Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️ Giáo Án - SCR.VN

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️ Giáo Án Chuẩn ✅ Chia Sẻ Những Nội Dung Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất Theo Chương Trình Lớp 4 Và Lớp 9.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Toggle
  • Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Soạn
  • Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
  • Soạn Văn 9 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
  • Luyện Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
  • So Sánh Bài Thơ Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính
  • Ý Nghĩa Nhan Đề Của Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
  • Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4
  • Nghị Luận Về Bài Tiểu Đội Xe Không Kính
  • Bố Cục Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
  • Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 9

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Soạn

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Soạn Bài chia sẻ những câu trả lời chính xác và đầy đủ nhất theo các câu hỏi trong sách giáo khoa.

I. Tác giả

  • Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
  • Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.
  • Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.
  • Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh các người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
  • Giọng thơ của Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
  • Phạm Tiến Duật được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
  • Một số tác phẩm tiêu biểu:

Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970)Ở hai đầu núi (thơ, 1981)Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)Nhóm lửa (thơ, 1996)Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng).Vừa làm vừa ghi (tập tiểu luận, 2003)…

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969.
  • Bài thơ nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969, được đưa vào tập “Vầng trăng và quầng lửa” (1970).

2. Bố cục

Gồm 4 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “Như sa như ùa vào buồng lái”. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe.
  • Phần 2: Tiếp theo đến “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn.
  • Phần 3. Tiếp theo đến “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Tình động đội của những người lính.
  • Phần 4. Còn lại. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc.

Luyện tập

  • Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động.
  • Không có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.
  • Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.
  • Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.

=> Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Cùng với Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, gửi đến bạn 🍃 Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ 🍃 đầy đủ nhất.

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Bạn đọc có thể theo dõi thêm Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính dưới đây.

Câu 1:

Trả lời câu 1 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

a. Nhan đề

  • Bài thơ có một nhan đề dài và rất độc đáo: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
  • Nhan đề đề cập đến một đề tài hết sức đời thường, gần gũi với cuộc sống của người lính trên đường ra trận. Đó là chất thơ của hiện thực khắc nghiệt, chất lãng mạn của tuổi trẻ trước vận mệnh vinh quang: chiến đấu để giải phóng quê hương, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

b. Hình ảnh những chiếc xe không kính là hình ảnh độc đáo vì:

  • Những hình ảnh trong thơ thường là những hình ảnh đẹp, sáng ngời, hào nhoáng ít ai miêu tả những chiếc xe không kính.
  • Những chiếc xe không kính diễn tả sự thật trần trụi, khốc liệt của chiến tranh.
  • Nhưng những chiếc xe bị bom đạn phá hủy, nhưng không vì thế mà dừng bước. Chúng vẫn hăng hái lên đường, cùng những người chiến sĩ vào miền Nam giải phóng đất nước.

Câu 2

Trả lời câu 2 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

  • Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ:
  • Tư thế ung dung, lạc quan yêu đời trước hoàn cảnh gian nguy càng tôn thêm phẩm chất của người lính:

Không có kính, ừ thì có bụi,Bụi phun tóc trắng như người già.Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

  • Tình cảm đồng đội thắm thiết:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

  • Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam:

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim.

=> Bức chân dung của người lính lái xe trong bài thơ là bức chân dung tràn đầy sức sống, bức chân dung của niềm tin thắng lợi.

Câu 3

Trả lời câu 3 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

  • Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
  • Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính.
  • Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.

Câu 4

Trả lời câu 4 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

  • Thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ:
  • Tư thế ung dung, chủ động, lạc quan, yêu đời.
  • Coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy.
  • Ý chí chiến đấu vì sự thống nhất của đất nước.
  • So sánh:

Giống nhau: lí tưởng chiến đấu cao cả, ý chí vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, tinh thần lạc quan, tình đồng đội sâu sắc.

Khác nhau:Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa hình ảnh người lính trẻ trung, tinh nghịch, lạc quan, yêu đời mang phong cách của tầng lớp trí thức vừa rời ghế nhà trường, xếp bút nghiên tham gia chiến đấu.Đồng chí lại vẽ lên hình ảnh những người lính đầy tình cảm, mang hơi thở từ những người nông dân đi ra từ mảnh đất miền trung nghèo khó, bởi vậy mà họ trầm lắng, suy tư hơn.

Ngoài Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, giới thiệu với bạn tuyển tập 🌨 Thơ Tế Hanh 🌨

Soạn Văn 9 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Soạn Văn 9 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính trả lời những câu hỏi liên quan đến bài thơ.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

  • Nhan đề bài thơ quá dài, vừa gợi lên hình ảnh những chiếc xe, vừa cho ta thấy được phong thái ngang tàng của người lái xe.
  • Chiếc xe không kính là một hình ảnh độc đáo, đó là chứng tích chiến tranh, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng qua đó mà nhìn thấy những người lính dũng cảm, ung dung trước khó khăn gian khổ.

Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn :

  • Tư thế ung dung, hiên ngang, sảng khoái đến bất tận Ung dung buồng lái ta ngồi … ùa vào buồng lái.
  • Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm Không có kính ừ thì có bụi…ừ thì ướt áo… mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, xe vẫn cứ đi.
  • Tình đồng đội thắm thiết : bắt tay qua cửa kính vỡ, chia sẻ khó khăn.
  • Ý chí chiến đấu vì miền Nam : một trái tim căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu.

Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, đầy tính ngang tàng pha chút nghịch ngợm. Điều đó góp phần thể hiện hình ảnh người lính ung dung, hóm hỉnh, trẻ trung.

Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

  • Hình ảnh người lính cho ta thấy sự gan dạ, bất chấp khó khăn, luôn tiến lên phía trước vì lí tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Họ cũng là những người thật hóm hỉnh, trẻ trung và yêu đời.
  • So với người lính trong bài Đồng chí, những người lính với chiếc xe không kính đều mang lòng yêu nước, lòng căm thù giặc với tình đồng đội thắm thiết. Chỉ có điều, người lính ở bài này trẻ trung hơn, hóm hỉnh hơn.

Luyện tập (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Phân tích khổ thơ thứ hai :Khổ thơ thứ hai tràn ngập những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim. Đó là những khó khăn phía trước, nhưng mọi thứ đều thật nhỏ bé trước lòng quyết tâm không lùi của những chiến sĩ trẻ. Lại thêm hình ảnh lãng mạn Thấy sao trời và đột ngột cánh chim – Như sa như ùa vào buồng lái làm cho chặng đường trở nên vui tươi, nhẹ nhàng hơn.

Cùng với Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, gửi tặng bạn 💕 Cảm Nhận Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 💕 hay và ý nghĩa.

Luyện Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Luyện Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính cung cấp những câu hỏi và câu trả lời chi tiết rất hữu ích cho việc ôn tập.

