Sức Sống Và Triển Vọng Kinh Tế Việt Nam 2022 - Tạp Chí Ngân Hàng
Có thể bạn quan tâm
11:25 (GMT+7) Thứ Năm, ngày 28/11/2024 Tìm kiếm ISSN 2815 - 6056 Tìm kiếm Trang chủ Nghiên cứu - trao đổi Sức sống và triển vọng kinh tế Việt Nam 2022 27/04/2022 11:27 3.198 lượt xem Cỡ chữ 1. Mục tiêu và dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam Theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, Việt Nam đặt mục tiêu phục hồi, phát triển nhanh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực quan trọng, phấn đấu đạt mục tiêu của giai đoạn 2021 - 2025: Tăng trưởng GDP bình quân 6,5 - 7%/năm, chỉ tiêu nợ công dưới mức cảnh báo Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung hạn và dài hạn; tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và người dân; phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Theo Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 đạt mục tiêu: - Cả nước có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp (khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn); tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%; số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm giai đoạn 2021 - 2025; có khoảng 35.000 hợp tác xã (trên 3.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản), khoảng 50% hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị; tối thiểu có 5 - 10 sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế. - Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm, trong đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5 - 7%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm và 05 thành phố trực thuộc trung ương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động trung bình cả nước. Đến năm 2025, thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước trong nhóm ASEAN-4, đặc biệt đối với các chỉ số về thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. - Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 bình quân 3,7% GDP. Giảm tối thiểu 10% tổng số đơn vị sự nghiệp công lập so với năm 2021, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP. Tỷ trọng chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt không dưới 1% GDP. Theo Báo cáo hàng năm "Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3 năm 2022" công bố ngày 12/4/2022, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) dự báo: Năm 2022, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 6,5% GDP và lạm phát 3,4% (còn năm 2023 các con số sẽ tương ứng là 7% và 3%). Tăng trưởng GDP của ASEAN+3 (gồm các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) năm 2022 đạt 4,7% và đạt mức 4,6% vào năm 2023. Trong đó, mức tăng trưởng của ASEAN năm 2022 là 5,1% và 5,2% vào năm 2023. Ước tính và dự báo tăng trưởng GDP của ASEAN+3 năm 2022 - 2023 Nguồn: AMRO Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 06/4/2022 dự báo, trong năm 2022, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi ở mức 6,5% và đạt mức 6,7% trong năm 2023; xuất khẩu hàng hóa sẽ tăng 8 - 10%; nhập khẩu sẽ tăng do nhu cầu về tư liệu sản xuất và đầu vào cho công nghiệp chế biến, chế tạo tăng lên và tiêu dùng trong nước phục hồi trở lại; thặng dư tài khoản vãng lai ở mức 1,5% GDP (và 2,0% GDP vào năm 2023); tăng trưởng công nghiệp khoảng 9,5%; sản lượng nông nghiệp tăng 3,5%; ngành dịch vụ tăng 5,5%; lạm phát 3,8% (và 4,0% vào năm 2023). Còn trong Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4/2022 với chủ đề "Đương đầu bão tố", Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo kinh tế Việt Nam đang phục hồi và sẽ tăng trưởng 5,3% trong năm 2022 (giảm so với mức 6,5% theo dự báo WB đưa ra trong tháng 10/2021). Thậm chí, GDP có thể chỉ tăng 4% trong kịch bản xấu (nếu giá dầu mỏ và nguyên vật liệu kim loại có xu hướng tăng cao) và phục hồi lại mức tăng 6% và 6,5% lần lượt vào các năm 2023 và 2024. Trước đó, ngày 28/3/2022, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings dự báo tăng trưởng của Việt Nam sẽ phục hồi lên mức 6,1% vào năm 2022 và 6,3% vào năm 2023. Fitch Ratings cũng công bố xếp hạng mặc định của nhà phát hành ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức "BB" với Triển vọng tích cực. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng 6% năm 2022 và 7,2% vào năm 2023. Lạm phát được dự báo tăng lên mức 3,9% vào cuối năm 2022. Nhiều ước tính lạc quan hơn cho rằng GDP Việt Nam sẽ tăng mạnh từ mức 2,9% năm 2021 lên 7 - 7,5% vào năm 2022; tổng mức bán lẻ (loại trừ yếu tố giá) sẽ tăng 5% trong 2022. Lợi nhuận của các ngân hàng cũng sẽ tiếp tục tăng nhờ vào mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% và đa phần tài sản bảo đảm là bất động sản tiếp tục tăng giá trong thời gian 2020 - 2022; cơ cấu khoản vay được cải thiện và chi phí huy động vốn thấp. Thậm chí, Capital Economics (Công ty tư vấn nghiên cứu kinh tế có trụ sở ở London) dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phục hồi và GDP sẽ tăng trưởng 8,8% trong năm 2022, cao hơn so với mục tiêu kế hoạch chỉ là 6,0-6,5% và so với mức 2,58% của năm 2021. 2. Nền tảng và giải pháp tăng trưởng bền vững ở Việt Nam Sự hội tụ cảm hứng trạng thái lạc quan về sức sống, sự phục hồi và triển vọng tích cực của kinh tế Việt Nam là điểm chung của các dự báo quốc tế khác nhau và chúng cơ bản dựa trên cơ sở thực tế tin cậy, mà nổi bật là: Thứ nhất, Việt Nam sớm quyết đoán từng bước mở cửa, nới lỏng các kiểm soát dịch bệnh, thích ứng linh hoạt, an toàn với dịch bệnh, sớm khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế quay trở lại với cuộc sống bình thường mới. Quyết định này được khởi đầu từ cuối quý IV/2021 trên cơ sở nỗ lực của Chính phủ đã triển khai thành công chiến dịch ngoại giao vắc-xin và tiêm chủng toàn quốc, từ đó đưa Việt Nam trở hành một trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vắc-xin cao nhất thế giới, với trên 78% dân số đã được tiêm đủ liều vắc-xin ngừa Covid-19. Điều này giúp Việt Nam cải thiện 28 bậc lên vị trí thứ 90 trong bảng "Chỉ số phục hồi Covid-19" của Nikkei công bố trong tháng 01/2022. Có thể nói, việc chấm dứt thành công và an toàn chuỗi ngày giãn cách xã hội diện rộng trước đó trên phạm vi toàn quốc là chiến thắng ngoạn mục, có tính quyết định khởi đầu cho quá trình phục hồi và tăng tốc kinh tế, tạo niềm tin và đồng thuận xã hội ngày càng khả quan của Việt Nam. Thứ hai, các thành quả đạt được trong thập kỷ trước và các tiềm năng tăng trưởng trung hạn của Việt Nam vẫn được duy trì; đặc biệt, sự ổn định chính trị - xã hội, các chuỗi cung ứng sớm được khôi phục và da dạng hóa, niềm tin đầu tư được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, nợ công ổn định và dự trữ ngoại hối đạt mức cao kỷ lục… Tất cả tạo bộ đệm để Việt Nam ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài, đẩy nhanh thời gian mở cửa du lịch, tạo sự bùng nổ trở lại du khách nội địa, tăng thu hút khách quốc tế cũng tới 89,1%, khôi phục sản xuất kinh doanh và nâng mức tăng trưởng GDP quý I/2022 lên 5,03% so với cùng kỳ năm trước… Thứ ba, động lực cho sức sống và phục hồi nhanh kinh tế Việt Nam còn được nhân lên từ sự thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và khai thác các cơ hội xuất khẩu từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Nhờ đó, Việt Nam đã và đang tiếp tục mở rộng quy mô thương mại quốc tế và hình thành các thị trường xuất khẩu ổn định, đáng tin cậy. Quý I/2022 so với cùng kỳ năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 176 tỷ USD, tăng 14,4%; trong đó, xuất khẩu tăng 12,9%, riêng các nhóm hàng nông sản tăng khoảng 18 - 19%; cá biệt, cà phê, gạo, thủy sản tăng từ 38% đến