Skkn Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Giải Toán Lời Văn Dạng Bài Toán ...

logo xemtailieu Xemtailieu Tải về Skkn một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán lời văn dạng bài toán liên quan rút về đơn vị lớp 3
  • doc
  • 27 trang
UBND THỊ XÃ CHÍ LINH TRƯỜNG TIỂU HỌC SAO ĐỎ 2 BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán lời văn Dạng: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Lớp 3 Môn: Toán Năm học 2014 – 2015 0 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán lời văn Dạng: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị Lớp 3 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến áp dụng cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp Ba các trường Tiểu học được học chương trình chuẩn. 3. Tác giả: Họ và tên: Mạc Thị Lan Ngày tháng năm sinh: 08 - 12 – 1970 Trình độ chuyên môn: Đại học. Chức vụ : Phó hiệu trưởng. Đơn vị công tác: Trường tiểu học Sao Đỏ 2, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương Điện thoại: 0974 010 297 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Mạc Thị Lan 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường tiểu học Sao Đỏ 2, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Giáo viên có trình độ từ CĐSP trở lên. Tuy nhiên để mang lại hiệu quả cao, giáo viên cần biết vận dụng phương pháp dạy học sao cho linh hoạt, phù hợp với đối tượng và điều kiện học sinh. GV có đủ các phương tiện và đồ dùng dạy học. HS có đủ sách giáo khoa, hiện hành và các đồ dùng học Toán. 7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9 năm 2013 đến nay. XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN TÁC GIẢ MẠC THỊ LAN 1 TÓM TẮT SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến. Xuất phát từ thực trạng học toán của học sinh lớp 3 hiện nay còn lúng túng khi giải toán có lời văn, chưa nắm chắc bản chất của việc giải toán lời văn, kĩ năng phân tích hay tổng hợp còn hạn chế chưa hiểu đúng những dữ kiện bài toán được ẩn ý dưới dạng lời văn để phân tích tìm ra cách giải. Một bộ phận giáo viên chỉ dạy học sinh giải toán ở mức áp dụng bài mẫu trong sách giáo khoa. Khi dạy, giáo viên chưa phân loại được các dạng toán cơ bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh. Vậy dạy như thế nào để học sinh dễ hiểu, biết cách giải bài toán lời văn lớp Ba, giảm bớt khó khăn và hạn chế, sai lầm thường mắc của học sinh khi thực hiện giải toán có lời văn. Đây là một vấn đề rất rộng và khó song tôi đi sâu vào một dạng toán điển hình ở lớp Ba “ Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.” và đây là dạng toán làm tiền đề cho các em học toán lớp 4 và 5 sau này. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến. 2.1. Điều kiện: Giáo viên có trình độ từ CĐSP trở lên. Tuy nhiên để mang lại hiệu quả cao, giáo viên cần biết vận dụng phương pháp dạy học sao cho linh hoạt, phù hợp với đối tượng và điều kiện học sinh. CSVC: Phòng học rộng rãi, thoáng mát có đủ bàn ghế thuận tiện cho HS di chuyển trong tiết học. GV có đủ các phương tiện và đồ dùng dạy học. HS có đủ sách giáo khoa, hiện hành và các đồ dùng học Toán. 2.2. Thời gian: Tháng 9 năm 2013 đến nay. 2.3. Đối tượng: Sáng kiến áp dụng cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp Ba các trường Tiểu học được học chương trình chuẩn. 3. Nội dung sáng kiến: 3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến. 2 Các giải pháp truyền thống chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh khi giải bài toán có lời văn, học sinh còn thụ động áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc, chưa hiểu chắc được bản chất của vấn đề. Sáng kiến đi sâu, vào nghiên cứu và đưa ra các biện pháp tích cực giúp học chủ động, linh hoạt, sáng tạo khi vận dụng giải bài toán có lời văn ở lớp 3 nói chung và dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên chỉ là người định hướng, gợi mở, dẫn