Sudan – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
| Cộng hòa Sudan | |
|---|---|
Tên bản ngữ
| |
| | |
| Tiêu ngữ: النصر لناan-Naṣr lanā"Victory is ours" | |
| Quốc ca: نحن جند اللّٰه، جند الوطنNaḥnu jund Allah, jund al-waṭan"Chúng ta là chiến sĩ của Allah, chiến sĩ của Tổ quốc" | |
| Tổng quan | |
| Thủ đôvà thành phố lớn nhất | Khartoum |
| Ngôn ngữ chính thức |
|
| Sắc tộc |
|
| Tôn giáo (2022)[1] |
|
| Tên dân cư | Người Sudan |
| Chính trị | |
| Chính phủ | Cộng hòa liên bang dưới một chế độ quân quản[16][17] |
| • Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền Chuyển tiếp | Abdel Fattah al-Burhan |
| • Phó Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền Chuyển tiếp | Malik Agar |
| • Thủ tướng | Kamil Idris |
| Lập pháp | Hội đồng Lập pháp chuyển tiếp |
| Lịch sử | |
| Hình thành | |
| • Vương quốc Kerma | 2500 TCN |
| • Vương quốc Kush | 1070 TCN |
| • Makuria, Nobatia và Alodia | k. 350 |
| • Hồi quốc Tunjur, Funj và Darfur | k. 1500 |
| • Sudan thuộc Thổ Nhĩ Kỳ-Ai Cập | 1820 |
| • Mahdist State | 1885 |
| • Sudan thuộc Anh-Ai Cập | 1899 |
| • Độc lập | 1 tháng 1 năm 1956 |
| • Cộng hòa Dân chủ Sudan | 25 tháng 5 năm 1969 |
| • Cộng hòa Sudan (1985–2019) | 6 tháng 4 năm 1985 |
| • Nam Sudan ly khai | 9 tháng 7 năm 2011 |
| • Cách mạng Sudan | 19 tháng 12 năm 2018 |
| • Dự thảo Tuyên bố Hiến pháp 2019 có hiệu lực | 20 tháng 8 năm 2019 |
| Địa lý | |
| Diện tích | |
| • Tổng cộng | 1.886.068 km2 (hạng 15)728.215 mi2 |
| Dân số | |
| • Ước lượng 2024 | 50.467.278[18] (hạng 30) |
| • Mật độ | 21,3/km2 (hạng 202)55,3/mi2 |
| Kinh tế | |
| GDP (PPP) | Ước lượng 2025 |
| • Tổng số | |
| • Bình quân đầu người | |
| GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2025 |
| • Tổng số | |
| • Bình quân đầu người | |
| Đơn vị tiền tệ | Bảng Sudan (SDG) |
| Thông tin khác | |
| Gini? (2014) | |
| HDI? (2023) | |
| Múi giờ | UTC+2 (Giờ Trung Phi) |
| Cách ghi ngày tháng | dd/mm/yyyy |
| Giao thông bên | phải |
| Mã điện thoại | +249 |
| Mã ISO 3166 | SD |
| Tên miền Internet |
|
Sudan,[b] quốc hiệu là Cộng hòa Sudan,[c] là một quốc gia ở châu Phi, nằm ở điểm giao giữa Sừng châu Phi và Trung Đông, giáp với Ai Cập ở phía bắc, Biển Đỏ ở phía đông bắc, Eritrea và Ethiopia ở phía đông, Cộng hòa Trung Phi ở phía tây nam, Tchad ở phía tây, Libya ở phía tây bắc và Nam Sudan ở phía nam. Sudan có diện tích lớn thứ 16 trên thế giới.
Từ năm 1989 đến năm 2019, một chính phủ quân quản do Omar al-Bashir và dưới Đảng Đại hội Quốc gia đứng đầu nắm quyền tại Sudan. Chế độ quân quản vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, bao gồm tra tấn, đàn áp các nhóm thiểu số, tài trợ cho khủng bố theo cáo buộc của Hoa Kỳ và tiến hành diệt chủng tại Darfur trong giai đoạn 2003–2020. Ước tính từ 300.000 đến 400.000 người bị chế độ sát hại. Trong Cách mạng Sudan, quân đội tiến hành đảo chính lật đổ Bashir sau khi người dân biểu tình đòi Bashir từ chức.[22] Từ năm 2023, Sudan rơi vào cuộc nội chiến thứ ba giữa Lực lượng Vũ trang Sudan (SAF) và Lực lượng Hỗ trợ nhanh (RSF).
Từ năm 1983 đến năm 2020, Hồi giáo là quốc giáo của Sudan và Sharia được áp dụng.[23] Sudan là một nước kém phát triển nhất và một trong những nước nghèo nhất trên thế giới,[24] xếp hạng thứ 170 về Chỉ số phát triển con người vào năm 2024 và thứ 185 về GDP bình quân đầu người danh nghĩa. Nền kinh tế Sudan phụ thuộc vào nông nghiệp do bị quốc tế trừng phạt cùng với lịch sử bất ổn chính trị, bạo loạn. Hơn 60% dân số Sudan sống dưới chuẩn nghèo. Sudan là một thành viên Liên Hợp Quốc, Liên đoàn Ả Rập, Liên minh châu Phi, COMESA, Phong trào không liên kết và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Lịch sử SudanPhần lãnh thổ phía Bắc của Sudan thuộc Vương quốc Nubia cổ xưa. Trong thiên niên kỉ I TCN, người Ai Cập đến thành lập các vùng định cư ở Sudan, dần dần phát triển thành vương quốc Kush. Trong những thế kỉ sau đó, khi Ai Cập suy tàn, vương quốc Kush bảo tồn nền văn hóa Ai Cập. Vương quốc này bị người Aksum thuộc phía Bắc của Ethiopia tiêu diệt vào khoảng giữa thế kỷ IV.
Vào thế kỷ VI, các nhà truyền giáo đến thành lập các nhà nước cùng chung sống với người Ả Rập Ai Cập Hồi giáo trong hơn 600 năm. Những người không thuộc cộng đồng Ả Rập nắm quyền kiểm soát Ai Cập đã khuyến khích các bộ lạc du mục Arập di chuyển đến vùng Thượng Ai Cập và tiến hành các cuộc cướp phá dọc theo biên giới Sudan. Cuối thế kỷ XIII, người Ả Rập xâm chiếm vương quốc Nubia phần lớn là người Cơ đốc giáo và định cư tại Sudan. Vương quốc Alwa ở miền trung Sudan bị một dân tộc không rõ nguồn gốc từ phía Nam đến chinh phục.
Thống nhất với Ai Cập
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1820, phó vương Ai Cập là Muhammad Ali Pasha đánh chiếm lấy miền bắc Sudan rồi lại phái con là Ibrahim Pasha đánh tràn xuống phía nam. Cháu của Muhammad Ali sau khi lên ngôi là Ismail I tiếp tục củng cố chủ quyền của Ai Cập trên đất nước Sudan.