gần 50% và xuất khẩu thủy sản tăng 38,7%. Việt Nam tiếp tục xuất siêu 809 triệu USD trong quý I/2022 và dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới. Dòng vốn FDI chảy vào và thực hiện suốt thời gian đại dịch vừa qua vẫn duy trì trạng thái khả quan. Trong năm 2020, dòng vốn FDI vào Việt Nam chỉ giảm 2%, trong khi thế giới giảm 40%; năm 2021, dòng vốn FDI vào Việt Nam không giảm; quý I/2022, vốn FDI thực hiện đạt 4,4 tỷ USD, cao nhất cùng kỳ từ năm 2018 đến nay. Trên thực tế đã và đang ghi nhận nhiều dự án FDI mới công nghệ cao (như dự án 2,2 tỷ USD vào năm 2021 của LG Display; Toshiba sẽ chuyển toàn bộ sản xuất điện tử ở Trung Quốc sang Việt Nam và Nhật Bản), hoặc các dự án cũ tiếp tục mở rộng đầu tư (như Samsung sẽ nâng cấp lên 50% năng lực sản xuất ở Việt Nam cho các thiết bị có tính năng gập lại được). Việt Nam cần tăng cường bộ đệm an toàn cho hệ thống tài chính, kiểm soát vốn vay bị sử dụng sai mục đích, tránh tập trung vốn vào các lĩnh vực rủi ro như cổ phiếu và bất động sản (Nguồn ảnh: Internet) Sự lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp còn được củng cố nhờ môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Theo Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam, Chỉ số môi trường kinh doanh quý IV/2021 của Việt Nam được các doanh nghiệp châu Âu đánh giá tích cực không chỉ nhờ thành tựu chống dịch, sớm bình thường hóa hoạt động kinh tế, mà còn vì Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic Freedom 2021). Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình" (Moderately Free), tăng 15 bậc so với năm trước. Thứ tư, nội lực được phát huy nhờ cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam đang chủ động và linh hoạt hơn trong nắm bắt, đa dạng hóa, nâng cao sức cạnh tranh và uy tín, đáp ứng nhanh và tốt hơn các nhu cầu biến đổi của thị trường. Trong quý I/2022, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng 36,7% so với cùng kỳ năm 2021; tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế tăng 21%, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động tăng 34,5%. Có tới 82,3% doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được Tổng cục Thống kê khảo sát về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II/2022 với đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý I/2022. Đặc biệt, sức sống và động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế năm 2022 còn được cộng hưởng từ điều hành kinh tế linh hoạt, sự cộng hưởng các chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng (giảm, giãn nộp thuế, tiền thuê đất, phí trước bạ, lãi suất và thời hạn trả nợ), mở rộng đầu tư công, tăng cường cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và chuyển đổi số. Quốc hội đã phê chuẩn gói giải pháp tài khóa và tiền tệ lớn với quy mô 347.000 tỷ đồng (khoảng 15 tỷ USD) để triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế (ERDP) trong năm 2022 và 2023. Các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay 0,5 - 1% và các biện pháp hỗ trợ tín dụng đến hết năm 2023, với tổng mức hỗ trợ lãi suất lên đến 40 nghìn tỷ đồng (khoảng 1,7 tỷ USD). Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong quý I/2022 tăng 8,9% và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt mức trên 9%, cao nhất so với quý I của các năm 2018 - 2022. Lạc quan, tin tưởng và quyết tâm cao, nhưng thận trọng và quyết liệt trong chỉ đạo, Chính phủ nhận định tình hình những tháng tới sẽ tiếp tục có khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi và nhiều diễn biến không dự báo được, yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi, dự báo sát tình hình, kịp thời có giải pháp khắc phục khó khăn, chủ động khai thác các cơ hội nhằm triển khai có hiệu quả cao nhất các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 