dắt. Học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động linh hoạt, sáng tạo. Làm cho tiết học trở nên sinh động, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái và đạt hiệu quả tốt hơn. Từ đó khơi ngợi nguồn cảm hứng, các em thích thú học tập. 3.2. Khả năng áp dụng: Các biện pháp dạy học sinh giải toán có lời văn trong sáng kiến này có thể áp dụng để giảng dạy phần kiến thức mới, luyện tập, các tiết ôn tập, tiết (tăng) buổi 2, giúp giáo viên giảng dạy hình thành biểu tượng, phương pháp, củng cố khắc sâu, mở rộng kiến thức và kĩ năng giải bài toán lời văn một cách linh hoạt cho học sinh. 3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến. Sáng kiến phù hợp với lý luận về giáo dục, phù hợp với chủ trương, chính sách hiện hành về giáo dục và đào tạo của Nhà nước. Vận dụng sáng kiến vào giảng dạy hàng ngày đem lại lợi ích thiết thực tiết kiệm được thời gian khi giảng dạy không kéo dài thời gian tiết học làm cho tiết học trở lên sinh động, nhẹ nhàng, thoải mái. Tiết kiệm được công sức của người dạy và người học. GV không phải nói nhiều, làm nhiều, chỉ định hướng, dẫn dắt. Học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập mang lại hiệu quả cao. Tạo cho học sinh niềm đam mê, hứng thú học tập. Bồi dưỡng cho các em khả năng tư duy, suy luận, logic, cách học tập và làm việc khoa học, rõ ràng, cụ thể. Sáng kiến góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng mục tiêu phát triển của đất nước hiện nay. Giúp các em trở thành những con người phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ,… 3 4. Khẳng định kết quả sáng kiến mang lại Sáng kiến góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, nâng cao chât lượng môn Toán cho học sinh lớp Ba nói riêng. Từ việc nghiên cứu nguyên nhân đến tìm hiểu thực trạng việc dạy và học toán hiện nay. Tôi đề xuất một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Đồng thời tiến hành dạy thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của những biện pháp đó. Thực tế cho thấy, chất lượng dạy học môn Toán nói chung, kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh nói riêng ở lớp tôi trực tiếp giảng dạy, đã được nâng cao rõ rệt so với các lớp chưa áp dụng các biện pháp đã nêu. Điều đó khẳng định rằng: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 đã nêu trong sáng kiến này có hiệu quả tốt, có tính khả thi cao. Có thể áp dụng rộng rãi vào thực tế giảng dạy hàng ngày ở lớp 3 hàng ngày. 5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng. Đối với học sinh lớp Ba, mục tiêu chính là dạy cho các em nắm được kiến thức theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn học nói chung và hình thành phương pháp học Toán một cách chủ động, linh hoạt, sáng tạo.Trong sáng kiến này, tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu Một số biện pháp rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn ở lớp 3 và đi sâu vào dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Bước đầu hình thành cho các em phương pháp và thói quen khi giải bài toán có lời văn. Tôi chưa đi sâu nghiên cứu việc rèn kĩ năng giải các bài toán ở dạng khác. Để chất lượng môn Toán của học sinh đạt cao hơn nữa và giúp các em học sinh phát huy khả năng cá nhân ở các lớp 4,5. Cần được tiếp tục nghiên cứu, áp dụng tiếp cách giải bài toán lời văn ở nhiều dạng khác nhau để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán.. 4 MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến. 1.1. Xuất phát từ thực trạng học toán của học sinh lớp 3 hiện nay còn lúng túng khi giải toán có lời văn, chưa nắm chắc bản chất của việc giải toán lời văn, kĩ năng phân tích hay tổng hợp còn hạn chế chưa hiểu đúng những dữ kiện bài toán được ẩn ý dưới dạng lời văn mà học sinh phải hiểu đúng ý lời văn, phải suy luận mới tìm ra được mối liên quan giữa các dữ kiện để phân tích tìm ra cách giải. 1.2. Một bộ phận giáo viên chỉ dạy học sinh giải toán ở mức áp dụng bài mẫu trong