Sở Hữu Toàn Dân Là Gì? Quy định Của Pháp Luật Về Sở Hữu Toàn Dân

Sở hữu toàn dân là gì? Những tài sản nào thuộc sở hữu toàn dân? Bộ luật dân sự 2015 đã quy định về nội dung này tại Điều 197. Cùng Lawkey tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Sở hữu toàn dân là gì?

Sở hữu toàn dân là một hình thức sở hữu được pháp luật dân sự quy định cụ thể tại Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) và Hiến pháp năm 2013

Quy định về sở hữu toàn dân trong Hiến pháp 2013

Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 quy định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước là người đại diện cho toàn dân, được nhân dân trao cho những quyền lực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, ngoại giao… để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả là: xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước đại diện cho nhân dân nắm toàn bộ các tư liệu sản xuất chủ yếu trong tay để thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của mình.Hiến pháp 2013 đã tiếp tục khẳng định tại Điều 53: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.”

Như vậy, toàn bộ những tư liệu sản xuất chủ yếu như đất đai, tài nguyên trên mặt biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa Việt Nam.,. cùng với những tài sản khác theo quy định của pháp luật đều thuộc quyền quản lý, khai thác và sừ dụng cùa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.

Xem thêm: Chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự là ai?

Quy định về sở hữu toàn dân trong BLDS

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người dại diện cho nhân dân quàn lý, nắm giữ những tư liệu sản xuất là chủ sở hữu đối với tài sản được quy định tại Điều 197 BLDS và Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt đối với các tài sản đó. Điều 198 BLDS quy định:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.

2. Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân.”

Trước đây, hiểu sở hữu toàn dân quy định tại Điều 17 Hiến pháp 1992 như là một phạm trù kinh tế, thì ngày nay sở hữu toàn dân còn được hiểu là một phạm trù pháp lý, do vậy tài sản của toàn dân phải có chủ sở hữu đích thực để thực hiện quyền sở hữu trong việc phát triển sản xuất, phát triển kinh tế- xã hội, bảo vộ an ninh quốc phòng của đất nước.

Để sử dụng tài sản của nhân dân có hiệu quả cần phải trao quyền cho Nhà nước, cho người có thẩm quyền định đoạt tài sản của nhân dân theo quy định của pháp luật do vậy trong Bộ luật dân sự 2015 (BLDS), Điều 201 quy định Nhà nước là chù sở hữu đối với tài sản của chế độ sở hữu toàn dân.

Quyền sở hữu toàn dân được hiểu thế nào?

Theo nghĩa khách quan

Quyền sở hữu nhà nước, hiểu theo nghĩa khách quan (theo nghĩa rộng), là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm:

– Xác nhận việc chiếm hữu cùa Nhà nước (gồm cả chiếm hữu pháp lý và chiếm hữu thực tế) đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, quan trọng nhất;

– Quy định vê nội dung và trình tự thực hiện các quyến năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của Nhà nước;

– Xác định phạm vi, quyền hạn của các cơ quan nhà nước các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập trong việc quản lý nghiệp vụ những tài sản do Nhà nước giao theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh, quản lý hoặc hoạt động công ích.

Các doanh nghiệp được giao vốn, tư liệu sản xuất để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh hoặc hoạt động công ích do Nhà nước giao. Các doanh nghiệp có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản, được quyền quản lí, trừ những thiết bị, nhà xưởng quan trọng theo quy định của Chính phủ phải được cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền cho phép trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn (ĐIều 200 BLDS)

Như vậy, Nhà nước giao tài sản cho các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cho phép doanh nghiệp được thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản đó trong một phạm vị theo quy định của pháp luật. Quyền chiếm hữu, sở dụng, định đoạt của các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước được gọi là “quyền sở hữu hạn chế”. Nhà nước thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu theo quy định tại Điều 201 BLDS.

Theo nghĩa chủ quan

Theo nghĩa chủ quan (nghĩa hẹp) quyền sở hữu toàn dân được hiểu là toàn bộ những hành vi mà với tư cách đại diện cho chủ sở hữu, Nhà nước cũng như các chủ sở hữu khác thực hiện các quyền năng cụ thể về chiếm hữu, định đoạt và sử dụng tài sản của mình.

Nhà nước “là chủ” đối với các tư liêu sản xuất chủ yếu nhưng không ai quy đinh cho Nhà nước phạm vi từng quyền hạn đối với những tư liệu sản xuất đó. Nhà nước tự quy định cho mình các quyền nâng và các trình tự để thực hiện các quyền năng. Nhưng điều đó không có nghĩa là quyền hạn của Nhà nước là vô tận đối với các tài sản mà Nhà nước là chủ sở hữu. Cũng như các chủ thể khác, Nhà nước chỉ được thực hiện quyền của chủ sỡ hữu trong phạm vi pháp luật cho phép. Nói cách khác, các quyến năng đó cũng được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung Sở hữu toàn dân là gì? theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ Lawkey.

Xem thêm: Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản

Từ khóa » Hình Thức Sở Hữu Nghĩa Là Gì