vừa được ban hành theo Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022; nỗ lực tạo đột phá nâng cao chất lượng, hiệu quả của cải cách hành chính; gắn kết công tác cải cách hành chính của các bộ, ngành, địa phương với việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, tăng cường trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp; thực hiện việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” cấp bộ, cấp tỉnh từ ngày 01/6/2022, tại bộ phận “một cửa” cấp huyện từ ngày 01/12/2022; tích hợp, cung cấp 100% các dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN... Thứ năm, tiếp tục chủ động nhận diện và tháo gỡ các khó khăn trong tăng trưởng. Trên thực tế, để phục hồi nhanh và tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần nhận diện và tháo gỡ các trở ngại, như: Các diễn biến phức tạp và thiếu thống nhất trong chính sách kiểm soát dịch Covid-19; nhận diện đầy đủ và khắc phục tình trạng gia tăng bất bình đẳng tiền tệ và phi tiền tệ do hậu quả của cuộc khủng hoảng Covid-19; chủ động các kịch bản đối phó với khả năng tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại, nhất là khả năng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng với tốc độ chậm hơn do tăng trưởng ở các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc đang chững lại; giá dầu, giá chi phí vật liệu xây dựng và lạm phát thế giới tăng cao, những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu gắn với cú sốc tỷ giá thương mại do căng thẳng Nga-Ukraine, các biện pháp trừng phạt liên quan và việc các nước phát triển tăng lãi suất làm thay đổi dòng vốn đầu tư quốc tế, khiến chi phí vốn tăng, nhập khẩu đắt hơn và gia tăng áp lực lạm phát, nợ xấu trong nước. Việt Nam cũng cần tăng cường bộ đệm an toàn cho hệ thống tài chính, kiểm soát vốn vay bị sử dụng sai mục đích, tránh tập trung vốn vào các lĩnh vực rủi ro như cổ phiếu và bất động sản. Ngoài ra, sự thận trọng đầu tư và tiêu dùng của khu vực tư nhân và tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm có thể sẽ làm giảm tác động kỳ vọng đối với tăng trưởng. Việc cải thiện hơn nữa tài chính công thông qua củng cố tài khóa bền vững, khắc phục những yếu kém trong lĩnh vực ngân hàng về vốn hóa, minh bạch về chất lượng tài sản và khuôn khổ pháp lý sẽ là những yếu tố tích cực giúp cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong thời gian tới. Hơn nữa, theo WB, mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chế và khả năng chuyển đổi nhanh sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo, tập trung vào xây dựng nền kinh tế chuyển đổi số, xanh hơn và có khả năng chống chịu tốt hơn trước các cú sốc từ bên ngoài; tiếp tục cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển các ngành dịch vụ theo chiều sâu, tạo thêm động lực cho việc tăng năng suất khu vực dịch vụ và khu vực sản xuất kinh doanh cùng nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, mặc dù tỷ lệ nghèo được kỳ vọng sẽ giảm trong năm 2022. Đặc biệt, thực tế hiện nay cho thấy, giá dầu cao, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu truyền thống cùng với dịch Covid-19 đã, đang và sẽ là cộng lực thúc đẩy lạm phát và nợ công, cùng với những áp lực an sinh xã hội tăng cao… đòi hỏi các nước cần có các giải pháp phù hợp mới trên cơ sở bảo đảm an ninh chính đáng, hài hòa lợi ích và phát triển bền vững, nếu không muốn nhận thêm những thảm họa nhân tạo với quy mô và hệ lụy mới, nặng nề hơn, cả trong ngành năng lượng, cũng như trong các lĩnh vực kinh tế khác, cả vĩ mô và vi mô, cả ở mỗi nước và trên phạm vi toàn cầu… Đối với Việt Nam, để giảm thiểu tác động tiêu cực của tăng giá xăng dầu, một mặt, các cơ quan hữu quan chủ động xây dựng các kịch bản và các giải pháp thích ứng hiệu quả trên cơ sở bám sát và dự báo tốt, tăng cường