Loạn Mahdi
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1879, các cường quốc châu Âu can thiệp vào nội bộ Ai Cập, bắt Ismail phải thoái vị và lập hoàng tử Tewfik lên làm vua. Tewfik lại nhu nhược, nạn tham quan hoành hành nên ở Ai Cập có loạn Orabi. Vua Tewfik phải cầu viện nước Anh để dẹp loạn. Trong khi đó ở Sudan thì Muhammad ibn Abdalla dấy binh, tự xưng là "Mahdi" (thủ lĩnh) quyết càn quét đất nước khỏi bọn ngoại xâm và phục hưng đạo Hồi. Dân theo về rất đông. Mahdi kéo binh về vây đánh thủ phủ Khartoum. Thành ấy vỡ; tướng Charles George Gordon người Anh, được vua Ai Cập bổ nhiệm làm thống đốc Khartoum cũng tử trận theo thành. Quân đội Ai Cập phải rút khỏi Sudan.
Thời Mahdi trị
[sửa | sửa mã nguồn]
Muhammad ibn Abdalla dưới danh hiệu Mahdi thành lập một quốc gia thần trị, áp đặt luật pháp Hồi giáo rất khắt khe. Các sách vở cũ liên quan đến hình luật và tín ngưỡng cựu triều đều bị đốt hết để thanh lọc xã hội.
Được sáu tháng thì Mahdi mất vì bệnh thương hàn. Phó tướng Abdallahi ibn Muhammad lên thay, tự xưng là Khalifa (thống lĩnh) nước Sudan.

Abdallahi ibn Muhammad mở chiến dịch bành trướng, đánh sang Ethiopia năm 1887. Hai năm sau quân Sudan xâm lăng Ai Cập nhưng bị quân Ai Cập dưới sự chỉ huy của sĩ quan Anh đánh bại ở Tushkah. Các cuộc hành quân xuống miền nam Sudan thì bị quân Bỉ chặn đứng. Ở Eritrea quân Sudan cũng bị quân Ý đánh bại. Chuỗi bại trận liên tiếp phá tan giấc mộng bá chủ bách thắng của quân Sudan.
Sudan thuộc Anh-Ai Cập
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Sudan thuộc Anh-Ai CậpNhân danh triều đình Ai Cập, quân đội Anh dưới sự chỉ huy của tướng Horatio Kitchener mở cuộc hành quân tái chiếm Sudan vào cuối thế kỷ XIX. Trong ba năm từ năm 1896 đến 1898 quân Anh đánh tan lực lượng Mahdi. Trận quyết liệt nhất là trận Omdurman (Umm Durman) ngày 2 Tháng Chín khi hơn năm vạn quân Mahdi giao chiến thì quá nửa bị thương vong. Sau đó hai nước Anh và Ai Cập lập cơ chế đồng trị xứ Sudan tuy trên thực tế chính phủ Anh là chủ lực cai trị Sudan như một thuộc địa.
Ai Cập đã nhiều lần muốn hợp nhất Sudan vào Ai Cập nhưng Luân Đôn không ưng thuận. Chính phủ Anh còn chia Sudan ra hai phần, miền Bắc đa số theo Hồi giáo và miền Nam theo đạo Thiên Chúa.
Khi Anh chấm dứt cuộc chiếm đóng Ai Cập năm 1936 thì chính giới Ai Cập càng thúc giục việc hợp nhất với Sudan. Năm 1952, phe quân đội Ai Cập đảo chánh, lật đổ vương triều cũ và lập nền cộng hòa. Chính phủ mới cũng tuyên bố hủy bỏ chính thể đồng trị ở Sudan. Vì Anh xưa kia đã nhân danh quốc vương Ai Cập mà đem quân vào Sudan, nay Ai Cập rút lui thì Anh cũng không còn lý do pháp lý nào để tiếp tục cai trị Sudan. Năm 1954, Anh và Ai Cập đồng thuận trao trả độc lập cho Sudan. Hai năm sau, ngày 1 Tháng Giêng 1956 nước Sudan độc lập ra đời.
Độc lập (1956 – hiện tại)
[sửa | sửa mã nguồn]Ngay từ trước khi Sudan độc lập hai miền Nam Bắc Sudan đã có nhiều xung đột. Miền Nam mang đậm nét văn hóa bản địa với số đông dân chúng thờ thần linh thiên nhiên hay theo đạo Thiên Chúa. Miền Bắc thì có nhiều liên hệ với khối Ả Rập Trung Đông và thế giới Hồi giáo. Khác biệt này được người Anh đẩy mạnh với một số luật cấm người phía bắc vĩ tuyến 10 không được di chuyển về phương nam, và ngược lại người phía nam vĩ tuyến 8 không được ra bắc. Trên lý thuyết luật này được ban hành để ngăn chặn bệnh sốt rét không lan lên miền Bắc nhưng cũng có hậu quả ngăn cản đạo Hồi không bành trướng về phương nam. Tác dụng thứ hai là đạo Thiên Chúa được tự do truyền bá ở miền Nam không bị đạo Hồi kiềm chế. Đây là mầm mống xung khắc giữa hai miền.
Cuộc nội chiến, còn gọi là "Loạn Anyanya" bùng nổ khi chính phủ miền Bắc hủy bỏ kế hoạch lập một thể chế liên bang để cai trị hai miền vốn có nhiều bất đồng. Chiến tranh lúc khởi đầu là chiến tranh du kích ở tỉnh Al-Istiwa'iyah/Equatoria rồi lan sang hai tỉnh A'aly an-Nyl (Thượng Nin) và Bahr el Ghazal. Quân phiến loạn bị chia rẽ vì lý do chủng tộc nhưng phe chính phủ cũng bị phe phái tranh nhau làm suy yếu. Năm 1958 ở thủ đô Khartoum tướng Ibrahim Abboud lãnh đạo cuộc đảo chính nhưng cũng không ổn định được tình hình. Nhiều chính phủ khác liên tiếp lên nắm quyền cũng không giải quyết được cuộc chiến Bắc Nam. Năm 1969 Gaafar Nimeiry cướp chính quyền và ngăn cấm mọi đảng phái chính trị nhưng rồi bị truất. Đảng Cộng sản Sudan cùng các nhóm Mác-xít đứng ra chấp chính nhưng liền bị Nimeiry đánh bại.
Trong khi đó ở miền Nam năm 1971, Joseph Lagu thống nhất các nhóm du kích dưới tổ chức SSLM (Southern Sudan Liberation Movement, tức Phong trào Giải phóng Nam Sudan) và đứng ra điều đình với chính phủ Nimeiry. Các tổ chức quốc tế cũng tham gia bảo trợ cuộc đàm phán. Kết quả là Hiệp định Addis Ababa ký năm 1972 kết thúc 17 năm xung đột. Giá Sudan đã phải trả là nửa triệu người tử vong và hàng trăm nghìn dân tỵ nạn bị ly tán. Theo hiệp ước đó thì miền Nam Sudan được tự trị và hòa bình tái lập nhưng khác biệt cơ bản giữa hai miền vẫn không thay đổi. Hiệp định Addis Ababa cốt chỉ là tạm thời cho đến khi một giải pháp tổng thể được hoạch định.

Trong mười năm đình chiến từ 1972 đến 1982, chính quyền miền Nam Sudan được rộng quyền tự trị nhưng Tổng thống Nimeiry năm 1983 đòi đẩy mạnh chính sách "Hồi hóa" toàn quốc bằng cách ban hành bộ luật mới căn cứ theo luật Shari'a của đạo Hồi. Ở miền Bắc Nimeiry tuyên bố thiết quân luật để được rộng quyền áp dụng Shari'a. Theo luật mới thì kẻ trộm cắp bị hình phạt chặt tay. Ai chứa chấp rượu thì bị đánh bằng roi bất kể người đó có theo đạo hay không.
