời bài hát dành cho người hát ru chủ yếu là cha mẹ, cô chú… khuyên con cháu không nên đi theo bố mẹ đi suối hay lên rừng.                      2. Hri 'Nhoi( Hát đồng dao ) :     Ngày xưa người Rơ Ngao thường có câu : " 'Nhoi thây dê, lơlê thây hul”( Chọc cho chán, ghẹo cho tức ); thường xảy ra hàng ngày ở trẻ con. Mỗi khi họ thấy, biết một người nào đó làm những việc không phải, lập tức một người trong nhóm hát trước và mọi người cùng hát theo, cứ như thế họ hát đi hát lại để cho người kia thấy xấu hổ việc mình đã trót làm. Nếu có tức giận, cùng lắm chỉ rượt đuổi cho trẻ con phân tán, song họ vẫn co cụm cùng nhau để tiếp tục ghẹo " lơlê " từ xa cho đến khi thấy người kia ôm mặt khóc thì họ mới kéo nhau đi chơi nơi khác. " Hri 'nhoi” là một khúc nhạc ngắn thường lặp đi lặp lại, chỉ thay vào đó về nội dung sự việc xảy ra.   3. Hri Hơ’Mon, HơNhoông, Cheo, Troôm :   Hri Hơ'mon, Hri hơnhoông, Cheo hay Trôm là loại hình sinh hoạt ca hát mà người Rơ Ngao sử dụng để tâm sự với riêng mình, với bạn bè, người thân,người yêu hay dạy bảo con cái không nên làm những việc sai trái.    - Hri Hơ'mon là loại hình hát kể sử thi rất phổ biến với người Rơ Ngao, sử dụng giai điệu để hát kể truyện xưa như: Bô Pơtău, Rok, Xet, Bia Rang Hu, Rang Mă, Giông, Giâ…Hầu như plei nào cũng có ít nhất từ 2 đến 3 nghệ nhân giỏi hát kể. Khi chiều tối sau khi đi làm về, mọi người tắm rửa cơm nước xong xuôi, chuẩn bị chăn chiếu đến nghe hát kể. Nếu câu truyện dài thì ngủ lại, còn sức khoẻ nghệ nhân yếu thì phải về ngủ nhà, tối mai lại tiếp tục đến nghe… Xuất phát từ hát kể  Hri Hơ'mon , sau này họ dùng giai điệu đó để đặt lời và hát trong sinh hoạt tiếp xúc hàng ngày, đó là loại hình Hơnhoông.    - Hri Cheo có thể sử dụng để dạy bảo con cái, đăc biệt đây là loại hình ca hát để đối đáp với nhau khi bên ché rượu cần. Ngày xưa người Rơ Ngao thường sử dụng Hri Cheo để thi với nhau, câu từ ví von bên nào hết trước đồng nghĩa với người đó không tìm ra câu trả lời, thì người đó phải thua cuộc. Độ khó của Hri Cheo phức tạp hơn loại hình ca hát khác.   - Hri Troôm : Đây là loại hình ca hát ít khi người Rơ Ngao sử dụng ở nhà. Khi biết, thấy con cái mình làm những việc không tốt đẹp, trái với sự mong muốn của cha mẹ, dạy bảo trong nhà sợ người khác nghe thấy con mình hư, cha mẹ xấu hổ thay, nên họ chọn nơi xa nhà và vắng người. Nơi tốt nhất họ chọn là khi đi làm rẫy, ở đó người lớn có thể bộc lộ hết sự quan tâm dạy bảo của mình với con cái bằng cách hát  Hri Troôm.   Theo lời các cụ kể : “… ngày xưa khi nghe tiếng kêu của con vượn trong rừng, các cụ bắt chước làm thành giai điệu Troôm bây giờ, và chúng ta nghe phần mở đầu loại hình này đều xuất phát từ tiếng kêu của con vượn.   - Hri Hmoi ( Hát khóc ) Chỉ sử dụng duy nhất khi có người chết, bình thường tuyệt đối không đùa giỡn với giai điệu này. Ngày xưa, nếu ai đó có cãi hoặc đánh nhau nhẹ, người bên kia cãi hay đánh không lại, đành lấy hát Hmoi người thắng cho bõ tức giận, thế thì người Hmoi sẽ bị phạt vì đã xem người thắng là ma. Vì vậy mỗi lần nghe giai điệu này là họ biết ngay trong làng có người mất. Ngày xưa, thân nhân hay bà con gần với người chết nếu đến thăm mà không biết hát khóc thì họ xem người đó không có lòng thương tiếc người.                         Nhạc sỹ: A Duh Sưu tầm, giới thiệu. Về trang trước Gửi email