chất lượng thông tin về những biến động thị trường và địa chính trị quốc tế trong thời gian tới; chủ động đa dạng hóa nguồn cung dầu trong nước và thế giới; tìm cách tiếp cận an toàn với nguồn dầu giá rẻ và với phương thức thanh toán phù hợp; tăng dự trữ quốc gia về dầu mỏ và thay đổi cơ chế quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện hành theo hướng chuyển nhập quỹ này vào quỹ dự trữ xăng dầu quốc gia; linh hoạt hóa mức thu ngân sách Nhà nước và giảm các chi phí trong giá cơ sở xăng dầu; mặt khác, cần chủ động gia tăng sản xuất và sử dụng các năng lượng thay thế phi dầu mỏ, nhất là năng lượng sạch, tái tạo; đồng thời, vận động người dân, doanh nghiệp tiết giảm sử dụng xăng dầu cả trong sản xuất kinh doanh và trong sinh hoạt; nghiêm cấm và xử phạt kịp thời đủ sức răn đe các hành vi đầu cơ, trục lợi, găm giữ gây khan hiếm giả tạo xăng dầu trên thị trường. Tài liệu tham khảo: 1. Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. 2. Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025. 3. Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 06/4/2022. 4. Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4/2022 với chủ đề "Đương đầu bão tố" của WB. 5. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/03/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-i-nam-2022/ Minh Phong Chia sẻ In trang Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu Bình luận Đóng lại Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập Các tin tức khác Xem tất cả Hoán đổi nợ xanh: Cầu nối mới cho tài chính khí hậu và phát triển bền vững 27/11/2024 11:42 128 lượt xem Bài viết tập trung phân tích cơ chế hoạt động, lợi ích của hoán đổi nợ xanh, những thách thức và giải pháp để triển khai mô hình hoán đổi nợ lấy dự án xanh tại Việt Nam. Cải thiện tín nhiệm doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã, trang trại và hộ nông dân trong thu hút vốn tín dụng chính sách, phát triển sản xuất, kinh doanh 25/11/2024 09:52 170 lượt xem Cải thiện tín nhiệm là một giải pháp căn cơ, dài hạn, không chỉ giúp doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã (HTX), trang trại và hộ nông dân tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách, mà còn nâng cao vị thế, uy tín của các tổ chức này với đối tác kinh doanh và những bên liên quan, góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh bền vững. Sự hài lòng trực tuyến trong ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng điện tử tại Việt Nam 19/11/2024 09:44 470 lượt xem Sự phát triển nhanh chóng của các hệ thống điện tử và Internet đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ nói chung, dịch vụ tài chính, ngân hàng nói riêng... Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm 18/11/2024 11:30 843 lượt xem Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra 11/11/2024 08:25 884 lượt xem Thông qua phân tích quy mô và biến động dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023, bài viết chỉ ra những kết quả tích cực và một số hạn chế trong tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với ngành sản xuất quan trọng này. Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả 05/11/2024 08:10 1.009 lượt xem Hiện nay, công tác bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực được các NHTM chú trọng đầu tư phát triển, tuy nhiên, nguồn nhân lực của nhiều ngân hàng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về chất lượng, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của các ngân hàng. Đánh giá khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng của NHTM Việt Nam bằng mô hình định lượng 04/11/2024 08:23 1.336 lượt xem Nghiên cứu này nhằm chỉ ra mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động tiền gửi từ khách hàng thông qua phương pháp khảo sát và phân tích