Dân miền Nam Sudan chống lại chính sách mới của chính phủ Khartoum. Cũng năm 1983 tổ chức SPLA (Sudan People's Liberation Army, "Quân đội Giải phóng Nhân dân Sudan") ra đời do John Garang lãnh đạo với yêu sách độc lập cho miền Nam Sudan. Tháng Chín năm 1984 Nimeiry tuyên bố sẽ miễn không áp dụng Shari'a cho những ai không theo đạo Hồi nhưng nhóm SPLA vẫn không giải giáp. Dựa trên chủ thuyết Mác-xít lực lượng SPLA được khối Cộng sản gồm Liên Xô và Ethiopia viện trợ vũ khí và quân nhu.
Cuộc chiến thêm cam go vì hạn hán và nạn đói hoành hành miền Nam Sudan. Tháng Tư năm 1985 trong khi Nimeiry xuất ngoại, tướng Abdul Rahman Suwar ad-Dahhab mở cuộc đảo chánh, hủy bỏ chính sách "Hồi hóa". Tuy nhiên bộ luật Shari'a vẫn để nguyên. Chính phủ kế tiếp là do thủ tướng dân lập Sadiq al-Mahdi ra chấp chính đại diện liên minh ba đảng:
- Hizb al-Umma (đảng Umma);
- Al Hizb Al-Ittihadi Al-Dimuqrati, thường viết tắt là DUP (Democratic Unionsit Party, "Đảng Thống nhất Dân chủ") và
- Al-Jabhah al-Islamiyah al-Qawmiyah, viết tắt là NIF (National Islamic Front, "Mặt trận Hồi giáo Quốc gia").
Sang năm 1986 thì Khartoum mở hòa đàm với nhóm SPLA của Garang để vãn hồi hòa bình. Năm 1988 đảng DUP cùng SPLA ký chung một thỏa thuận dựa trên hội nghị Koka Dam trước kia tại Ethiopia, trong đó có ba điểm chính:
- Ngưng bắn
- Ngưng áp dụng luật Shari'a
- Chấm dứt thiết quân luật. Sau đó sẽ tổ chức hội nghị lập hiến để vạch một đường đi mới cho cả nước Sudan.
Trong khi đó chiến tranh càng thêm khốc liệt. Tình hình kinh tế càng khó khăn vì vật giá tăng nhanh. Vì không muốn nhượng bộ phe miền Nam, thủ tướng Sadiq al-Mahdi không chịu thông qua hòa ước giữa DUP và SPLA. Kết quả là Tháng Mười Một năm 1988 đảng DUP rút khỏi liên minh chính phủ. Đầu năm 1989 phe quân đội ra tối hậu thư đòi chính phủ phải xúc tiến hòa đàm nếu không sẽ đảo chính. Dưới áp lực đó Sadiq al-Mahdi đành thông qua hòa ước, đợi ngày hội nghị lập hiến Tháng Chín.
Thời kỳ Bashir (1989–2019)
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Đại tá Omar al-Bashir tiến hành một cuộc đảo chính quân sự.[25] Chính phủ quân quản mới đình chỉ hệ thống đa đảng và ban hành bộ luật Hồi giáo trên cả nước.[26] Sau đó, al-Bashir tiến hành thanh trừng, xử tử hàng ngũ cấp cao trong quân đội, cấm các hiệp hội, chính đảng, báo chí độc lập và bỏ tù các chính trị gia, nhà báo tiêu biểu.[27] Ngày 16 tháng 10 năm 1993, al-Bashir tự phong làm tổng thống, giải tán Hội đồng tư lệnh cách mạng và tiếp quản quyền hành pháp, lập pháp của hội đồng.[28]
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1996, al-Bashir là ứng cử viên hợp pháp duy nhất.[29] Sudan trở thành một nhà nước độc đảng dưới Đảng Đại hội Quốc gia (NCP).[30] Vào thập niên 1990s, Hassan al-Turabi, khi đó là chủ tịch Quốc hội, liên lạc với các nhóm toàn thống Hồi giáo và mời Osama bin Laden vào Sudan.[31] Hoa Kỳ sau đó chỉ định Sudan là một quốc gia tài trợ cho khủng bố.[32] Sau vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ tại Kenya và Tanzania vào năm 1998 do Al-Qaeda chủ mưu, Hoa Kỳ tiến hành Chiến dịch Infinite Reach và phá hủy nhà máy dược phẩm Al-Shifa dựa trên thông tin sai lệch rằng nhà máy sản xuất vũ khí hóa học cho Al-Qaeda. Al-Turabi bắt đầu thất thế và những thành phần thực dụng trong chính quyền bắt đầu vận động chấm dứt thế cô lập quốc tế của Sudan.[33] Sudan trục xuất các thành viên của Jihad Hồi giáo Ai Cập và kêu gọi bin Laden ra nước ngoài.[34]
Ngoài lực lượng quân đội chính quy, chính phủ quân phiệt còn dùng nhóm al-Difaa al-Shaabi, viết tắt là PDF (People's Defense Forces, "Lực lượng Phòng vệ Nhân dân") để càn quét các tỉnh miền Nam. Quân Sudan kiểm soát những thị trấn lớn như Juba, Wau, và Malakal nhưng quân SPLA thì vẫn chiếm đóng phần lớn các tỉnh phía Nam. Tình hình thêm rối loạn khi quân SPLA vì bất đồng nội bộ phân hóa thành mấy nhóm: nhóm Nasir, nhóm của Bany và nhóm Bol.
Dù vậy các cuộc hòa đàm dần dần có kết quả và Hiệp ước Hòa bình Tổng thể được ký ở Nairobi vào Tháng Giêng năm 2005. Hiệp ước đó cho phép quân đội hai miền không phải giải giới và được giữ nguyên vị trí nhưng miền Nam được sáu năm tự trị. Tiếp theo đó là cuộc trưng cầu dân ý để quyết định chính thể cho miền Nam. Lợi tức tài nguyên dầu lửa sẽ được chia đôi. Để hợp nhất hai chính phủ, Garang được thâu nạp làm một trong hai phó tổng thống Sudan. Tiếc thay Tháng Tám năm 2005 trong một phi vụ trực thăng, máy bay rớt và Garang tử thương. Phe SPLA nổi dậy làm loạn đốt phá nhưng tình hình dần lắng dịu. Liên hiệp Quốc cũng giúp sức với các dự án cứu trợ nhân đạo và phổ biến nhân quyền ở Sudan, làm ổn định xã hội. Vấn đề chưa giải quyết là chủ quyền hạt Abyei với nhiều mỏ dầu thô. Cả hai phe Bắc và Nam đều đòi quyền cai trị khu vực này.