sách giáo khoa. Khi dạy, giáo viên chưa phân loại được các dạng toán cơ bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh. 1.3. Nhu cầu xã hội hiện nay đào tạo các em trở thành những con người chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong cuộc sống. Mục tiêu môn Toán Tiểu học nhằm giúp học sinh có kiến thức cơ bản ban đầu về số, các đại lượng, yếu tố hình học và giải các bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong cuộc sống; giúp các em có kĩ năng thực hành, phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận và diễn đạt đúng (nói, viết) cách phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống. Giúp học sinh hình thành phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Vậy dạy như thế nào để học sinh dễ hiểu, biết cách giải bài toán lời văn lớp Ba, giảm bớt khó khăn và hạn chế, sai lầm thường mắc của học sinh khi thực hiện giải toán có lời văn. Đây là một vấn đề rất rộng và khó song tôi đi sâu vào một dạng toán điển hình ở lớp Ba đó là dạng “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.” và cũng là dạng toán làm tiền đề cho các em học toán lớp 4 và 5 sau này. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề: Cấp Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, là nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân. Môn toán là một môn học trí tuệ, giúp học sinh rèn luyện phương pháp 5 tư duy, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề,... giúp học sinh rèn luyện trí thông minh và tính sáng tạo. Nó còn giúp học sinh trau dồi những đức tính quý báu như: cần cù, nhẫn lại, tự lực cánh sinh, ý trí vượt khó, kiên trì, sự đam mê, tính chính xác,... Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy ở học sinh (phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra phương pháp giải toán.) Để đạt được hiệu quả cao, người giáo viên phải biết cách tổ chức, hướng dẫn cho học sinh (các nhân, nhóm, cả lớp) hoạt động theo mục đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của SGK và của đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân "khám phá" tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức có liên quan đã học. Để mỗi học sinh đều đạt tới những kết quả theo chuẩn quy định trong kế hoạch và chương trình đối với từng môn học, từng hoạt động học của học sinh. 3. Thực trạng của vấn đề Trong 4 mạch kiến thức Tiểu học thì “giải toán có lời văn” là một loại toán khó đối với học sinh, đòi hỏi học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, phải biết phân tích, tổng hợp vì nhiều dữ kiện của bài toán được ẩn ý dưới dạng lời văn mà học sinh phải hiểu ý của lời văn, phải suy luận mới tìm ra được mối liên quan giữa các dữ kiện của bài toán mà phân tích tìm ra cách giải. Bài toán có lời văn được xuyên suốt chương trình toán bậc Tiểu học. Nó được viết dưới các dạng toán khác nhau, tùy từng đối tượng học sinh từ lớp 1 – lớp 5, từ đơn giản đến phức tạp. 3.1. Học sinh Ở lứa tuổi Tiểu học, khả năng phân tích của các em còn hạn chế, sự chú ý không chủ định chiếm ưu thế, trí nhớ trực quan hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ lôgíc. Các em còn mải chơi, không chú ý nhiều đến học tập, không chú ý đến dấu hiệu của bản chất vấn đề đang học. Các em nhanh nhớ, cũng nhanh quên, hay mắc tính chủ quan, hiếu động. Tư duy của các em chưa phát triển cao nên 6 những bài toán áp dụng công thức, quy tắc cơ bản của các em dễ làm hơn các bài toán suy luận. Một số em chưa nắm vững chắc cách thực hiện các phép tính: nhân, chia trong bảng và ngoài bảng. 3.2. Giáo viên : Khi dạy “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ” Giáo viên chưa thực hiện đầy đủ các bước của qúa trình giải toán, chưa hướng dẫn học sinh cách đọc và phân tích dữ liệu, cách tóm tắt đề, ... Một bộ phận giáo viên chỉ dạy học sinh giải toán ở mức áp dụng bài mẫu trong sách giáo khoa, chưa phân loại được các dạng toán cơ bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh. 3.3. Điều tra, khảo sát chất lượng học sinh. *Đề khảo sát: ( 15 phút) Hãy tóm tắt và giải các bài toán sau: Câu 1: Trong vườn ươm, người ta đã ươm 2032 cây giống trên 4 lô đất, các lô đất đều có số cây như nhau. Hỏi Hai lô đất có bao nhiêu cây? Câu 2: Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiêu hàng như thế? * Biểu điểm: Câu 1 Nội dung -Tính được một lô đất có bao nhiêu cây + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng - Tính được hai lô đất có bao nhiêu cây + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng Cách cho điểm - Đáp số đúng. 1 điểm -Tính được một hàng có bao nhiêu học sinh + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng - Tính được 60 học sinh xếp được số hàng là + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng 2 - Đáp số đúng. 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm 7 3.4. Kết quả: Sĩ số 9-10 7-8 3A: 35 Em 7 % 20 Em 15 % 42,9 Đối chứng 3C: 35 8 22,9 14 40 5- 6 Em % 8 22,9 9 25,7 Dưới 5 Em % 5 14,2 4 11,4 Thực nghiệm Qua khảo sát chất lượng và tìm hiểu thực tế, tôi thấy học sinh còn mắc một số sai sót trong quá trình giải toán do các nguyên nhân sau: Các em chưa có thói quen đọc kĩ đề bài nên chưa hiểu đúng ý nghĩa từ ngữ, các câu văn trong bài toán. Chưa phân tích, thiết lập được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong bài toán. Một số em chưa phân biệt được dạng toán, còn nhầm lẫn sang dạng toán khác. Từ các nguyên nhân trên dẫn đến : Học sinh chưa biết tóm tắt bài toán, chưa tìm ra cách giải đúng của bài toán. Tìm câu trả lời chưa đúng hay thực hiện tính toán còn sai. Ghi đơn vị của đại lượng chưa đúng. (bước 2 của bài toán 2) 4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện. 4.1. Các phương pháp nghiên cứu: 4.1.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận. Đọc các tài liệu. Tìm hiểu nội dung chương trình, mục tiêu, chuẩn KTKN cần đạt môn Toán ở bậc Tiểu học nói chung và môn Toán lớp Ba nói riêng. 4.1.2. Phương pháp điều tra, khảo sát. Điều tra chất lượng học sinh qua khảo sát, phỏng vần, theo dõi.... Trao đổi với đồng nghiệp. 4.1.3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả. Kiểm tra, đánh giá kết quả sau mỗi giai đoạn học tập. 8 Thống kê chất lượng. 4.1.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. Rút ra bài học cho bản thân, trao đổi với đồng nghiệp áp dụng vào giảng dạy thực tế. 4.2. Biện pháp thực hiện. 4.2.1. Hướng dẫn học sinh quy trình giải bài toán có lời văn ở lớp 3. Để hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn nói chung và Bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, tôi không áp đặt cách giải, không làm thay học sinh, luôn gợi mở tạo cho học sinh tìm ra cách giải bài toán. Tập trung vào các bước sau. Bước 1: +Phân tích, tóm tắt đề toán Đọc đề toán, gạch chân những từ “mấu chốt”, nắm được "dữ kiện" là cái đã cho, đã biết; "ẩn số" là cái chưa biết, cần tìm và "điều kiện" là mối quan hệ giữa “dữ kiện” và "ẩn số" Ở bước này tôi nêu hai câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? +Tóm tắt đề toán: Thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm, tóm tắt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ, kí hiệu, sơ đồ, hình vẽ,... Tùy thuộc vào nội dung mỗi bài toán mà lựa chọn cách tóm tắt phù hợp sao cho ngắn gọn, khoa học, đầy đủ, rõ ràng. (không nhất thiết phải viết tóm tắt vào phần trình bày lời giải.) Bước 2: Lập kế hoạch giải toán Thông qua việc thiết lập mối quan hệ dữ liệu của bài với yêu cầu bài toán. Tôi hướng dẫn học sinh suy nghĩ để trả lời câu hỏi của bài toán cần biết gì, phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ từ cái đã cho và điều kiện của bài toán, có thể giải được bài toán ngay không hay phải qua những bước giải trung gian nào? Trên cơ sở đó, suy nghĩ để lập các bước giải bài toán. Bước 3: Trình bày bài giải Trên cơ sở bước phân tích tìm