Hệ thống đề văn và câu hỏi của Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Cho hai khổ thơ sau:

Không có kính không phải vì xe không có kínhBom giật, bom rung kính vỡ đi rồiUng dung buồng lái ta ngồi,Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào timThấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa, như ùa vào buồng lái

Câu 1: Hãy cho biết những câu thơ trên trích trong bài thơ nào, do ai sáng tác. Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.

Trả lời:

Những câu thơ trên trích trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trên tuyến đường chiến lược. Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi báo Văn nghệ 1969 và được đưa vào tập “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.

Câu 2: Có ý kiến cho rằng bài thơ hấp dẫn ngày từ nhan đề độc đáo. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại sao?

Trả lời:

Bài thơ độc đáo ngay từ nhan đề tác phẩm. Nhan đề tưởng dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc bởi vẻ độc đáo, lạ lẫm của nó.

Bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính. Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy lăng kính nhìn hiện thực khốc liệt của chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ, hiên ngang, bất khuất, dũng cảm vượt qua thiếu thốn, gian khổ nguy hiểm của thời chiến.

Câu 3: Nội dung của ba khổ thơ đầu bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là gì?

Trả lời:

Ba khổ thơ đầu gợi lên hình ảnh những chiếc xe không kính, và hình ảnh người lính lái xe trên trong tư thế hiên ngang, lạc quan, coi thường nguy hiểm tiến về phía trước.

Hình ảnh tàu xe thường được mĩ lệ hóa đưa vào sáng tác nhưng những hình ảnh này càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu. Bom đạn chiến tranh làm chúng trần trụi hơn, biến dạng hơn.

Những hình ảnh có hồn thơ hay nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được vào thành hình tượng độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.

Câu 4: Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức diễn dịch để làm rõ tư thế, cảm giác của người lính lái xe trên chiếc xe không kính?

Trả lời:

Trong bom đạn chiến tranh hình ảnh những chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu không làm khuất phục được ý chí chiến đấu lại khiến người lính lái xe bộc lộ được những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao của họ đặc biệt là lòng dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn.

Họ chính là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả, tác giả đã khắc họa những ấn tượng sinh động khi đang ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã bị bom đạn làm mất kính.

Những câu thơ tả thực tới từng điểm diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra đường:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào timThấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa, như ùa vào buồng lái

Những hình ảnh thực như gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, lại cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Dù trải qua hiện thực chiến tranh khốc liệt những người lính vẫn hướng về phía trước, xem thường mọi hiểm nguy với tinh thần thể hiện cái hiên ngang, trẻ trung của tuổi trẻ.

Câu 5: Tại sao có thể nói hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật.

Trả lời:

Hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật bởi xưa nay hình ảnh tàu xe đi vào thơ ca đều được lãng mạn hóa, mỹ lệ hóa nhưng Phạm Tiến Duật lại không ngần ngại đưa vào thơ của mình hình ảnh trần trụi, thực tế “những chiếc xe không kính”.

Hình ảnh những chiếc xe không kính là nhân chứng hùng hồn, chân thực cho hiện thực chiến tranh khốc liệt lúc bấy giờ.

Với tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm cùng với nét tinh nghịch, ngang tàng hình tượng những chiếc xe không kính xuất hiện trong thơ như để thử thách con người, cũng như để khẳng định chất thép, tinh thần dũng cảm, lạc quan coi thường hiểm nguy của những người lính lái xe Trường Sơn.

Cho câu thơ:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi”

Câu 6: Chép tiếp 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thiện hai khổ thơ tiếp theo.

Trả lời:

Những chiếc xe từ trong bom rơiÐã về đây họp thành tiểu độiGặp bè bạn suốt dọc đường đi tớiBắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa nghĩa là gia đình đấyVõng mắc chông chênh đường xe chạyLại đi, lại đi trời xanh thêm.

Câu 7: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật và bài thơ Đồng chí – Chính Hữu có điểm gì giống và khác nhau gì khi viết về người lính?

Trả lời:

Giống nhau: Bài thơ về tiểu đội xe không kính và bài Đồng chí cùng viết về những người lính kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn hiểm nguy. Họ cùng phải trải qua những hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất, những điều kiện vô vùng khó khăn, nguy hiểm.

Những người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những người lính trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ có những điểm chung: lòng yêu nước, tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm, gian khổ.

Khác nhau:

Bài thơ Đồng chí nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất. Vẻ đẹp nhất ở những người lính đó là tinh thần đồng đội, đồng chí sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ sự chia sẻ, thấu hiểu và tinh thần yêu nước, luôn sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nhấn mạnh tới tinh thần quả cảm, hiên ngang của những người lính lái xe trẻ trung, vui tươi trước thách thức vô vàn nguy hiểm phía trước.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, bất chấp hiểm nguy, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sục sôi, quyết liệt.

Câu 8: Em hiểu thế nào về hình ảnh trong hai câu thơ:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Trả lời:

Bếp Hoàng Cầm ra đời trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là bếp dã chiến, có công dụng làm tan loãng khói bếp tỏa ra, khi nấu ăn tránh máy bay phát hiện.

Hình ảnh bếp Hoàng Cầm trong thơ Phạm Tiến Duật gợi lên tình cảm thắm thiết như ruột thịt của những người lính.

Tác giả đưa ra cách định nghĩa thật thú vị về gia đình, vừa hài hước, tếu táo lại tình cảm sâu lắng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau hơn trong những cái chung: chung bát, chung đũa, chung nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách thức nguy hiểm.

Câu 9: Cảm nhận của em khi đọc hai câu thơ:

Võng mắc chông chênh đường xe chạyLại đi, lại đi trời xanh thêm

Trả lời:

Những hình ảnh sinh hoạt, nghỉ ngơi ngắn ngủi nhưng tâm hồn người chiến sĩ không vì thế mà nhụt chí, ngược lại, họ còn rất mạnh mẽ và kiên định, không gì lung lay nổi.

Hai câu thơ gợi nên sự chông chênh trên con đường gập ghềnh mà những người lính phải vượt qua. Nhưng ý chí chiến đấu, khí phách, nghị lực kiên cường, định kiến vượt lên tất cả.

Nhịp thơ đều đều 2/2/3 gợi lên sự bền bỉ trên từng cung đường của những người lính. Hình ảnh trời xanh thêm yên bình cũng tô đậm thêm niềm tin về ngày chiến thắng, về công bằng của những người chiến sĩ chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.

Câu 10: Em viết đoạn văn 12 câu theo phương thức diễn dịch trình bày cảm nhận của em về tình đồng đội của những người lính lái xe trong những khổ thơ vừa chép.