hồi quy dữ liệu của 37 NHTM Việt Nam. Thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn: Rào cản và gợi ý cho Việt Nam 31/10/2024 08:07 999 lượt xem Biến đổi khí hậu trở thành rủi ro lớn nhất mà loài người đang phải gánh chịu (WEF, 2024). Trong bối cảnh đó, phát triển bền vững không còn là sự lựa chọn, mà gần như bắt buộc ở hầu hết các quốc gia trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, mô hình kinh tế tuần hoàn nổi lên như một công cụ quan trọng. Việt Nam sau gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế 29/10/2024 15:02 4.984 lượt xem Trong những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng lên, khẳng định vai trò tích cực và trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, hợp tác phát triển và thúc đẩy tiến bộ toàn cầu. Kinh tế Việt Nam 9 tháng năm 2024 và một số đề xuất, khuyến nghị 22/10/2024 14:35 7.936 lượt xem Tình hình kinh tế Việt Nam trong tháng 9, quý III và 9 tháng năm 2024 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước; tính chung 9 tháng năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực. Phát triển thị trường tài chính trong nền kinh tế số tại Việt Nam 21/10/2024 08:35 2.788 lượt xem Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế. Tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính các ngân hàng thương mại Việt Nam 18/10/2024 08:05 2.316 lượt xem Nghiên cứu này xem xét tác động của tiền gửi đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2014 - 2023. Thách thức và giải pháp tài chính trong phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam 17/10/2024 08:45 2.008 lượt xem Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động lớn đến đời sống và kinh tế toàn cầu, nông nghiệp tác động đến phát triển kinh tế - xã hội trên hai khía cạnh thích ứng với môi trường và tác động tiêu cực đến môi trường. Tiếp cận phương pháp xác định hành vi quản trị lợi nhuận theo hướng truyền thống và hiện đại 16/10/2024 08:00 1.011 lượt xem Quản trị lợi nhuận là một chiến lược có thể được ban quản lí cố ý sử dụng để điều chỉnh chỉ tiêu thu nhập của công ty với các mục tiêu đã xác định trước. Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - công cụ hỗ trợ phát triển “tam nông”: Kinh nghiệm từ Nhật Bản và bài học cho Việt Nam 15/10/2024 08:02 603 lượt xem Bảo lãnh tín dụng được coi là một công cụ hữu hiệu giúp khắc phục được “điểm nghẽn” về vốn cho phát triển “tam nông”. Bài viết đề cập đến kinh nghiệm của Nhật Bản về bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề 'Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam' 26/11/2024 09:53 Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là bước phát triển tất yếu, bứt phá và tăng tốc 15/11/2024 21:13 Tuyên bố chung giữa nước Cộng hòa Chile và nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 12/11/2024 14:09 Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Điều lệ Đảng 12/11/2024 14:15 Bài học Cách mạng Tháng Mười Nga trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc 11/11/2024 15:54 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc 05/11/2024 16:17 Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: 'Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả' 06/11/2024 16:31 Xem tất cả Giá vàngXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày) Lãi SuấtXem chi tiết (Cập nhật trong ngày) Ngân hàng KKH 1 tuần 2 tuần 3 tuần 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 9 tháng 12 tháng 24 tháng Vietcombank 0,10 0,20 0,20 - 1,60 1,60 1,90 2,90 2,90 4,60 4,70 BIDV 0,10 - - - 1,70 1,70 2,00 3,00 3,00 4,70 4,70 VietinBank 0,10 0,20 0,20 0,20 1,70 1,70 2,00 3,00 3,00 4,70 4,80 ACB 0,01 0,50 0,50 0,50 2,30 2,50 2,70 3,50 3,70 4,40 4,50 Sacombank - 0,50 0,50 0,50 2,80 2,90 3,20 4,20 4,30 4,90 5,00 Techcombank 0,05 - - - 3,10 