Tin tức liên quan

  • Trải nghiệm văn hóa Giẻ-Triêng tại Làng du lịch cộng đồng Đắk Răng (27/08/2024)
  • Gặp gỡ những người trở về từ Chiến thắng Đăk Pék (16/05/2024)
  • Di tích lịch sử Chiến thắng Đăk Pek được xếp hạng di tích quốc gia (15/05/2024)
  • Kon Tum - Chuyển đổi số để tăng tốc phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn (26/03/2024)
  • Huyện Đăk Hà: 30 năm xây dựng và phát triển (13/03/2024)
Giới thiệu
  • Lịch sử hình thành
  • Điều kiện tự nhiên
  • Đơn vị hành chính
  • Dân số và lao động
  • Bản đồ hành chính
Bộ máy tổ chức
  • Tỉnh ủy
  • Ủy ban nhân dân tỉnh
  • Các sở, ban, ngành
  • UBND các huyện, thành phố
Chính quyền số
  • Hệ thống theo dõi CĐĐH
  • Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính
  • Hệ thống đánh giá Bộ chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp.
  • Hệ thống quản lý VB&ĐH
  • Văn bản chỉ đạo điều hành
  • Thư điện tử công vụ
  • Lịch công tác UBND tỉnh
  • Tài liệu họp
Thông tin báo cáo thống kê
  • Báo cáo hiện trạng môi trường và Bộ chỉ thị môi trường
  • Báo cáo kinh tế - xã hội
Dự án đầu tư
  • Dự án hoàn thành
  • Dự án đang triển khai
  • Dự án chuẩn bị đầu tư
  • Dự án kêu gọi đầu tư
  • Đấu thầu, mua sắm công
Quy hoạch & Phát triển
  • Quy hoạch xây dựng, đô thị
  • Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
  • Quy hoạch thu gom, tái chế, xử lý chất thải
Chương trình & Đề tài
  • Chương trình, đề tài khoa học
  • Kết quả nghiệm thu
  • Đề tài/Dự án đã đăng ký thực hiện nhiệm vụ KH&CN
Liên kết website Website Tỉnh, Thành phố Tỉnh An Giang Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Tỉnh Bạc Liêu Tỉnh Bắc Giang Tỉnh Bắc Ninh Tỉnh Bến Tre Tỉnh Bình Dương Tỉnh Bình Định Tỉnh Bình Phước Tỉnh Bình Thuận Tỉnh Cà Mau Tỉnh Cao Bằng Thành phố Hà Nội Thành phố Hải phòng Thành phố Hồ Chí Minh Website Bộ, Ngành Bộ Công thương Bộ Giao thông Vận tải Bộ Khoa học và Công nghệ Bộ Nội vụ Bộ Quốc phòng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thanh Tra Chính phủ Ủy ban Dân tộc Văn phòng Chính phủ Liên kết khác Tạp chí Cộng sản Đảng cộng sản Việt Nam Quốc hội Chính phủ
  • Trang chủ
  • Liên hệ
  • Góp ý
  • Sơ đồ cổng
  • RSS

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH KON TUM Giấy phép số 08/GP-TTĐT do Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Kon Tum cấp ngày 20/12/2019 Quản lý kỹ thuật: Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Kon Tum, số 70 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Đăng Trình - Chánh Văn phòng UBND tỉnh. Điện thoại hỗ trợ: 0260.3797799; Email: bbtcongttdt@kontum.gov.vn

Đang truy cập: 95 . Tổng lượng truy cập: 98.532.517

Chung nhan Tin Nhiem Mang ipv6 ready

Từ khóa » đàn K'ni