cách giải, hướng dẫn học sinh diễn đạt câu trả lời các phép tính tương ứng. Tôi luôn gợi mở để học sinh tự diễn đạt câu trả 9 lời trước rồi viết phép tính. (có thể diễn đạt câu trả lời bằng nhiều cách khác nhau, chấp nhận cách diễn đạt vụng về nhưng đúng của học sinh chậm, rồi uốn nắn sửa dần.) Cái khó của việc giải toán có lờì văn trong Toán 3 đối với học sinh chính là trình bày bài giải và nhất là câu trả lời cho bước trung gian. Bước 4: Kiểm tra và thử lại. Kiểm tra xem phép tính đã đúng chưa, viết câu trả lời đã hợp lí chưa?, thử xem đáp số tìm ra có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? Trong giải toán, tôi thường xuyên khuyến khích học sinh tìm nhiều cách giải và biết so sánh, lựa chọn cách giải tốt nhất.Vì thế tôi luôn khai thác được các tiềm năng trong các bài tập, hướng dẫn học sinh trao đổi ý kiến về các cách giải, qua đó củng cố khắc sâu kiến thức bài học. 4.2.2. Hướng dẫn học sinh giải Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Trên cơ sở học sinh đã được làm quen với giải toán có lời văn ở lớp 2 (dạng: thêm, bớt, nhiều hơn, ít hơn, tìm tích, chia thành phần bằng nhau,...) Lên lớp 3 học sinh được học và giải các bài toán hợp (có hai phép tính) phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Trong đó có dạng toán điển hình dạng : "Bài toán liên quan đến rút về đơn vị." Với dạng toán này có hai kiểu bài cơ bản sau: Bài toán giải bằng hai phép tính chia, nhân. Bài toán giải bằng hai phép tính chia. Để giúp học sinh tìm được cách giải cho dạng toán này tôi đã đề ra mục tiêu học sinh cần đạt như sau: -Học sinh hiểu được thế nào là “Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị” -Biết nhận dạng bài toán. -Học sinh biết được cách giải bài toán có liên quan đến dạng toán từ đơn giản đến phức tạp. 4.2.2.1 Dạy bài mới: Căn cứ vào yêu cầu về kiến thức, kĩ năng mỗi tiết học, nội dung sách giáo khoa, chương trình môn Toán lớp 3, tôi đã nghiên cứu, áp dụng theo từng 10 hoạt động trong mỗi tiết học như sau: *Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia, nhân Bài toán 1: Có 6 can dầu như nhau đựng được 30l dầu ăn. Hỏi 4 can như thế thì đựng được bao nhiêu lít dầu ăn? Bước 1: Phân tích, tóm tắt đề Học sinh đọc đề toán -Bài toán cho biết gì? -6 can chứa 30 lít dầu ăn -Bài toán hỏi gì? -4 can như thế đựng bao nhiêu lít dầu ăn. Tóm tắt: 6 can: 30 lít 4 can:.........lít? Bước 2: Lập kế hoạch giải -"6 can như nhau" nghĩa là mỗi can đều đựng số lít dầu bằng nhau. -Muốn biết 4 can đựng được bao nhiêu -Một can đựng đươc bao nhiêu lít. lít ta phải biết gì? -Muốn biết 1 can đựng được bao nhiêu -Lấy 30 : 6 =? lít ta làm thế nào? -Biết 1 can đựng được 5 lít. Làm thế nào -Ta lấy số lít dầu ăn có trong 1 can để tính được 4 can đựng được bao nhiêu rồi nhân với 4 (tức là lấy 5 x 4 = lít? 20) Bước 3: Trình bày bài giải Bài giải Dựa vào bước phân tích trên -HS giải bài toán vào vở. Mỗi can đựng được số lít dầu ăn là: 30 : 6 = 5 (l) Bốn can đựng được số lít dầu ăn là: 5 x 4 = 20(l) Đáp số: 20 lít dầu ăn Bước 4: Kiểm tra, đánh giá - 1 em chữa bài trên bảng lớp. -Giáo viên chữa bài nhận xét: - HS nhận xét, đánh giá. -Bài giải qua mấy bước? - 2 bước. 11 -Bước 1 đi tìm gì? - 1 can đựng bao nhiêu lít dầu ăn.. *Chốt: Bước 1 là bước "rút về đơn vị" -Giới thiệu đây là "Bài toán liên quan đến rút về đơn vị." -Trong bài toán dạng này có hai đại lượng quan hệ với nhau đó là "số can dầu" và "số lít dầu"; số can dầu tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu lần thì số lít dầu cũng tăng lên (hay giảm đi) bấy nhiêu lần. Vì mỗi can chứa số lít dầu như nhau. -Khi giải ta thường làm qua hai bước sau: Bước 1: Tính giá trị một phần bằng nhau (dùng phép chia) Bước 2: Tính giá trị nhiều phần bằng nhau (dùng phép nhân) Yêu cầu học sinh nhắc lại cách giải. *Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia: Bài toán 2: Có 30 lít dầu ăn đựng đều vào 6 can như nhau. Hỏi 20l dầu