Trả lời:

Tâm hồn tươi trẻ, sôi nổi của tình đồng đội, đồng chí trong bài thơ:

  • Những người chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui vẻ, hài hước, tinh nghịch. Họ hồn nhiên tếu táo cũng thật cảm động trong không khí đoàn kết, trong đồng chí, đồng đội.
  • Sự khốc liệt của chiến tranh tạo nên những tiểu đội xe không kính. Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới”.
  • Chỉ một cái bắt tay cũng ấm long, đủ động viên nhau, cảm thông với nhau. Cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên, cảm thông với nhau.
  • Cảnh những phút nghỉ ngơi sinh hoạt thật ngắn ngủi nhưng ý nghĩa, giản dị, tâm hồn người lính vẫn tươi vui, lạc quan.
  • Tình đồng đội đã gắn kết họ, tiếp cho họ sức mạnh để cùng nhau “lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
  • Hình ảnh “trời xanh thêm” cũng là hình ảnh diễn tả được tinh thần lạc quan, yêu đời, đầy hi vọng của người lính lái xe Trường Sơn.

Câu 11: Dựa vào khổ thơ cuối của bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, cho biết từ “trái tim” dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển. Nêu ý nghĩa của hình ảnh ấy trong việc thể hiện vẻ đẹp người lính lái xe?

Trả lời:

Từ “trái tim” được dùng theo nghĩa chuyển.

  • Trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn trên xe “không kính, không đèn, không mui”, hợp nhất với tinh thần, ý chí của người lính lái xe không gì có thể ngăn cản, tàn phá được.
  • Xe được chạy bằng chính trái tim, xương máu của chiến sĩ, trái tim ấy là niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những chiếc xe do ý chí, niềm tin sắt đá cầm lái.
  • Hình ảnh trái tim được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và hoán dụ: trái tim tượng trưng cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ cao đẹp thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh, chất ngang tàng, lòng dũng cảm cùng tinh thần lạc quan vào ngày thống nhất.

Trái tim trở thành nhãn tự toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Bên cạnh Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính còn có Chùm 💌 Thơ Bằng Việt 💌 đặc biệt được chọn lọc dành cho bạn.

So Sánh Bài Thơ Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – So Sánh Bài Thơ Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính là hai bài thơ tiêu biểu trong những bài thơ viết về người lính cách mạng.

– Giống nhau:

 ● Bài thơ về tiểu đội xe không kính và bài Đồng chí cùng viết về những người lính kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn hiểm nguy. Họ cùng phải trải qua những hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất, những điều kiện vô vùng khó khăn, nguy hiểm.

 ● Những người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những người lính trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ có những điểm chung: lòng yêu nước, tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm, gian khổ.

– Khác nhau:

 ● Bài thơ Đồng chí nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất. Vẻ đẹp nhất ở những người lính đó là tinh thần đồng đội, đồng chí sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ sự chia sẻ, thấu hiểu và tinh thần yêu nước, luôn sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

 ● Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nhấn mạnh tới tinh thần quả cảm, hiên ngang của những người lính lái xe trẻ trung, vui tươi trước thách thức vô vàn nguy hiểm phía trước.Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, bất chấp hiểm nguy, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sục sôi, quyết liệt. Đó là thế hệ anh hùng, bất khuất, mạnh mẽ.

Ngoài Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, xem nhiều hơn những bài thơ đặc sắc trong 🌹 Thơ Hồ Dzếnh 🌹

Ý Nghĩa Nhan Đề Của Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Ý Nghĩa Nhan Đề Của Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ẩn chứa nhiều điều thú vị bạn đã tìm hiểu chưa?

Khi đặt tên cho tác phẩm của mình là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, khi đọc nội dung, ai cũng biết rõ đây là một tác phẩm thuộc thể loại thơ ca.

Nhưng tác giả lại để hai chữ “bài thơ” vào nhan đề. Tưởng chừng như thừa, nhưng thực chất Phạm Tiến Duật muốn thông qua hai chữ này để nhấn mạnh vào chất thơ được toát lên từ hiện thực chiến trường khốc liệt.

Tiếp đến, nhan đề cũng nêu ra được hình ảnh trung tâm của tác phẩm, những chiếc xe không kính. Những chiếc xe này vốn không phải vì không có kính, mà trải qua những năm tháng bom rơi, bão đạn khiến kính của chúng bị vỡ đi.

Không chỉ một chiếc xe mà là “tiểu đội” – đơn vị quân đội nhỏ nhất. Đây không phải là một trường hợp hy hữu mà là hoàn cảnh chung của những chiếc xe vận chuyển trên tuyến đường Trường Sơn. Từ đó ca ngợi tinh thần của người lính lái xe nơi chiến trường khốc liệt.

Nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã cho thấy hình ảnh trung tâm của bài thơ là những chiếc xe không kính. Đây là một hình ảnh độc đáo nhưng rất quen thuộc trong những năm kháng chiến chống Mỹ.

Những chiếc xe trên đường đường vận chuyển vũ khí, đạn dược ra chiến trường bị bom đạn của kẻ thù bắn phá, kính xe bị vỡ đi. Hình tượng “xe không kính” đã khắc họa cho người đọc thấy được sự khốc liệt của chiến trường. Qua đó nhà thơ cũng muốn ca ngợi phẩm chất dũng cảm của những người lính lái xe.

Cùng với Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, tặng bạn 💔 Bài Thơ Bác Ơi Tố Hữu 💔

Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 chia sẻ mẫu soạn bài thơ tiểu đội xe không kính giáo án cho học sinh tiểu học.

Tập đọcBÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH.

I. Mục đích, yêu cầu:

1. Kiến thức: Bước đầu biết đọc diễn cảm một, hai khổ thơ trong bài với giọng vui, lạc quan.

– Hiểu nội dung bài: Ca ngợi tinh thần dũng cảm, lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. (trả lời được các câu hỏi; thuộc một hai khổ thơ)

2. Kĩ năng: Đọc đúng các tiếng, từ khó hoặc dễ lẫn Gió vào xoa mắt đắng, chạy thẳng vào tim, ướt áo, mưa tuôn, mưa xối chưa cần thay