Bài chi tiết: Trưng cầu dân ý miền Nam Sudan năm 2011Sau sáu năm tự trị (2005-2011) miền Nam Sudan theo Hiệp ước Hòa bình Tổng thể ký ở Nairobi năm 2005 mở cuộc trưng cầu dân ý kéo dài một tuần từ 9 Tháng Giêng đến 15 Tháng Giêng 2011 để quyết định chính thể cho miền Nam. Dân miền Nam muốn bỏ phiếu phải ghi danh. Phòng phiếu cũng mở ở miền Bắc để dân Nam cư trú ở miền Bắc có thể đi bầu. Ở hải ngoại như Úc, Canada, Ai Cập, Ethiopia, Kenya, Uganda, Anh và Hoa Kỳ cũng có phòng phiếu để người Nam Sudan lưu vong tham gia.[35]
Kết quả cuộc trưng cầu dân ý gần 98,83% số phiếu ủng hộ độc lập cho miền Nam. Chính phủ trung ương tuyên bố sẽ chấp nhận quyết định của đại đa số và sẽ xúc tiến bàn giao.[36]
Bài chi tiết: Xung đột Darfur
Trong khi cuộc Nội chiến Bắc Nam có nhiều triển vọng giải quyết được, vùng Darfur phía tây bùng cháy dữ dội từ năm 2003 vì tranh chấp bộ tộc. Chính phủ Khartoum cố dùng dân binh để dẹp các bộ tộc nhưng nhóm dân binh "janjawid" do chính phủ tài trợ thay vì tái lập trật tự, lại góp phần cướp phá giết hại nên bị các nước lên án là gây nên nạn diệt chủng tại Darfur. Số dân tỵ nạn lên đến hàng triệu người. Số người chết đói, chết vì bệnh tật rất cao.[37] Số dân tràn sang Tchad cũng đã gây bất ổn chính trị ở nước này.
Cuối năm 2005, Tchad cho tổng động viên khi quân phiến loạn Rassemblement pour la Démocratie et la Liberté do Khartoum ủng hộ dùng vùng biên giới đánh phá quân chính phủ N'Djamena. Khi thị trấn Adré thuộc Tchad bị uy hiếp, Tchad tuyên chiến với Sudan ngày 23/12/2005. Chính phủ Khartoum bác bỏ lời cáo buộc của N'Djamena và phản bác rằng chính quân lực Tchad đã xâm phạm không phận của Sudan. Tình hình bớt căng thẳng khi hai nước ký hiệp ước đình chiến ngày 3 Tháng 5 năm 2007 tại Ả Rập Xê Út và tuyên bố sẽ nỗ lực duy trì hòa bình dọc dải biên giới 1.000 km.
Trong khi cuộc chiến Bắc Nam Sudan kéo dài thì miền Đông có loạn do các bộ tộc Beja và Rashaida nổi lên chống lại chính phủ Khartoum. Các nhóm này hợp nhất dưới một tổ chức mang tên "Mặt trận Miền Đông" đánh phá ba tỉnh Kassala (Ash Sharqiyah), Al Qadarif và Al Bahr al Ahmar. Chính phủ Eritrea lúc đầu ủng hộ Mặt trận nhưng đến giữa năm 2005 lại đổi chính sách, hợp tác với chính phủ Khartoum. Với Eritrea làm trung gian, Khartoum và Mặt trận Miền Đông mở cuộc hòa đàm và đến 14 Tháng Mười năm 2006 thì hai bên ký hòa ước ở Asmara. Theo hòa ước này thì ba tiểu bang Kassala (Ash Sharqiyah), Al Qadarif và Al Bahr al Ahmar cả hai phe, chính phủ trung ương và Mặt trận Miền Đông sẽ chia nhau tài nguyên và quyền lực ở cấp liên bang và tiểu bang.
Ngày 13 tháng 1 năm 2017, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama dỡ bỏ nhiều lệnh trừng phạt đối với Sudan và tài sản của chính phủ Sudan ở nước ngoài. Ngày 6 tháng 10 năm 2017, Donald Trump dỡ bỏ những lệnh trừng phạt còn lại đối với Sudan.[38]
Cách mạng Sudan 2019 và chính phủ chuyển tiếp
[sửa | sửa mã nguồn]Đảo chính 2021 và chế độ al-Burhan
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 21 tháng 9 năm 2021, chính phủ Sudan tuyên bố bắt giữ 40 sĩ quan quân đội vì tham gia một cuộc đảo chính bất thành.[39][40]
Ngày 25 tháng 10 năm 2021, Tướng Abdel Fattah al-Burhan tiến hành một cuộc đảo chính thành công lật đổ chính phủ thường dân và tuyên bố tình trạng khẩn cấp.[41][42][43][44] Burhan trở thành nguyên thủ quốc gia trên thực tế của Sudan và thành lập một chính phủ quân quản mới vào ngày 11 tháng 11 năm 2021.[45]
Ngày 2 tháng 1 năm 2022, Hamdok tuyên bố từ chức thủ tướng sau một trong những vụ đàn áp biểu tình đẫm máu nhất ở Sudan.[46] Osman Hussein kế nhiệm Hamdok làm thủ tướng.[47][48] Tính đến tháng 3 năm 2022, hơn 1.000 người bao gồm 148 trẻ em đã bị bắt giam vì phản đối cuộc đảo chính, 25 người cáo buộc bị hiếp dâm[49] và 87 người đã thiệt mạng[50] bao gồm 11 trẻ em.[49]
Nội chiến (2023 – hiện tại)
[sửa | sửa mã nguồn]Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Địa lý SudanSudan nằm ở Đông Phi, Bắc giáp Ai Cập, Đông Bắc giáp biển Đỏ, Đông giáp Eritrea và Ethiopia, Tây giáp Tchad, Libya và Cộng hòa Trung Phi, Nam giáp Nam Sudan.
Sudan là nước có diện tích lớn thứ ba châu Phi. Toàn bộ vùng cao nguyên (300m đến 1.200m) rộng lớn thoải dần từ Nam đến Bắc và được bao quanh bởi một vài khối núi vùng ngoại vi ở phía Tây (vùng núi Darfour; Djebel Marra, 3.088 m), ở phía Đông Bắc ven biển Đỏ (Djchel Erba, 2.217 m; Djehel Oda, 2.259 m).
Phần lớn dân cư tập trung ở các vùng hợp lưu của sông Nile Trắng và sông Nile Xanh. Ở phía Bắc, các vùng sa mạc gợn sóng nối tiếp với các đồng cỏ. Tài nguyên thiên nhiên ở Sudan gồm có dầu mỏ, quặng sắt (trữ lượng nhỏ), đồng, kẽm, crom, tungsten, mica, vàng, bạc, thủy điện.

Khí hậu ở Sudan nằm trong vùng khí hậu sa mạc khô và nóng. Do phần lớn lãnh thổ là sa mạc Sahara nên Sudan thiếu nguồn nước tự nhiên nghiêm trọng; ô nhiễm nước gây nguy hại cho sức khỏe con người; đất bị xói mòn; sa mạc hóa; nạn săn bắt thái quá đe dọa các loài thú rừng.