3,10 3,30 4,40 4,40 4,80 4,80 LPBank 0.20 0,20 0,20 0,20 3,00 3,00 3,20 4,20 4,20 5,30 5,60 DongA Bank 0,50 0,50 0,50 0,50 3,90 3,90 4,10 5,55 5,70 5,80 6,10 Agribank 0,20 - - - 1,70 1,70 2,00 3,00 3,00 4,70 4,80 Eximbank 0,10 0,50 0,50 0,50 3,10 3,30 3,40 4,70 4,30 5,00 5,80 Liên kết website -- Chọn liên kết -- Ngân hàng Nhà nước Việt NamGiáo dục Tài chínhThời báo Ngân hàngChính phủThị trường tài chính tiền tệ Bình chọn trực tuyến Nội dung website có hữu ích với bạn không? Rất hay và hữu ích Khá hữu ích Bình thường Bình chọn Xem kết quả Kết quả Nội dung website có hữu ích với bạn không? Tổng cộng: phiếu Địa chỉ: Số 64 Nguyễn Chí Thanh, Phường Láng Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội Điện thoại: 024.38354807 - 024.39392184 - 024.39392187 Email: tapchidientu_tcnh@sbv.gov.vn Website: www.tapchinganhang.gov.vn - www.tapchinganhang.com.vn Chỉ được phát hành lại thông tin từ website này khi có sự đồng ý bằng văn bản của Tạp chí Ngân hàng TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG Giấy phép hoạt động Tạp chí in và Tạp chí điện tử số 484/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 28/07/2021 Phó Tổng Biên tập phụ trách: Nguyễn Thị Thanh Bình Phó Tổng Biên tập: Nguyễn Thanh Nghị Liên hệ Phát hành - Quảng cáo Copyright © 2022 Tapchinganhang.gov.vn. Bảo lưu mọi quyền Giới thiệu tòa soạn Tổng truy cập: 35.222.186 Mạng xã hội
Giá vàng - Xem theo ngày
Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
82,800
85,300
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
82,800
85,300
Vàng SJC 5c
82,800
85,320
Vàng nhẫn 9999
82,700
84,700
Vàng nữ trang 9999
82,600
84,300
Ngoại tệXem chi tiết Tỷ giá - Xem theo ngàyNgân Hàng | USD | EUR | GBP | JPY | ||||
Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | |
Vietcombank | 25,170 | 25,509 | 25,878 | 27,297 | 31,003 | 32,320 | 159.37 | 168.63 |
BIDV | 25,200 | 25,509 | 26,138 | 27,281 | 31,430 | 32,304 | 161.48 | 168.93 |
VietinBank | 25,200 | 25,509 | 26,111 | 27,311 | 31,431 | 32,441 | 161.29 | 169.04 |
Agribank | 25,210 | 25,509 | 25,996 | 27,198 | 31,179 | 32,263 | 161.04 | 168.71 |
Eximbank | 25,200 | 25,509 | 26,171 | 27,014 | 31,376 | 32,344 | 162.47 | 167.72 |
ACB | 25,200 | 25,509 | 26,188 | 27,087 | 31,467 | 32,417 | 161.66 | 168.05 |
Sacombank | 25,200 | 25,509 | 26,147 | 27,125 | 31,362 | 32,519 | 162.18 | 169.23 |
Techcombank | 25,221 | 25,509 | 26,006 | 27,353 | 31,098 | 32,424 | 158.15 | 170.64 |
LPBank | 25,215 | 25,509 | 26,361 | 27,261 | 31,670 | 32,185 | 162.87 | 169.95 |
DongA Bank | 25,270 | 25,509 | 26,190 | 26,960 | 31,380 | 32,320 | 160.20 | 167.50 |
Từ khóa » Tốc độ Tăng Gdp Của Nhật Bản Duy Trì ở Mức Hai Con Số Trong Giai đoạn
-
Kinh Tế Nhật Bản – Wikipedia Tiếng Việt
-
Không Có Tiêu đề
-
GDP Tăng 5,64%: Phản ánh Sát Thực Bức Tranh Kinh Tế 6 Tháng đầu ...
-
Kinh Tế Nhật Bản Tăng Trưởng Quý Thứ Tám Liên Tiếp - Tin Bộ Tài Chính
-
Chính Sách Phát Triển Kinh Tế Của Nhật Bản Và Những Khuyến Nghị ...
-
Kinh Tế Việt Nam Dự Kiến Tăng Trưởng Khoảng 4,8% Năm 2021: WB
-
Một Số Nét Chính Về Tình Hình Kinh Tế Việt Nam - Embassy Japan
-
[DOC] Xã Hội 10 Năm 2011-2020, Xây Dựng Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế
-
In Bài Viết - Ngân Hàng Nhà Nước
-
Phấn đấu Năm 2025, GDP Bình Quân đầu Người đạt Khoảng 4.700 ...
-
Kinh Tế Việt Nam 2021 Và Covid-19: Lạc Quan, đau Thương Rồi Hy Vọng
-
TTWTO VCCI - Quy Mô Thị Trường Đức
-
[PDF] Việt Nam Cần Những Gì để đạt được Khát Vọng Tăng Trưởng Dài Hạn?
-
Tổng Cục Thống Kê: Kinh Tế 5 Thành Phố Lớn Tăng Trưởng Không ...
-
Một Số Thành Tựu Nổi Bật Sau 35 Năm đổi Mới đất Nước
-
Tình Hình Phát Triển Kinh Tế - Chi Tiết Tin - Quảng Trị - Cổng Thông Tin
-
Tổng Quan Kinh Tế Thế Giới Quý IV Và Năm 2021
-
Hội Thảo đánh Giá Kinh Tế Việt Nam Năm 2020, Triển Vọng Năm 2021