3. Thái độ: – Giáo dục HS tinh thần lạc quan trong mọi trường hợp.

II. Đồ dùng dạy – học: Bảng phụ ghi sẵn câu, đoạn cần luyện đọc.

III. Hoạt động dạy – học

Hoạt động của GVHoạt động của HS
1. Kiểm tra bài cũ: – Gọi 3 HS lên bảng phân vai bài ” Khuất phục tên cướp biển ” và trả lời câu hỏi về nội dung bài. – 1 HS nêu nội dung chính của bài. – Nhận xét và cho điểm từng HS . 2. Bài mới: a. Giới thiệu bài: b. Luyện đọc, tìm hiểu bài: – Gọi HS đọc toàn bài – GV phân đoạn -Yêu cầu HS tiếp nối nhau đọc từng khổ thơ của bài (3 lượt HS đọc). GV chú ý sửa lỗi phát âm, ngắt giọng cho từng HS. Giải nghĩa từ khó. – Yêu cầu HS luyện đọc nhóm đôi. – GV đọc mẫu. *Tìm hiểu bài: – Yêu cầu HS đọc 3 khổ đầu trao đổi và trả lời câu hỏi. + Những hình ảnh nào trong bài nói lên tinh thần dũng cảm và hăng hái của các chiến sĩ lái xe? + Khổ thơ 1, 2, 3 cho em biết điều gì? – Yêu cầu HS đọc khổ thơ 4 trao đổi và trả lời câu hỏi. + Tình đồng chí, đồng đội của các chiến sĩ được thể hiện trong những câu thơ nào ? + Khổ thơ này có nội dung chính là gì? – Yêu cầu HS đọc cả bài trao đổi và trả lời câu hỏi. + Hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra trận giữa bom đạn của kẻ thù gợi cho em cảm nghĩ gì? – Ý nghĩa của bài thơ này nói lên điều gì? * Đọc diễn cảm: – Giới thiệu đoạn luyện đọc. – Yêu cầu HS đọc từng khổ thơ. – Tổ chức cho HS thi đọc thuộc lòng từng khổ và cả bài thơ. – Nhận xét và cho điểm từng HS 3. Củng cố – dặn dò: – Hỏi: Bài thơ cho chúng ta biết điều gì? – Nhận xét tiết học. – Dặn HS về nhà học bài.– HS lên bảng thực hiện yêu cầu. + Lắng nghe. – 1 HS đọc toàn bài. – HS theo dõi – HS tiếp nối nhau đọc theo trình tự: – HS luyện đọc nhóm đôi. – HS cả lớp lắng nghe. – 1 HS đọc thành tiếng. Cả lớp đọc thầm, trao đổi theo cặp và trả lời câu hỏi. + Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi; Ung dung buồng lái ta ngồi, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng; không có kính ,… * Tinh thần gan dạ dũng cảm và lòng hăng hái của các anh chiến sĩ lái xe. – 1 HS đọc thành tiếng. Cả lớp đọc thầm, trao đổi theo cặp và trả lời câu hỏi. – Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới . Bắt tay qua của kính vỡ rồi * Nói lên tình đồng chí, đồng đội của các chiến sĩ lái xe rất sâu đậm. -1 HS đọc thành tiếng. Cả lớp đọc thầm, trao đổi theo cặp. – Các chú bộ đội lái xe rất vất vả và dũng cảm. – Các chiến sĩ lái xe thật gan dạ và lạc quan yêu đời. – Ca ngợi tinh thần dũng cảm lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong những nămtháng kháng chiến chống Đế quốc Mĩ xâm lược . – HS tiếp nối nhau đọc. Cả lớp theo dõi tìm cách đọc + Tiếp nối thi đọc từng khổ thơ. – 2 đến 3 HS thi đọc thuộc lòng và đọc diễn cảm cả bài + HS cả lớp.

Cùng với Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, SCR.VN tặng bạn tuyển tập 💧 Thơ Hồ Xuân Hương 💧 giàu cảm xúc!

Nghị Luận Về Bài Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Nghị Luận Về Bài Tiểu Đội Xe Không Kính với những phân tích sâu sắc vừa chi tiết vừa khái quát đi từ những hình ảnh thơ cho đến ý nghĩa cốt lõi của toàn bộ bài thơ.

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu, hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ.

Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này.

Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ.

Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách tự nhiên thật độc đáo.

Nguồn cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ hiện thực”chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ hơn, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là là không chỉ có một chiếc xe thôi đâu mà là cả một “ tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh trong câu thơ đầu tiên, một lời giới thiệu khá độc đáo, thân thương:

“Không có kính không phải vì xe không có kính”.

Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như lời nói của người chiến sĩ giới thiệu chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường, không có gì đáng nói.

Chi tiết tả thực không có kính mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ, có sức khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó có tính chất phủ định thì ở vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh”không phải vì xe không có kính”.

À! Thì ra trước kia vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đó chứ đâu phải xe mới ra đời là đã không có kính. Vậy tại sao lại có sự không bình thường ấy chứ? Vì sao cả một”tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ bước vào tư thế, vị trí kiên cường của người chiến sĩ lái xe để trả lời:

“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.

Thì ra cái lí do, cái nguyên nhân là vì chiến tranh mà ra cả. Chiến tranh phá hoại chiếc xe, làm cho chiếc xe tàn tạ, trở thành chiếc xe không mui, không đèn, không thể không xước đi, yếu dần.

Điệp từ “bom” kết hợp với các động từ”giật”,”rung”đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc.

”Mưa bom bão đạn” của chúng dội xuống Trường Sơn thật là dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ.

Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe”kính vỡ đi rồi”.Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể hiện sự bình thản của người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe: ”Ung dung buồng lái ta ngồi”

Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ.

Thái độ ấy xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng và từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài”Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

Câu thơ viết theo nhip hai-hai-hai thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ“nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cach quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của anh.

Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất”để thêm gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc để dẫn đưa chiếc xe đến chổ, nơi an tòan, mau mau đến đích.

Anh”nhìn trời”để tâm hồn thêm lạc quan, bay bỗng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh”nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó khăn thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ, khó khăn.

Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.

Chiếc xe của anh không còn bộ phận nào để che chắn nên giờ nay người chiến sĩ đã tiếp xúc trực tiếp với thế gới bên ngoài khi chiếc xe lao đi, lao đi mà không ngỏanh lại:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”

Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa mắt đắng” mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Để làm giảm bớt vị đắng, sự khó chịu nơi con mắt bỡi những ngày đêm thức trắng để lái xe không nghỉ ngơi, anh đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh đi tiếp, đi tiếp về tương lai.

Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ khi anh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Sự liên tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy ngược về phía trước. Sự tin tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ.

Trái tim người chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ Quốc, quê hương mà đặc biệt là con đường thân thuộc, gần gũi, con đường hứng chịu bao bom đạn máu lửa. Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì người lính biết rõ mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt độn vì ai, để làm gì?

“Thấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa như ùa vào buồng lái”

Cuộc chiến ấy thật hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn lãng mạn, bay bỗng khi anh quan sát từ chiếc xe không kính để thấy”sao trời, cánh chim”. Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận”…như sa, như ùa vào buồng lái.”.

Nếu điệp ngữ ”nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật là tinh tế! Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, quan tâm và xao xuyến.

Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một bài ca đã từng viết:

“Cuộc đời vẫn đẹp saoTình yêu vẫn đẹp saoDù đạn bom man rợ thét gàoDù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.”

Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi lao đi trên đời vắng. Nhưng đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:

“Không có kính, ừ thì có bụiBụi phun tóc trắng như người già.”

Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp từ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi:bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, cả đất trời trong mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài.

Trong bài thơ Lá Đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây, nó vội vã như người lính, người chiến binh hào hùng:

“Đoàn quân vẫn đi vội vãBụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.”

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc tai, đầy khuôn người lính biến thành hình tượng ngộ nghĩnh, đáng yêu qua cách so sánh của nhà thơ “tóc trắng như người già”.

Phải chăng đây chính là “những con quỷ mắt đen” như Lê Minh Khuê đã diển tả về các cô thanh niên xung phong trên cao điểm Trường Sơn? Anh chiến sĩ đôi mươi kia, trẻ trung, sôi động giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám lên tóc.

Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả lại sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để tự động viên mình bằng cách khôi hài nữa ấy chứ.

“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”

Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn “mưa bụi nhiệm màu” thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khoå. Gian khổ này dường như không tác động ñeán ý chí, quyết tâm của anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Và thêm một chặng đường là thêm hàng triệu khó khăn chồng chất. Đòan xe phải gặp những trận mưa rừng, gặp gió bụi Trường Sơn. Thật là khủng khiếp bởi lẽ:

“Trường Sơn đông nắng tây mưaAi chưa đến đó như rõ mình.”

Khi xe không có mui xe che chắn thì thực tế sẽ ra sao? Những hạt mưa rừng như những nhát chổi quất vào mặt người lính, khó khăm biết bao cho cuộc lái xe! Thế là người lính nếm đủ mùi gian khổ mà thái độ thì vẫn ngang tàng, phơi phới, lạc quan:

“Không có kính, ừ thì ướt áoMưa tuôn mưa xối như ngoài trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữaMưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

Với cấu trúc được lặp lại “không có kính”,”ừ thì”và ngôn ngữ bình dị, giọng điệu ngang tàng lại một lần nữa thể hiện thái độ bất chấp của người lính. Chiếc xe không kính ấy đi vào mùa nào, thời tiết nào cũng đều gian khổ cả.

Điệp ngữ “mưa” kết hợp với những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ dội, khiến người lính lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính của người lính được thể hiện dứt khoát “chưa cần thay “.

Họ mặc kệ cái ướt át, lạnh giá để tiếp tục nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”.Lời nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết tâm lớn của người chiến sĩ: xe phải đến tới đích , ý thức trách nhiệm, đóng góp cho cuộc chiến của họ thật đẹp, thật đáng quý biết bao! Họ lái xe cho đến khi “mưa ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị:

“Mưa ngừng, gió lùa thô mau thôi.”

Rõ rằng người lính đã quên mình vì nhiệm vụ và với ý thức tự nguyện đây. Tâm hồn của người chiến sĩ sôi nổi, yêu đời da diết.

Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:

“Những chiếc xe từ trong bom rơiĐã về đây họp thành tiểu đội.”

Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đòan kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trân chiến ác liệt, căng thẳng:

“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tớiBắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hòan thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hăn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười hòan tòan “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương.

Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ còn có biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, than ái.

Từ “họp, gặp” diển tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.

Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:

“Bếp Hòang Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa nghĩa là gia đình đấyVõng mắc chông chênh đường xe chạyLại đi, lại đi trời xanh thêm.”

Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con đường than yêu ấy làm nhà. Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, than mật. Họ dựng bếp Hòang Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ phút căng thăng giữa chiến trường.

Hai hình ảnh “Bếp Hòang Cầm” và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:

“Thương nhau chia củ sắn lùiBát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”(Tố Hữu)

Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao!

“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thành khi “chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một thoáng chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành quân:

“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ.

Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống.

Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hòan thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:

“Không có kính, rồi xe không có đènKhông có mui xe, thùng xe có xướcXe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm rõ những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cài “không có” là kính, la đèn, là mui xe, còn cái “có” lại là “thùng xe có xước”.

Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn?

Tất cả là bởi một mục đích, mợt lí tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ.

Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:

“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích.

Hình ảnh bất ngờ ở câu cuối đã lí giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tượng sâu sắc về một chân lí thời đại.

Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kiên cường ấy giúp cho con người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ tóat ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.

Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Cám ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thơì gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước.

Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hòan thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta hãy tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:

“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươiChìm trong khói lửa vẫn xanh tươiMưa bom bão đạn lòng thanh thảnNhạt muối vơi cơm miệng vẫn cười.”(Tố Hữu)

Bên cạnh Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, mời bạn đón đọc tuyển tập 🌜 Thơ Nguyễn Đình Chiểu 🌜 đặc sắc.

Bố Cục Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Nắm được Bố Cục Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính sẽ giúp các em học sinh dễ dàng theo dõi được nội dung của bài thơ.

Bố cục

Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính

Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe

Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi.Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàn mà kiên định.

Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.

Tiếp theo Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, mời bạn đọc nhiều hơn với trọn bộ 🔥 Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🔥 đặc sắc và ý nghĩa.

Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 9

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 9 chi tiết và khoa học sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho thầy cô giáo cùng các em học sinh.

I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT

Qua bài học, học sinh đạt được:

1. Kiến thức

– Những hiểu biết bước đầu về nhà thơ Phạm Tiến Duật.

– Đặc điểm của thơ Phạm Tiến duật qua một sáng tác cụ thể: giàu chất hiện thực và tràn đầy cảm hứng lãng mạn.

– Hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước được phản ánh trong tác phẩm; vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm, tràn đầy niềm lạc quan cách mạng,…của những con người đã làm nên con đường Trường Sơn huyền thoại được khắc hoạ trong bài thơ.

2. Kỹ năng:

– Đọc – hiểu một bài thơ hiện đại.

– Phân tích được vẻ đẹp hình tượng người người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong bài thơ.

– Cảm nhận được giá trị của ngôn ngữ, hình ảnh độc đáo của bài thơ.

3. Thái độ, tình cảm: tình yêu quê hương, đất nước, con người.

4. Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh: lòng cảm phục những chiến sĩ lái xe Trường Sơn, lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, sẵn sàng bảo vệ và xây dựng Tổ quốc…

II. CHUẨN BỊ

1. Giáo viên:

Soạn giáo án, đọc kĩ tài liệu liên quan đến bài học.

– Chuẩn bị đồ dùng dạy học: máy chiếu Projector, phiếu bài tập, bảng biểu, tranh ảnh,…

2. Học sinh:

– Soạn bài theo hướng dẫn của giáo viên.

– Sưu tầm tư liệu về tác giả Phạm Tiến Duật và tác phẩm của ông, sưu tầm những bài thơ, bài hát về người lính lái xe.