ăn phải đựng mấy can như thế? Bước 1: Phân tích, tóm tắt đề Học sinh đọc đề toán. -Bài toán cho biết gì? 30 lít dầu ăn đựng vào 6 can. -Bài toán hỏi gì? 20 lít dầu ăn đựng vào mấy can như Tóm tắt: 30 lít: 6 can thế. 20 lít:.... can? -Bài toán liên quan đến dạng toán -Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. nào? Bước 2: Lập kế hoạch giải -Để tính được 20 lít dầu ăn đựng Tìm số dầu ăn đựng trong 1 can vào mấy can thì trước hết ta phải tìm gì? -Làm thế nào để tìm số lít dầu ăn Lấy 30 : 6 = 5 ( l ) đựng trong 1 can? -Biết được 5 lít dầu ăn đựng trong 1 20 lít dầu ăn đựng trong số can là: can, vậy 20 lít dầu ăn đựng trong 20 : 5 = 4 ( can ) mấy can? Làm thế nào? Bước 3: Trình bày bài giải Học sinh làm bài vào vở. -Dựa vào phân tích trên để giải. Số lít dầu ăn đựng trong mỗi can là: 12 -GV hướng dẫn HS phát triển cách 30 : 6 = 5 ( l ) diễn đạt câu trả lời bằng nhiều cách Số can cần để đựng hết 20l dầu ăn là: khác nhau. 20 : 5 = 4 ( can) Đáp số: 4 can dầu ăn Bước 4: Kiểm tra, đáng giá. - 1 em chữa bài trên bảng lớp. Giáo viên chữa bài, nhận xét Học sinh nhận xét, chữa bài Chốt: Bài toán thuộc dạng toán nào? Bài toán thuộc dạng toán “Rút về đơn vị ” -Bài toán giải qua mấy bước? 2 bước. -Bước nào được gọi là bước rút về Bước tìm số lít dầu ăn có trong 1 can đơn vị? (bước 1) -Cách giải bài toán này có gì giống và -Giống: Bước 1 tìm giá trị 1 phần bằng khác với cách giải bài toán 1 nhau. (ứng với việc rút về đơn vị) -Khác: Bước 2 Tìm số phần.(lấy giá trị các phần chia cho giá trị 1 phần) - Đây cũng là một dạng toán cơ bản của Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Với dạng toán này, ta thường giải qua 2 bước: Bước 1: Tìm giá trị của một phần (thực hiện phép chia) Bước 2: Tìm số phần (thực hiện phép chia) Yêu cầu học sinh nhắc lại các bước giải bài toán.. Tiểu kết: Với cách hướng dẫn và khai thác như hai bài toán trên, tôi thấy học sinh không còn lúng túng khi giải toán có lời văn. Bước đầu các em có kĩ năng phân tích, tổng hợp, biết suy luận, phán đoán tìm ra được mối liên quan giữa các dữ kiện để có cách giải phù hợp. Sau mỗi dạng bài, tôi đều chốt kiến thức trọng tâm, hướng dẫn để học sinh so sánh, nhận dạng, phân biệt, ghi nhớ. Từ đó các em không nhầm lẫn khi giải toán. Tôi chỉ là người tổ chức, định hướng, dẫn dắt, học sinh chủ động tích cực tham gia các hoạt động và tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em được phát huy tính tích cực, chủ động linh hoạt, sáng tạo. Làm cho tiết học trở nên sinh động, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái và đạt hiệu quả 13 tốt hơn. Từ đó khơi ngợi nguồn cảm hứng, các em thích thú học tập. 4.2.2.2 Dạy phần luyện tập: Khi học sinh đã nắm được phương pháp và các bước giải, các em sẽ vận dụng những kiến thức đó để thực hành luyện tập giải các bài toán có liên quan. Để giúp học sinh nắm kiến thức một cách vững chắc, đồng thời bộc lộ sáng tạo của mình, khi dạy tôi đã đưa ra một số bài tập sau: *Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia, nhân Bài toán 1: Có 245 quyển vở được xếp vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng như thế có bao nhiêu quyển vở? Yêu cầu học sinh làm bài (theo các bước đã học) Tóm tắt Bài giải 7thùng : 245 quyển vở Mỗi thùng xếp được số quyển vở là: 5 thùng : ...quyển vở? 245 : 7 = 35 ( quyển vở) Năm thùng xếp được số quyển vở là: 35 x 5 = 175 (quyển vở) Đáp số: 175 quyển vở Bài toán 2: Có 6 người thợ làm được 54 sản phẩm (sức làm của mỗi người như nhau). Hỏi 1 phân xưởng có 18 người thì làm được bao nhiêu sản phẩm? Yêu cầu học sinh làm bài (theo các bước đã học) Tóm tắt Bài giải 6 người : 54 sản phẩm Mỗi người làm đợc số sản phẩm là: 18 người : ... sản phẩm 54 : 6 = 9 (sản phẩm) Một phân xưởng có 18 người thì làm được số sản phẩm là: 9 x 18 = 162 (sản phẩm) Đáp số: 162 sản phẩm * Sau khi chữa bài và nhận xét đánh giá, tôi củng cố bằng hệ thống câu hỏi như sau: -Bài toán