Chính trị
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Chính trị SudanCuộc bầu cử gần đây nhất tại Sudan được tổ chức vào năm 2015. Sudan chính thức là một nhà nước cộng hòa Hồi giáo liên bang chuyên chế cho đến tháng 4 năm 2019, khi Tổng thống Omar al-Bashir bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự do Phó Tổng thống Ahmed Awad Ibn Auf cầm đầu. Ibn Auf thành lập Hội đồng quân sự chuyển tiếp làm chính phủ quân quản lâm thời, đình chỉ Hiến pháp và giải tán Quốc hội. Tuy nhiên, ông từ chức chỉ sau một ngày và giao quyền lại cho Abdel Fattah al-Burhan. Ngày 4 tháng 8 năm 2019, đại diện của Hội đồng quân sự chuyển tiếp và Lực lượng Tự do và Thay đổi ký Tuyên bố Hiến pháp mới. Ngày 21 tháng 8 năm 2019, Hội đồng Chủ quyền Chuyển tiếp gồm 11 thành viên thay thế Hội đồng quân sự chuyển tiếp làm nguyên thủ quốc gia tập thể của Sudan và chức vụ thủ tướng được thiết lập như người đứng đầu chính phủ. Năm 2023, Sudan là quốc gia kém dân chủ thứ 6 tại châu Phi.[51] Tháng 4 năm 2025, trước bối cảnh nội chiến Sudan, Lực lượng Hỗ trợ nhanh và những đồng minh thành lập Chính phủ Hòa bình và Đoàn kết tại khu vực dưới quyền kiểm soát của họ.[52][53]
Quan hệ quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Quan hệ ngoại giao của SudanSudan thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, không liên kết; có quan hệ tốt với các nước Đông Âu, Nga, Ả Rập, châu Phi, Iran và Trung Quốc. Trung Quốc có nhiều đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và dầu mỏ tại Sudan.
Mỹ xếp Sudan vào "danh sách các nhà nước khủng bố"; áp đặt luật cấm vận kinh tế hoàn toàn với Sudan ngày 3 tháng 11 năm 1997; lệnh bắt Tổng thống Sudan của Tòa án Hình sự Quốc tế ngày 4 tháng 3 năm 2009 được Mỹ, Pháp, Anh, Đức ủng hộ. Tuy nhiên, ngày 24/11/2017, Mỹ gỡ bỏ cấm vận đối với Sudan.
Sudan là thành viên của Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Phi (AU), Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), quan sát viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...
Sudan có quan hệ đặc biệt với Trung Quốc, là quốc gia đầu tư chính vào công nghiệp dầu khí của Sudan.
Trong lịch sử, Liên Xô đã giữ mối quan hệ mật thiết với Sudan. Nhưng khi Liên Xô tan rã, Tổng thống Nga đầu tiên Boris Nikolayevich Yeltsin đã cáo buộc Sudan "phạm tội ác nhân loại dã man", và ủng hộ trừng phạt Sudan. Đến năm 2000, Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin đã cố thiết lập lại quan hệ, song sự thiếu quan tâm của Nga với Sudan khiến Sudan vẫn nghi kỵ với Nga.
Nhân quyền
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Nhân quyền tại SudanTừ năm 1983, gần hai triệu người Sudan đã thiệt mạng vì nội chiến và nạn đói.[54] Ước tính lên đến 200.000 người bị bắt làm nô lệ trong Nội chiến Sudan thứ hai.[55]
Năm 2005, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã chấp thuận nghị quyết số 1593 đề nghị đưa tình hình ở Darfur ra trước Tòa án Hình sự Quốc tế, họp tại Den Haag, để tìm nguyên nhân và trách nhiệm về những tội ác đã đưa đến cái chết của khoảng 300.000 người và khiến hơn 2 triệu người khác phải thất tán, kể từ năm 2003. Tháng 7 năm 2008, Trưởng ban công tố tòa án Hình sự Quốc tế, còn gọi tắt là ICC, đã trình bày với hội đồng gồm 3 thẩm phán các bằng chứng cáo buộc Tổng thống Bashir về trách nhiệm có liên quan đến 10 cáo trạng về diệt chủng, các tội ác đối với nhân loại và các tội ác chiến tranh, đồng thời yêu cầu tòa công bố trát bắt ông Bashir.[56] Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc Lưu Kiến Siêu nói rằng Bắc Kinh vẫn duy trì quan hệ thân hữu với Sudan và rất lo ngại về các cáo trạng vừa kể và Trung Quốc (là quốc gia đầu tư chính vào công nghiệp dầu khí của Sudan) cũng phủ nhận một bản tin của đài BBC nói rằng Trung Quốc đã vi phạm một lệnh cấm vận vũ khí áp dụng đối với Sudan.[57]
Phân cấp hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]
Sudan được chia làm 17 bang, các bang này lại chia tiếp thành 133 quận.
|
|
|
Ngoài các tiểu bang, còn có các cơ quan hành chính khu vực được thành lập theo thỏa thuận hòa bình giữa chính phủ trung ương và các nhóm nổi dậy.
- Các khu vực Darfur được thành lập theo Hiệp định hòa bình Darfur để hoạt động như một cơ quan điều phối cho các bang tạo nên các khu vực Darfur.
- Hội đồng Điều phối Đông Sudan được thành lập theo Hiệp định hòa bình Đông Sudan giữa Chính phủ Sudan và phiến quân Mặt trận phía Đông để hoạt động như một cơ quan điều phối cho ba tiểu bang phía đông.
- Khu vực Abyei, nằm trên biên giới giữa Nam Sudan và Cộng hòa Sudan, hiện đang có một tình trạng hành chính đặc biệt và được quản lý bởi một cơ quan trong khu vực Abyei. Đó là do cuộc trưng cầu dân ý vào năm 2011 về việc có nên tham gia một Nam Sudan độc lập hoặc vẫn là một phần của nước Cộng hòa Sudan.
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Kinh tế Sudan
Năm 2010, Sudan là nền kinh tế phát triển nhanh thứ 17 trên thế giới[58] chủ yếu dựa trên lợi nhuận dầu mỏ, bất chấp những lệnh trừng phạt quốc tế.[59] Sau khi Nam Sudan ly khai khỏi Sudan,[60] nền kinh tế Sudan rơi vào tình trạng đình lạm, tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống 3,4% vào năm 2014, 3,1% vào năm 2015 và dự kiến giảm xuống 3,7% vào năm 2016, trong khi tỷ lệ lạm phát tăng lên 21.8% tính đến năm 2015[cập nhật].[61] GDP của Sudan giảm từ 123 tỷ đô la Mỹ vào năm 2017 xuống 40,8 tỷ đô la Mỹ vào năm 2018.[62]
Cơ cấu kinh tế của Sudan bị xáo trộn do cuộc nội chiến hoành hành ở miền Nam có đa số người Kitô giáo da đen chống lại sự cai trị của người Hồi giáo ở miền Bắc. Các nước Phương Tây và một số nước Ả Rập ôn hòa đã đình chỉ những khoản trợ giúp, nợ nước ngoài gia tăng chồng chất.
Sản phẩm công nghiệp gồm có: dầu mỏ, bông vải, hàng dệt, xi măng, dầu ăn, đường, xà phòng, giày dép, dầu tinh lọc, dược phẩm, vũ khí, ô tô và xe vận tải nhẹ.
Sản phẩm nông nghiệp gồm có: Bông vải, lúa mì, lúa miến, lạc, kê, vừng, mía, sắn, khoai lang, chuối, xoài, đu đủ, gôm Ả Rập, cừu, gia súc.