III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

1. Ổn định tổ chức

2. Kiểm tra bài cũ (1’)

– Kiểm tra phần soạn bài của học sinh

3. Bài mới (42’)

* Vào bài (2’)

– GV cùng học sinh xem một đoạn phim.

– GV thuyết minh và gợi dẫn, tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh.

Các em vừa được sống trong những giây phút hào hùng trên con đường Trường Sơn lịch sử – con đường của biết bao gian lao và biết bao kì tích. Góp phần làm nên huyền thoại của Trường Sơn không chỉ là những công binh, nữ thanh niên xung phong, mà còn là người lính lái xe không kính. Có thể nói, hình ảnh đoàn xe không kính băng băng trên trận tuyến là hình ảnh thần thoại của thế kỉ XX. Và hình ảnh chiếc xe không kính ấy càng trở nên sinh độc đáo, sinh động hơn trong những vần thơ sôi nổi, trẻ trung của Phạm Tiến Duật. Hôm nay cô và các em sẽ cùng tìm hiểu “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của ông để thêm hiểu hơn về cội nguồn làm nên những kì tích của Trường Sơn, cũng như của dân tộc Việt Nam.

Hoạt động của thầyHoạt động của tròNội dung cần đạt
Hoạt động 1 (7’): Hướng dẫn Đọc –tìm hiểu chung – Tổ chức: Gọi đại diện nhóm lên trình bày kết quả đã tìm hiểu về tác giả, tác phẩm. – GV nhấn mạnh về phong cách sáng tác. – GV bổ sung thêm: Ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”. Đại diện nhóm trình bày trước lớp. + Nhóm 1: Trình bày hiểu biết về tác giả + Nhóm 2: Trình bày tìm hiểu chung về tác phẩm – Có thể trình bày bằng Power point hoặc clip, hoặc sơ đồ tư duy. – Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. I. ĐỌC – TÌM HIỂU CHUNG 1. Tác giả – Phạm Tiến Duật (1941 – 2007), quê ở Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ – Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, ông gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. – Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến cống Mĩ qua hình tượng người lính và những nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. – Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên tinh nghịch mà sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông được phổ thành nhạc. – Một số tập thơ lớn: · Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” · Ở hai đầu núi (thơ, 1981) · Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983) · Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994) · Nhóm lửa (thơ, 1996) · Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997) · Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày 17-11-2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng)
Chuyển: Trong đó tác phẩm mang đậm cá tính sáng tạo của Phạm Tiến Duật là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Gv nhấn mạnh vào hoàn cảnh sáng tácvà tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh. à GV bổ sung: Đó cũng là thời kì thế hệ trẻ Việt Nam sôi nổi, đầy nhiệt huyết: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai. Bài thơ cũng chính là những trải nghiệm của tác giả nơi tuyến đường máu lửa Trường Sơn. Hs trả lời cá nhân 2. Tác phẩm a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác – Xuất xứ: Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập Vầng trăng quầng lửa của tác giả. – Hoàn cảnh: bài thơ viết năm 1969, đó là năm cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt và Phạm Tiến Duật đang tham gia hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.
GV hướng dẫn đọc: Cần đọc đúng giọng điệu và ngôn ngữ của bài thơ: lời thơ gần với lời nói thường, lời đối thoại, với giọng rất tự nhiên, có vẻ ngang tàng, sôi nổi. GV chú ý giải thích một số từ ngữ khó (Bếp Hoàng Cầm, gió vào xoa mắt đắng)2 hs đọc Hs đọc chú thích và nêu ý hiểu của cá nhân
? GV nhấn mạnh về ý nghĩa nhan đề dựa trên phần học sinh đã trình bày. Chiếu lời tâm sự của Phạm Tiến Duật. b. Thể thơ: tự do c. Nhan đề: Dài, lạ và ấn tượng + Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn của của tác giả. + Hai chữ bài thơ cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà muốn nói tới chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên trên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh. Tôi phải thêm “Bài thơ vÒ tiÓu ®éi xe kh«ng kÝnh”, để báo trước cho mọi người biết rằng là tôi viết thơ, chứ không phải một khúc văn xuôi. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là cách đưa chất liệu văn xuôi vào thơ, những câu thơ “đặc” văn xuôi được kết hợp lại trong một cảm hứng chung. (Phạm Tiến Duật) d. Bố cục và mạch cảm xúc: bài thơ gồm 7 khổ, cảm xúcliền mạch
Hoạt động 2 (30’): Hướng dẫn Đọc –hiểu văn bản Dẫn: Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu được đưa vào trong thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Ví dụ: chiếc xe tam mã trong thơ Pu-skin, con tàu trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. ? Hình ảnh chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật có gì độc đáo? Tác giả đã sử dụng nghệ thuật nào để miêu tả nó? Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh. ? Đưa hình ảnh một chiếc xe thô ráp như vậy vào trong thơ, theo em, Phạm Tiến Duật muốn gửi gắm điều gì? – Hs trả lời cá nhân Hs trao đổi cặp trả lời, (thời gian: 2p)II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN 1. Hình ảnh xe không kính – Hình ảnh chiếc xe không kính trong thơ Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi. Nguyên nhân vỡ kính rất thực, lại được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, giọng điệu thản nhiên, tưng tửng, một chút lí sự ngang tàng của người lính khiến hình ảnh chiếc xe càng trở nên sống động và chân thực hơn. Không những vậy, bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm, tưởng như bị hủy diệt, không thể hoạt động được nữa: Không có kính rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước – Nhưng kì diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn lao vào làn mưa bom lửa đạn, vẫn băng băng trên tuyến đường Trường Sơn với tốc độ thần kì. Bởi chiếc xe ấy ko chỉ chạy bằng nhiên liệu thông thường, nó còn chạy bằng ý chí, bằng sự quyết tâm cao độ và bằng lí tưởng cao đẹp của người lính. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. – Ý nghĩa: + Hình ảnh này vừa nói lên được cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa làm nổi bật chân dung tinh thần của người lính trong những năm tháng ác liệt tại chiến trường Trường Sơn. Hình tượng những chiếc xe không kính đã góp phần khắc hoạ một tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng. + Hình ảnh chiếc xe ko kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng đưa nguyên những chiếc xe “xù xì, thô ráp” như vậy vào thơ mà không cần đại tu, tân trang cho đẹp, cho mới thì phải là người có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, yêu thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. à Hình tượng độc đáo trong thơ ca kháng chiến.