thuộc dạng toán gì? -Nêu các bước giải cụ thể? *Mở rộng: Để khai thác tiềm năng của học sinh, tôi định hướng học sinh suy 14 nghĩ, tìm cách giải khác cho bài toán. ( thảo luận nhóm 4) VD: Bài toán 2: (cách 2) -So sánh 2 đại lượng "số người" và "số sản phẩm": Ta thấy: 18 : 6 = 3 (lần) -Số người tăng lên gấp 3 lần thì số sản - Vì sức làm mỗi người như nhau nên phẩm như thế nào? số người tăng lên 3 lần thì số sản (Vì sức làm của mỗi người như nhau) -Vậy ta có thêm cách giải thứ 2: phẩm cũng tăng lên gấp 3 lần. Bài giải 18 người gấp 6 người số lần là: 18 : 6 = 3 (lần) Một phân xưởng có 18 người thì làm được số sản phẩm là: 54 x 3 = 162 (sản phẩm) Đáp số: 162 sản phẩm. Tiểu kết: Ở cách 2, tôi đã hướng dẫn học sinh vận dụng dựa vào mối quan hệ giữa hai đại lượng" số người" và "số sản phẩm". -Số người tăng lên "hay giảm đi" bao nhiêu lần thì số sản phẩm cũng tăng lên "hay giảm đi" bấy nhiêu lần. * Dạng bài toán giải bằng hai phép tính chia Bài toán 3: Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiêu hàng như thế? Yêu cầu học sinh thực hiện các bước như đã hướng dẫn. Tóm tắt Bài giải 45 học sinh: 9 hàng Mỗi hàng xếp được số học sinh là: 60 học sinh: ...hàng? 45 : 9 = 5 (học sinh) 60 học sinh thì xếp được số hàng như thế là: 60 : 5 = 12 (hàng) Đáp số: 12 hàng Bài toán 4: Có 48 cái đĩa thì xếp đều vào 8 hộp. Hỏi có 30 cái đĩa thì xếp vào mấy hộp như thế? Yêu cầu học sinh thực hiện các bước như đã hướng dẫn. 15 Tóm tắt Bài giải 48 cái đĩa: 8 hộp Mỗi hộp xếp số cái đĩa là: 30 cái đĩa: ... hộp? 48 : 8 = 6 ( cái đĩa) 30 cái đĩa thì xếp được số hộp như thế là: 30 : 6 = 5 (hộp) Đáp số: 5 hộp đia. 4.3. Hướng dẫn học sinh so sánh cách giải 2 kiểu bài: Để học sinh phân biệt cách giải 2 kiểu bài này, tôi hướng dẫn các em so sánh các bước giải và đặc điểm mỗi kiểu bài như sau: Các Kiểu bài 1 Kiểu bài 2 bước ( Tìm giá trị của các phần) -Tìm giá trị 1 phần ( phép chia) (Tìm số phần) -Tìm giá trị 1 phần ( phép chia) 1 Đây là bước rút về đơn vị -Tìm giá trị nhiều phần ( Phép Đây là bước rút về đơn vị - Tìm số phần ( Phép chia) nhân) - Lấy giá trị các phần chia cho giá -Lấy giá trị 1 phần nhân với số trị 1 phần. 2 phần. Sau mỗi lần luyện tập, tôi lại củng cố, khắc sâu và mở rộng kiến thức (nếu có) để giúp học sinh nhận dạng, nhớ kiến thức và nắm chắc cách giải dạng toán, không nhầm lẫn. 4.4. Dạy minh họa. Giáo án minh họa (Phụ lục 1) 5. Kết quả đạt được: Để khẳng định kết quả sáng kiến, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh hai lớp sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên. *Đề bài ( Thời gian làm bài 15 phút) Bài 1: Có 8 xe ô tô chở được 1048 thùng hàng. Hỏi 5 xe ô tô như thế chở được bao nhiêu thùng hàng? Bài 2: Có 7500 lít dầu đựng đều trong 5 thùng. Hỏi có 13500 lít dầu thì cần mấy thùng như thế? 16 * Biểu điểm: Câu hàng + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng - Tính được năm xe ô tô chở bao nhiêu thùng hàng + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng 1 2 Nội dung Cách cho điểm -Tính được một xe ô tô chở được bao nhiêu thùng 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm - Đáp số đúng. -Tính được một thùng đựng bao nhiêu lít đầu. 1 điểm + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng - Tính được 13 500 lít dầu cần bao nhiêu thùng + Câu trả lời đúng + Phép tính đúng 1 điểm 1 điểm 1 điểm 1 điểm - Đáp số đúng. 1 điểm Sau khi học sinh làm đề khảo sát, tôi đã chấm cả hai lớp và thu được kết quả như sau: LỚP SĨ SỐ 3A 35 3C 35 HÌNH THỨC Đối chứng Thực 9 -10 7-8 5-6 Dưới 5 SL % SL % SL % SL % 12 34,3 13 37,1 08 22,9 02 5,7 21 60 10 28,6 4 11,4 0 nghiệm Kết quả thống kê trên khẳng định những biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn như tôi đã nêu trên bước đầu có có hiệu quả tốt. - Kết quả làm bài đúng của học sinh được nâng cao rõ rệt. So với lớp 3A, số học sinh khá giỏi lớp 3C đạt tỉ lệ cao hơn nhiều; học sinh trung bình chỉ còn 4 