Trong năm 2010, Sudan đã được coi là nền kinh tế đứng hàng thứ 17 trong các nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới và sự phát triển nhanh chóng của đất nước chủ yếu từ lợi nhuận dầu ngay cả khi phải đối mặt với các lệnh trừng phạt quốc tế năm 2006. Vì sự ly khai của Nam Sudan, trong đó có hơn 80% giếng dầu của Sudan, dự báo kinh tế cho Sudan vào năm 2011 và xa hơn nữa là không chắc chắn.[63]
Ngay cả với lợi nhuận dầu trước khi sự ly khai của Nam Sudan, Sudan vẫn còn phải đối mặt với các vấn đề kinh tế lớn và sự phát triển của nó vẫn còn chưa chắc chắn. Trong mọi trường hợp, nền kinh tế ở Sudan đã được phát triển từ hơn mười năm qua, và theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới tăng trưởng GDP năm 2010 là 5,2% so với 4,2% năm 2009.[64] Sự tăng trưởng này là duy trì ngay cả trong cuộc khủng hoảng ở Darfur và giai đoạn độc lập tự chủ của Nam Sudan.[65]
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Nhân khẩu SudanDân số
[sửa | sửa mã nguồn]
Trong điều tra dân số của Sudan năm 2008, dân số của miền Bắc, Tây và Đông Sudan được ghi nhận là hơn 30 triệu.[66] Điều này khiến các ước tính hiện tại của dân số Sudan sau khi sự ly khai của Nam Sudan ít hơn 30 triệu người. Đây là một sự gia tăng đáng kể trong hai thập kỷ qua như điều tra dân số năm 1983 đưa tổng dân số của Sudan, bao gồm cả Nam Sudan ngày nay, tại thời điểm lúc đó là 21,6 triệu.[67] Dân số của thành phố Khartoum phát triển nhanh chóng và được ghi nhận là 5,2 triệu.
Mặc dù là một quốc gia có nhiều người dân đi tỵ nạn ở nước khác, nhưng Sudan cũng là nước có người tỵ nạn. Theo khảo sát người tị nạn Thế giới 2008, được xuất bản bởi Ủy ban Hoa Kỳ về người tị nạn và nhập cư, 310.500 người tị nạn sống ở Sudan năm 2007. Phần lớn số này đến từ Eritrea (240.400 người), Chad (45.000), Ethiopia (49.300) và Cộng hòa Trung Phi (2500). Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn trong năm 2007 buộc phải trục xuất ít nhất 1.500 người tị nạn.
Dân tộc
[sửa | sửa mã nguồn]Người Ả Rập ước tính chiếm khoảng 70% dân số Sudan.[68] Những nhóm dân tộc khác là Arabized sống ở khu vực Nubia theo Giáo hội Công giáo Coptic và người Beja.[69]
Sudan hiện có 597 bộ lạc nói hơn 400 ngôn ngữ khác nhau và tiếng địa phương.[70] Người Ả Rập đến nay là nhóm dân tộc lớn nhất ở Sudan. Họ gần như hoàn toàn theo Hồi giáo, trong khi phần lớn nói tiếng Ả Rập Sudan, một số bộ tộc Ả Rập khác nói tiếng địa phương khác nhau như bộ tộc Awadia, Fadnia và Bani Arak nói tiếng Ả Rập Najdi và các bộ lạc Rufa'a, Bani Hassan, Al-Ashraf, Kinanah và Rashaida tiếng Ả Rập Hejazi. Ngoài ra, các bang miền Tây có các nhóm dân tộc khác, trong khi một vài người Bedouin của bang phía bắc Rizeigat.
Người Ả Rập sống ở miền Bắc và miền Đông chủ yếu là những người di cư từ bán đảo Ả Rập và một số người dân bản địa đã có từ trước của Sudan, đặc biệt là những người Nubian, cùng chia sẻ một lịch sử chung với Ai Cập và Beja. Ngoài ra, một vài bộ tộc Ả Rập tiền Hồi giáo tồn tại ở Sudan từ trước đó di cư vào khu vực từ Tây Arabia, mặc dù hầu hết người Ả Rập ở Sudan ngày nay di cư từ sau thế kỷ XII.[71]
Phần lớn các bộ tộc Ả Rập ở Sudan di cư vào Sudan trong thế kỷ XII, họ kết hôn với người dân Nubian và bản địa châu Phi và giới thiệu Hồi giáo đến các dân tộc này.[72]
Chung với nhiều phần còn lại của thế giới Ả Rập, quá trình Ả Rập hóa ở Sudan từ những cuộc di cư Ả Rập sau thế kỷ XII đã dẫn đến sự thống trị của tiếng Ả Rập và các khía cạnh của văn hóa Ả Rập, dẫn đến sự thay đổi lớn của Sudan và đã để lại một bản sắc dân tộc Ả Rập ngày hôm nay. Quá trình này được đẩy mạnh bởi cả hai sự lây lan là Hồi giáo và di cư đến Sudan của phả hệ người Ả Rập từ bán đảo Ả Rập, và hôn nhân của họ với người dân bản địa.
Sudan cũng bao gồm rất nhiều các bộ lạc không nói tiếng Ả Rập, chẳng hạn như Masalit, Zagawa, Fulani, Bắc Nubia, Nuba, và Bija.
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]
| Tôn giáo tại Sudan[73] | ||||
|---|---|---|---|---|
| tôn giáo | tỷ lệ | |||
| Hồi giáo | 97% | |||
| Tín ngưỡng | 1.5% | |||
| Cơ đốc giáo | 1.5% | |||
Có 97% dân số tuân thủ Hồi giáo.[74] Hầu hết là người Hồi giáo Sunni. Một số ít người theo Hồi giáo Shia hoặc Sufism. Ngoài ra còn có Giáo hội Công giáo Coptic và Chính Thống giáo Hy Lạp ở Khartoum và các thành phố khác ở phía Bắc.
Ngoài ra còn có các cộng đồng Chính Thống giáo Ethiopia và Eritrea ở Khartoum và phía tây Sudan, phần lớn là những người tị nạn và người di cư từ vài thập kỷ qua. Nhóm Kitô giáo khác nhỏ hơn trong nước bao gồm Giáo hội Công giáo Phi châu bản địa, Giáo hội Tông Đồ Armenia, Giáo hội Sudan của Chúa Kitô, Giáo hội Nội vụ Sudan, Nhân chứng Jehovah, Phong trào Ngũ Tuần, Tin Lành phái Presbyterian Church (ở miền Bắc). Tôn giáo đóng một vai trò trong việc chia rẽ chính trị của đất nước. Hồi giáo đã thống trị hệ thống chính trị và kinh tế của đất nước kể từ khi độc lập.
Giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Giáo dục ở SudanGiáo dục phổ cập bắt buộc và miễn phí 6 năm, tuy nhiên vẫn chưa thực hiện được (do nội chiến và thiếu thốn phương tiện). Ở miền Bắc và miền Trung, chỉ có khoảng 1/2 số trẻ em đến tuổi được đến trường. 3/4 khu vực có trường tiểu học và 1/5 khu vực có trường trung học. Sudan có một trường đại học ở thủ đô Khartoum.
Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Văn hóa SudanGhi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ [6][7][8][9][10]
- ^ tiếng Anh: /suːˈdɑːn/ ⓘ soo-DAHN or /suːˈdæn/ soo-DAN; tiếng Ả Rập: السودان, đã Latinh hoá: Sūdān
- ^ tiếng Ả Rập: جمهورية السودان, đã Latinh hoá: Jumhūriyyat as-Sūdān
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b "People and Society CIA world factbook". ngày 10 tháng 5 năm 2022.