Chuyển: Như vậy, thiếu đi những điều kiện vật chất lại như lửa để làm sáng ngời lên chất vàng mười trong tâm hồn người lính cũng như sức mạnh tinh thần lớn lao của họ – những người làm nên huyền thoại Trường Sơn một thời. Tổ chức: Giáo viên tổ chức thảo luận nhóm, chia lớp thành 5 nhóm, mỗi nhóm tự nhận bộ câu hỏi trong hộp bí mật, tương ứng với các vấn đề sau: – Tư thế – Thái độ – Tâm hồn – Tình đồng đội – Ý chí giải phòng miền Nam Thời gian thảo luận: 10p – Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận – Các nhóm khác bổ sung, nhận xét.2. Hình ảnh người lính lái xe Người lính trong bài thơ hiện ra sống động qua những ấn tượng, cảm giác cụ thể khi làm nhiệm vụ lái xe không kính. a. Tư thế hiên ngang – Tư thế ngồi thoải mái, ung dung, đường hoàng: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Thủ pháp đảo ngữ nhấn mạnh tư thế thoải mái, chủ động, bình tĩnh của người lính lái xe. – Tầm nhìn phóng khoáng, rộng mở Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng Câu thơ có nhịp khảng khái 2/2/2, động từ “nhìn” (3 lần) cùng không gian rộng mở: đất – trời – thẳng vừa thể hiện được cái nhìn phóng khoáng vừa thể hiện được sự tập trung cao độ và kiên định của người lính lái xe. Các anh “nhìn đất” để cua, để ngoặt, để tránh những hố bom còn cay mùi khét; các anh “nhìn trời” để cảnh giác hay là thách thức lũ giặc trên bầu trời và đặc biệt là cái “nhìn thẳng” đầy bản lĩnh, đầy chất lính. Đó là cái nhìn ngay thẳng, bất khuất, kiên trung. Cái nhìn của một đấng trượng phu: đầu đội trời, chân đạp đất. à Tư thế hiên ngang của một dân tộc anh hùng.
– GV gọi đại diện nhóm lên trình bày. – GV chốt lại những ý chính và khắc sâu thêm những nội dung tích hợp. Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh: Liên hệ thực tế (phim tư liệu): Con đường Trường Sơn Bom đạn kẻ thù Bếp Hoàng Cầm (Kiểu bếp dã chiến của bộ đội do anh hùng nuôi quân Hoàng Cầm sáng chế ra, thực, thực hiện yêu cầu tối mật của cách mạng: oangHÔHaHoang Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.) – Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận – Các nhóm khác bổ sung, nhận xét.b. Thái độ – Lái xe không kính, người lính phải đối mặt với biết bao khó khăn, nguy hiểm: Bản thân chiếc xe mất hết hệ số an toàn (không kính, không đèn, không có mui xe, thùng xe xước). Xe không kính khiến các anh phải chịu sự tác động trực tiếp của thiên nhiên, môi trường (Gió vào xoa mắt đắng, bụi phun tóc trắng như người già, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời). Phép liệt kê và một loạt những động từ mạnh như “phun”, “tuôn”, “xối” đã cực tả sự gian nan khôn cùng của những người lính. à Những chi tiết chân thực, sống động. – Thái độ của người lính: + Nhìn trực diện vào những khó khăn, không hề né tránh, họ chấp nhận khó khăn như một điều tất yếu. + Bất chấp, thách thức với khó khăn: điệp ngữ: ừ thì, chưa cần, điệp cấu trúc: “không có… ừ thì… chưa cần”, chi tiết đặc sắc “phì phèo châm điếu thuốc”, “lái trăm cây số nữa” và giọng điệu thơ ngang tàng. à Người lính lái xe kiên cường, dũng cảm.
– GV gọi đại diện nhóm lên trình bày. – GV chốt lại những ý chính và khắc sâu thêm những nội dung tích hợp. – GV bình mở rộng: Có lẽ vì vậy, sau này khi bị vết thương xoàng đi bệnh viện, người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật có cảm giác nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ núi, nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo. Có thể nói thiên nhiên như hòa nhịp cùng bước đường ra trận của con người. Những hình ảnh “con đường, sao trời, cánh chim” vừa thực, vừa thơ, là cái thi vị nảy sinh trên con đường bom rơi đạn lửa. – Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận – Các nhóm khác bổ sung, nhận xét.c. Tâm hồn – Trẻ trung sôi nổi: + Lái xe không kính đối với người lính còn là một cái thú vì họ được trải nghiệm với tốc độ cao, với những điều mạo hiểm. Họ rất ưa thích cảm giác mạnh. Nhịp thơ nhanh như xe lao vun vút. Những từ như: nhìn thấy (2 lần), thấy (2 lần), chạy thẳng vào tim, đột ngột đã diễn tả sống động cảm giác nhanh, mạnh và bất ngờ khiến người đọc cũng có cảm giác như đang ngồi lái chiếc xe không kính. Những cảm giác trên thực sự là một cái thú đối với tuổi trẻ ưa hoạt động và thích chinh phục những khó khăn thử thách. + Tếu táo, vui tính: Một chút lí sự vui vui, tếu táo rất lính lái xe: Không có…không phải…không có. Một chút tưng tửng qua giọng thơ tưng tửng: Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Và nụ cười của họ mới sảng khoái, thoải mái vô tư làm sao: Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha… – Yêu thiên nhiên Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái Qua khung cửa không có kính, người lính có thể cảm nhận được tất cả những cảnh vật của Trường Sơn. Tâm hồn các anh mở rộng để hòa hợp với thiên nhiên. Những từ sa, ùa như reo lên cái cảm giác thích thú, sảng khoái của những người lính trẻ. Đoạn thơ có niềm vui phơi phới và niềm yêu đời thiết tha. – Lạc quan, yêu đời: Lại đi, lại đi, trời xanh thêm Nhịp thơ ngắt như nhịp bước hành quân đều đặn, can trường và mạnh mẽ. Ở đó có niềm vui ra trận đường ra trận mùa này đẹp lắm và có cả niềm tin phơi phới vào tương lai tươi sáng (hình ảnh ẩn dụ trời xanh thêm) cho ta thấy điều đó.