em. - Học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp, suy luận, diễn đạt ( nói, viết) tốt hơn. - So với lớp 3A (đối chứng) thì chất lượng giải toán của lớp tôi dạy tiến bộ 17 rõ rệt. Năm học 2013 -2014, lớp 3C luôn đạt kết quả cao nhất qua các đợt kiểm tra định kì và các đợt khảo sát học sinh năng khiếu đều dẫn đầu khối về chất lượng môn Toán. Với nhiều năm liên tục giảng dạy ở khối Ba, tôi đã nghiên cứu, học hỏi, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp Ba, tôi thường xuyên vận dụng vào công tác giảng dạy của bản thân và trao đổi với đồng nghiệp trong tổ chuyên môn cùng thực hiện. Trong quá trình thực hiện có điều chỉnh bổ sung kịp thời. Thực tế cho thấy, chất lượng dạy học môn Toán của nhà trường nơi tôi công tác, cũng như chất lượng của lớp tôi trực tiếp giảng dạy đều đạt cao. Điều đó khẳng định rằng: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị - lớp 3, tôi nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy có tính khả thi cao. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Kết quả sáng kiến đạt được. Sau khi điều tra, khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các sai lầm thường gặp của học sinh khi giải toán có lời văn, tôi đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị - lớp 3 và áp dụng các biện pháp vào giảng dạy hàng ngày. Qua kiểm tra, khảo sát cho thấy kết quả môn Toán của các em nâng lên rõ rệt. Học sinh không còn lúng túng khi giải toán có lời văn, tự tin, chủ động khi làm bài, có thái độ thích thú học toán. Các em có kĩ năng phân tích hay tổng hợp các dữ kiện bài toán tốt hơn, biết suy luận tìm ra được mối liên quan giữ các dữ kiện để phân tích tìm ra cách giải. Học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động linh hoạt, sáng tạo. Các em nắm chắc phương pháp giải bài toán có lời văn nói chung và Bài toán rút về đơn vị nói riêng. Giáo viên nắm chắc hơn về nội dung, chương trình môn toán ở lớp Ba, 18 phân loại được các dạng toán cơ bản, điển hình để khắc sâu phương pháp giải từng dạng toán cho học sinh. Vận dụng các biện pháp nêu trên vào giảng dạy môn Toán hàng ngày. Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy giáo viên chỉ là người định hướng, gợi mở, dẫn dắt. Làm cho tiết học trở nên sinh động, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái và đạt hiệu quả tốt hơn. Đáp ứng được nhu cầu xã hội hiện nay đào tạo các em trở thành những con người chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong cuộc sống. Đạt được mục tiêu, nhiệm vụ của dạy học toán ở Tiểu học nói riêng và mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục tiểu học nói chung. 2. Khuyến nghị: - Cấp cơ sở: Muốn nâng cao được chất lượng giải toán cho học sinh *Giáo viên cần: Tạo hứng thú và nhu cầu học, thu hút học sinh học tập, tạo không khí lớp học sôi nổi. Khảo sát thực trạng việc chất lượng của học sinh lớp mình, tìm hiểu nguyên nhân, có biện pháp phù hợp. Quan tâm với từng đối tượng học sinh trên lớp, phát hiện và giúp đỡ các em nắm chắc kiến thức và phương pháp làm bài ngay trên lớp học. Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy, dự kiến các tình huống để phát huy tích tích cự của từng đối tượng học sinh.. * Nhà trường và các tổ chuyên môn: - Cần tổ chức chuyên đề cho giáo viên áp dụng sáng kiến có tính khả thi cao vào thực tế giảng dạy và theo dõi, đánh giá kết quả sau khi áp dụng sáng kiến đó. - Tích cực kiểm tra, đánh giá việc dạy và học sau chuyên đề. - Các cấp quản lý giáo dục: Đề nghị tổ chức các chuyên đề, hội thảo trong phạm vi rộng hơn, cao hơn để giáo viên có dịp trao đổi, học hỏi tốt hơn. Trên đây là một số biện pháp Rèn kĩ năng giải bài toán có lời văn dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị - lớp 3. Tôi luôn cố gắng để đạt được mục tiêu đề ra bằng tất cả khả năng của mình. Rất mong sự đóng góp ý kiến chân 19 Tải về bản full

Từ khóa » Có 7500 Lít Dầu đựng đều Trong 5 Thùng