- ^ "Beja". Ethnologue. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
- ^ "The Nuba people". ngày 3 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Fur". Ethnologue. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2023.
- ^ "الجهاز المركزي للتعبئة العامة والإحصاء" (PDF).
- ^ "Nobiin". Ethnologue. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Dongolawi". Ethnologue. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Midob". Ethnologue. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Ghulfan". Ethnologue. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Kadaru". Ethnologue (Free All). Ethnologue. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Demographics and Ethnic Groups of Sudan". Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2023.
- ^ "Sudan Overview". www.sd.undp.org. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Sudan". Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Islam in Sudan". Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Religion in Sudan". Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2025.
- ^ Gavin, Michelle (ngày 8 tháng 4 năm 2022). "Junta and Public at Odds in Sudan". Council on Foreign Relations. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2023.
- ^ Jeffrey, Jack (ngày 23 tháng 10 năm 2022). "Analysis: Year post-coup, cracks in Sudan's military junta". Associated Press. Cairo, Egypt. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2023.
- ^ "Sudan". The World Factbook (ấn bản thứ 2025). Cơ quan Tình báo Trung ương. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2022. (Archived 2022 edition.)
- ^ a b c d "World Economic Outlook Database, April 2025" (bằng tiếng Anh).
- ^ "Gini Index". Ngân hàng Thế giới. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.
- ^ "Human Development Report 2025" (PDF). Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc. ngày 6 tháng 5 năm 2025. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2025.
- ^ "Omar al-Bashir Fast Facts". CNN. ngày 10 tháng 12 năm 2012.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên sudan.gov.sd
- ^ "World Bank Open Data". World Bank Open Data. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2024.
- ^ "Factbox – Sudan's President Omar Hassan al-Bashir". Reuters. ngày 14 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
- ^ Bekele, Yilma (ngày 12 tháng 7 năm 2008). "Chickens Are Coming Home To Roost!". Ethiopian Review. Addis Ababa. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2011.
- ^ Kepel, Gilles (2002). Jihad: The Trail of Political Islam. Harvard University Press. tr. 181. ISBN 978-0-674-01090-1.
- ^ "Coup attempt fails in Sudan – state media". BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2021.
- ^ The New York Times. 16 March 1996. p. 4.
- ^ "History of the Sudan". HistoryWorld. ngày 24 tháng 12 năm 2025. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2011.
- ^ Shahzad, Syed Saleem (ngày 23 tháng 2 năm 2002). "Bin Laden Uses Iraq To Plot New Attacks". Asia Times. Hong Kong. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2011.
- ^ "Families of USS Cole Victims Sue Sudan for $105 Million". Fox News Channel. Associated Press. ngày 13 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2011.
- ^ Fuller, Graham E. (2004). The Future of Political Islam. Palgrave Macmillan. tr. 111. ISBN 978-1-4039-6556-1.
- ^ Wright, Lawrence (2006). The Looming Tower. Knopf Doubleday Publishing Group. tr. 221–223. ISBN 978-0-307-26608-8.
- ^ Sudan Referendum theo CS Monitor
- ^ "South Sudan backs independence - results" theo BBC
- ^ "Darfur - overview". UNICEF Children’s Rights & Emergency Relief Organization. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ Wadhams, Nick; Gebre, Samuel (ngày 6 tháng 10 năm 2017). "Trump Moves to Lift Most Sudan Sanctions". Bloomberg Politics. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
- ^ "Coup attempt fails in Sudan – state media". BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2021.
- ^ Nima Elbagir and Yasir Abdullah (ngày 21 tháng 9 năm 2021). "Sudan foils coup attempt and 40 officers arrested, senior officials say". CNN. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2021.
- ^ "Sudan's civilian leaders arrested – reports". www.msn.com.
- ^ "Sudan Officials Detained, Communication Lines Cut in Apparent Military Coup". Bloomberg.com (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 10 năm 2021.
- ^ "Sudan's civilian leaders arrested amid coup reports". BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 10 năm 2021.
- ^ Magdy, Samy. "Gov't officials detained, phones down in possible Sudan coup". ABC News (bằng tiếng Anh).
- ^ "Sudan army chief names new governing Sovereign Council". Al Jazeera. ngày 11 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2023.
- ^ "Sudan PM Abdalla Hamdok resigns after deadly protest". www.aljazeera.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Sudan's Burhan forms caretaker government". sudantribune.com. ngày 20 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2022.
- ^ "Acting Council of Ministers Approves General Budget for Year 2022". MSN. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Bachelet, Michelle (ngày 7 tháng 3 năm 2022). "Oral update on the situation of human rights in the Sudan – Statement by United Nations High Commissioner for Human Rights". ReliefWeb/ 49th Session of the UN Human Rights Council (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022.
- ^ Associated Press (ngày 18 tháng 3 năm 2022). "Sudan group says 187 wounded in latest anti-coup protests". ABC News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022.
- ^ V-Dem Institute (2023). "The V-Dem Dataset". Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
- ^ "Sudan's militia backed factions agree to form parallel govts". Capital News (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Sudan crisis: RSF paramilitaries declare rival government". www.bbc.com (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2025.
- ^ U.S. Committee for Refugees (tháng 4 năm 2001). "Sudan: Nearly 2 Million Dead as a Result of the World's Longest Running Civil War". Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2004.
- ^ "CSI highlights 'slavery and manifestations of racism'". The New Humanitarian. ngày 7 tháng 9 năm 2001.
- ^ 15 tháng 7 năm 2008-voa10.cfm Sudan bác bỏ cáo buộc diệt chủng nhắm vào ông Bashir, VOA 15/07/2008
- ^ 15 tháng 7 năm 2008-voa20.cfm Trung Quốc lo ngại về các cáo trạng của ICC nhắm vào TT Sudan, VOA 15/07/2008
- ^ "Economy". Government of South Sudan. ngày 20 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011.
- ^ Gettleman, Jeffrey (ngày 24 tháng 10 năm 2006). "Sudanese civil war? Not Where the Oil Wealth Flows". The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ "Sudan Economic Outlook". African Development Bank. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2013.
- ^ "Sudan Economic Outlook". African Development Bank. ngày 29 tháng 3 năm 2019.
- ^ "GDP (current US$) – Sudan | Data". data.worldbank.org.
- ^ "Log In". Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ U.S. Central Intelligence Agency. ISSN 1553-8133. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
- ^ "South Sudan gets ready for independence". Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ "Southerners dismiss Sudan pre-poll census count". Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ "Sudan". Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ "CIA Site Redirect — Central Intelligence Agency". Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ http://www.sudanupdate.org/REPORTS/PEOPLES/COPTS.HTM
- ^ Bechtold, Peter R. (1991). Voll, John, ed. More Turbulence in Sudan in Sudan: State and Society in Crisis. Boulder, CA: Westview Press. p. 1.
- ^ Almshaheer.com. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2013.
- ^ "Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland". Google Books. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- ^ "The World Factbook". cia.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.
- ^ "Bản sao đã lưu trữ". Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2013.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]Sách
[sửa | sửa mã nguồn]- Churchill, Winston (1899; 2000). The River War — An Historical Account of the Reconquest of the Soudan. Carroll & Graf Publishers (New York City). ISBN 978-0-7867-0751-5.
- Clammer, Paul (2005). Sudan — The Bradt Travel Guide. Bradt Travel Guides (Chalfont St. Peter); Globe Pequot Press. (Guilford, Connecticut). ISBN 978-1-84162-114-2.