– GV gọi đại diện nhóm lên trình bày. – GV chốt lại những ý chính và khắc sâu thêm những nội dung tích hợp. Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh. – GV hỏi thêm: ? Cái bắt tay của người lính trong bài thơ gợi em nhớ tới cái bắt tay nào trong các tác phẩm đã học? Có gì giống và khác nhau giữa những cái bắt tay ấy? – Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận – Các nhóm khác bổ sung, nhận xét.d. Tình đồng đội chân thành, thắm thiết – Những chiếc xe từ trong bom rơi …Câu thơ trùng xuống như một niềm an ủi chân thành. Từ trong bom rơi, đạn nổ, tiểu đội xe không kính đã gắn bó, chia sẻ với nhau mọi khó khăn gian khổ của cuộc chiến. – Con đường giải phóng miền Nam là con đường chính nghĩa, vì vậy, người lính càng đi càng có thêm nhiều bè bạn. Niềm vui được kết tình đồng đội nở bung ra suốt dặm đường chiến đấu: Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới… – Những chiếc xe không kính hoá ra lại rất tiện lợi để các anh bày tỏ tình đồng chí, đồng đội thân thiết. Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi Người lính bắt tay nhau qua khung cửa kính vỡ mà không cần phải ra khỏi xe, thật thoải mái, vô tư. Câu thơ vừa gợi không khí khẩn trương của những cuộc hành quân vội vã, những cuộc gặp mặt ngắn ngủi. Song cái bắt tay ấy thật giàu ý nghĩa, bởi qua nó người lính trao cho nhau hơi ấm đồng đội, truyền cho nhau niềm tin và sức mạnh chiến thắng. (So sánh cái nắm tay trong bài thơ Đồng chí) – Đời người lính là đi, nhất là lính lái xe, nhưng trong những lúc dừng chân ngắn ngủi ta càng thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội. Chỉ là “bếp Hoàng Cầm”, bữa cơm hội ngộ thân mật, tình đồng chí cũng như tình anh em ruột thịt “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về tình đồng đội thật mộc mạc, hóm hỉnh mà cũng thật sâu nặng, thiêng liêng. – Những giây phút sinh hoạt nghỉ ngơi ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ đều gian khó: Võng mắc chông chênh đường xe chạy. Song chông chênh gì thì chông chênh nhưng khí phách, nghị lực, ý chí chiến đấu luôn kiên định. Tình đồng đội đã tiếp sức cho họ để tâm hồn họ phơi phới niềm lạc quan vào tương lai Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
– GV gọi đại diện nhóm lên trình bày. – GV chốt lại những ý chính và khắc sâu thêm những nội dung tích hợp. – GV đặt tình huống: ? Có ý kiến cho rằng, hình ảnh trái tim là nhãn tự của bài thơ? Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao? Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh: à Hình ảnh trái tim đã trở thành biểu tượng của lí tưởng, khát vọng, của lòng yêu nước, góp phần tạo nên chất sử thi hào hùng trong những bài ca cách mạng. – Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận – Các nhóm khác bổ sung, nhận xét. e. Ý chí giải phóng miền Nam – Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ mà sâu sắc. Đối lập giữa cái không và cái có; giữa vẻ bên ngoài và bên trong chiếc xe; đối lập giữa sự thiếu thốn vật chất và sự giàu có tinh thần của người lính lái xe: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. – Những cái “không có” được liệt kê liên tiếp: “không kính”, “không đèn”, “không mui”, thùng xe xây xước, biến dạng; điệp ngữ “không” láy đi láy lại nhấn mạnh sự tàn khốc của chiến tranh và sức hủy diệt ghê gớm của nó, chiếc xe bị biến dạng, tàn tạ tưởng như không thể đi được nữa. Sự thiếu thốn vật chất được đẩy lên cùng cực. à Thể hiện sự tàn khốc, ác liệt của chiến tranh. – Nhưng chỉ cần một “cái có” cũng đủ làm nên sự cân bằng: Chỉ cần trong xe có một trái tim Kì diệu thay, những chiếc xe đầy thương tích ấy vẫn băng ra chiến trường, không một khó khăn, một thế lực bạo tàn nào có thể cản trở bước đi của nó. Tác giả có sự lí giải bất ngờ mà chí lí. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim người chiến sĩ thì chiếc xe vẫn tới đích. Hình ảnh “trái tim” là điểm sáng của bài thơ, nó là hình ảnh hoán dụ chỉ người lính lái xe, lòng yêu nước nhiệt thành và ý chí giải phóng miền Nam rực cháy của các anh. Trái tim khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống, thống nhất với người lái xe không gì tàn phá, ngăn trở được. Trái tim ấy tạo ra niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng, kiên định lý tưởng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hai chữ “trái tim” khép lại bài thơ cũng là mở ra cho người đọc thấy toàn bộ chân dung người lính. Họ mang trong mình con tim đang đập những nhịp đập của tình yêu đất nước, của khát vọng cháy bỏng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. – Cách lí giải của nhà thơ nhà thơ Phạm Tiến Duật đã thể hiện chân thực cái hiện thực bi hùng của cuộc sống chiến đấu cả dân tộc và khí phách kiên cường, nhiệt tình cứu nước của những người lính lái xe. – Ý nghĩa:Chiến tranh ác liệt có thể tàn phá những phương tiện kĩ thuật vật chất, nhưng không thể đè bẹp sức mạnh tinh thần của dân tộc ta. Tinh thần dân tộc, ý chí giải phóng miền Nam son sắt là cội nguồn của thắng lợi vẻ vang.
Qua bài thơ, em hiểu gì về vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn?Hs trả lời cá nhânBài thơ đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ, ngang tàng, đầy khí phách, đầy chất kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất của người lính lái xe thời chống Mĩ.
Hoạt động 3 (2’): Hướng dân Tổng kết Gọi hs chốt lại đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Lưu ý: Giọng thơ Phạm TIến Duật đặc sắc không lẫn với ai ở khía cạnh lạc quan, khúc khích của nó, khúc khích của tuổi trẻ, của người lính. Hs đọc ghi nhớ và chốt lại (bằng sơ đồ tư duy) .III. TỔNG KẾT (Ghi nhớ SGK)
Hoạt động 4 (5’): Hướng dẫn Luyện tập Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh. Giáo viên hướng dẫn. Học sinh làm bài theo hướng dẫn của giáo viên.IV. LUYỆN TẬP Bài 1: Trò chơi (tìm tên bài thơ, bài hát, nhân vật nổi bật trong thời kì kháng chiến chống Mĩ theo gợi ý). Bài 2: Từ hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, em nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với tình hình đất nước hiện nay? Hs trình bày được suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong tình hình đất nước hiện nay. Có thể hướng theo những câu hỏi gợi ý sau: Đặc điểm lớn của tình hình đất nước hiện nay, trước tình hình đó thế hệ trẻ có những trách nhiệm gì? Những biểu hiện tiêu biểu về trách nhiệm đó? Liên hệ rút ra bài học bản thân thế nào?

4. Củng cố (1’): Tích hợp giáo dục quốc phòng an ninh.

Bật bài hát Tôi là người lái xe (An Chung)

Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn in đậm trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:

“Đất nước của Nhân dân/ Đất nước của ca dao, thần thoại.”

( Nguyễn Khoa Điềm )

5. Hướng dẫn về nhà (1’)

Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ qua bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Soạn bài: Đoàn thuyền đánh cá.

❤️️ Xem thêm: Bài Thơ Việt Bắc ❤️️

Từ khóa » Bài Thơ Về Tiểu đội Xe Không Kính Lớp 9 Giáo án