- Evans-Pritchard, Blake; Polese, Violetta (2008). Sudan — The City Trail Guide. City Trail Publishing. ISBN 978-0-9559274-0-9.
- Fadlalla, Mohamed H. (2005). The Problem of Dar Fur, iUniverse (New York City). ISBN 978-0-595-36502-9.
- Fadlalla, Mohamed H. (2004). Short History Of Sudan. iUniverse (New York City). ISBN 978-0-595-31425-6.
- Fadlalla, Mohamed H. (2007). UN Intervention in Dar Fur, iUniverse (New York City). ISBN 978-0-595-42979-0.
- Jok, Jok Madut (2007). Sudan — Race, Religion and Violence. Oneworld Publications (Oxford). ISBN 978-1-85168-366-6.
- Mwakikagile, Godfrey (2001). Slavery in Mauritania and Sudan — The State Against Blacks, in The Modern African State — Quest for Transformation. Nova Science Publishers (Huntington, New York). ISBN 978-1-56072-936-5.
- O'Fahey, Rex Seán; Spauling, Jay Lloyd (1974). Kingdoms of the Sudan. Methuen Publishing (Luân Đôn). ISBN 978-0-416-77450-4. Covers Sennar và Darfur.
- Peterson, Scott (2001). Me Against My Brother — At War in Somalia, Sudan and Rwanda — A Journalist Reports from the Battlefields of Africa. Routledge (Luân Đôn; New York City). ISBN 978-0-203-90290-5.
- Prunier, Gérard (2005). Darfur — The Ambiguous Genocide. Cornell University Press (Ithaca, New York). ISBN 978-0-8014-4450-0.
- Welsby, Derek A. (2002). The Medieval Kingdoms of Nubia — Pagans, Christians and Muslims Along the Middle Nile. British Museum Press (Luân Đôn). ISBN 978-0-7141-1947-2.
- Zilfū, ʻIṣmat Ḥasan (translation: Clark, Peter) (1980). Karari — The Sudanese Account of the Battle of Omdurman. Frederick Warne & Co (Luân Đôn). ISBN 978-0-7232-2677-2.
Bài viết
[sửa | sửa mã nguồn]- "Quo Vadis bilad as-Sudan? The Contemporary Framework for a National Interim Constitution". Law in Africa (Köln; 2005). Vol. 8, pp. 63–82. ISSN 1435-0963.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]| Tìm hiểu thêm vềSudantại các dự án liên quan | |
| Từ điển từ Wiktionary | |
| Tập tin phương tiện từ Commons | |
| Tin tức từ Wikinews | |
| Danh ngôn từ Wikiquote | |
| Văn kiện từ Wikisource | |
| Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks | |
| Tài nguyên học tập từ Wikiversity | |
- Chính quyền Sudan Lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2012 tại archive.today(trang chính thức)
- President of Sudan Lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011 tại Wayback Machine
- Sudan trên DMOZ
Wikimedia Atlas của Sudan
Dữ liệu địa lý liên quan đến Sudan tại OpenStreetMap
- Mục “Sudan” trên trang của CIA World Factbook.
| ||
|---|---|---|
| Quốc gia có chủ quyền |
| |
| Bộ phận củaquốc gia có chủ quyền |
| |
| Quốc gia được công nhận hạn chế |
| |
| Lãnh thổ phụ thuộc |
| |
| Chủ quyền không rõ |
| |
| |
|---|---|
| Thành viên | Ai Cập · Algérie · Ả Rập Xê Út · Bahrain · Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất · Comoros · Djibouti · Iraq · Jordan · Kuwait · Liban · Libya · Maroc · Mauritanie · Oman · Palestine · Qatar · Sudan · Somalia · Syria · Tunisia · Yemen |
| Quan sát viên | Ấn Độ · Eritrea · Venezuela |
| |
|---|---|
| Ai Cập · Algérie · Angola · Bénin · Botswana · Bờ Biển Ngà · Burkina Faso · Burundi · Cameroon · Cabo Verde · Tchad · Comoros · Cộng hòa Congo · Cộng hòa Dân chủ Congo · Cộng hòa Trung Phi · Djibouti · Eritrea · Ethiopia · Eswatini · Gabon · Gambia · Ghana · Guinée · Guiné-Bissau · Guinea Xích Đạo · Kenya · Lesotho · Liberia · Libya · Madagascar · Malawi · Mali · Mauritanie · Mauritius · Mozambique · Namibia · Niger · Nigeria · Cộng hòa Nam Phi · Rwanda · São Tomé và Príncipe · Sénégal · Seychelles · Sierra Leone · Somalia · Sudan · Tanzania · Tây Sahara · Togo · Tunisia · Uganda · Zambia · Zimbabwe |
| |||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Thành viên | Afghanistan • Albania • Algérie • Azerbaijan • Bahrain • Bangladesh • Bénin • Burkina Faso • Brunei • Cameroon • Tchad • Comoros • Bờ Biển Ngà • Djibouti • Ai Cập • Gabon • Gambia • Guinée • Guiné-Bissau • Guyana • Indonesia • Iran • Iraq • Jordan • Kuwait • Kazakhstan • Kyrgyzstan • Liban • Libya • Maldives • Malaysia • Mali • Maroc • Mauritanie • Mozambique • Niger • Nigeria • Oman • Pakistan • Palestine • Qatar • Ả Rập Xê Út • Sénégal • Sierra Leone • Somalia • Sudan • Suriname • Syria • Tajikistan • Thổ Nhĩ Kỳ • Tunisia • Togo • Turkmenistan • Uganda • Uzbekistan • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất • Yemen | ||||||
| Quan sát viên |
| ||||||
| Cơ sở dữ liệu tiêu đề chuẩn | |
|---|---|
| Quốc tế |
|
| Quốc gia |
|
| Địa lý |
|
| Nghệ sĩ |
|
| Nhân vật |
|
| Khác |
|
Từ khóa » Thông Tin Về Nam Xu đăng
-
Nam Sudan – Wikipedia Tiếng Việt
-
Nam Sudan - Tin Tức Mới Nhất 24h Qua - VnExpress
-
Tin Tức Mới Nhất Về Sudan
-
Nam Sudan - Wikivoyage
-
Xu-đăng - Detail
-
Thương Vụ Việt Nam Tại Ai Cập (kiêm Nhiệm Xu-đăng, Nam Xu-đăng ...
-
Xu-đăng (Sudan) | Hồ Sơ - Sự Kiện - Nhân Chứng
-
Nam Sudan - Báo Tuổi Trẻ
-
- TÀI LIỆU CƠ BẢN VỀ NƯỚC CỘNG HÒA XU-ĐĂNG
-
Theo Chân Nguyễn Á: “Hành Trình Từ Nam Xu-đăng đến Trái Tim Khán ...
-
Trung Tâm Gìn Giữ Hòa Bình Việt Nam: Cổng Thông Tin điện Tử
-
Khám Phá Những Khung Hình đẹp Về Người Lính Mũ Nồi Xanh Của ...
-
Triển Lãm ảnh Nghệ Thuật Chủ đề “Hành Trình Cùng Lực Lượng Giữ Gìn ...
-
Nữ Quân Nhân Việt Nam ở Nam Sudan