Tác động Của đô Thị Hóa đến Chênh Lệch Giàu Nghèo ở Việt Nam

Đô thị hóa và quá trình phát triển đô thị là xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có nước ta. Đô thị hóa có các tác động không nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực. Dưới tác động đô thị hóa, tâm lý và lối sống của người dân thay đổi. Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư. Các đô thị không chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà còn là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, đô thị hóa làm sản xuất ở nông thôn bị đình trệ do lao động chuyển đến thành phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cho cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường sống, an ninh xã hội không đảm bảo, các tệ nạn xã hội ví dụ như thiếu việc làm sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã hội.

Một trong những vấn đề xã hội nảy sinh từ vấn đề đô thị hóa là chênh lệch thu nhập, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng. Sự phân hóa này có thể thấy rõ giữa các khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm thu nhập trong xã hội, giữa các vùng kinh tế, giữa các địa phương,… số người giàu đang giàu lên nhanh và là nhóm người thiểu số sở hữu nhiều của cải, vật chất trong xã hội. Sự chênh lệch giàu nghèo sẽ dẫn tới sự bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ đô thị như nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, cấp điện, môi trường.

Đô thị hóa ở nước ta mang những đặc điểm cơ bản như:

(1) Đô thị hóa gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Một mặt quá trình công nghiệp hóa là tiền đề cho sự hình thành đô thị hóa khi gia tăng về số lượng và quy mô các cơ sở sản xuất. Mặt khác, hệ thống đô thị được hình thành cùng với sự hình thành phát triển về cơ sở vật chất, kỹ thuật, hạ tầng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa phát triển, mở rộng quy mô và hình thành mới các khu công nghiệp. Năm 2011, nước ta có 260 khu công nghiệp với tổng diện tích là 72 nghìn ha tăng lên 335 khu công nghiệp trong năm 2020 với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 97,8 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp là 66,1 nghìn ha;

(2) Đô thị hóa diễn ra không đồng đều tại các vùng miền, địa phương và chủ yếu là các đô thị vừa và nhỏ. Năm 2010, có 772 đô thị tăng lên 862 đô thị trong năm 2020, trong đó có 2 đô thị đặc biệt tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 23 đô thị loại I, 32 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 90 đô thị loại IV và 668 đô thị loại V chủ yếu là các thị xã thuộc tỉnh hoặc thị trấn. Tỷ lệ đô thị hóa năm 2020 lên 39,3%, tăng hơn 9% so với năm 2010;

(3) Mật độ dân số ở các đô thị lớn tăng cao trong quá trình đô thị hóa. Song song với sự gia tăng về số lượng đô thị là sự gia tăng về dân số ở khu vực thành thị, đặc biệt tại các khu đô thị lớn. Năm 2020, dân số của nước ta là  97,58 triệu người, trong đó dân số thành thị là 35,93 triệu người, chiếm 36,82% tổng dân số, tăng 6% so với năm 2010. Dân số thành thị tăng chủ yếu do tác động của di cư từ khu vực nông thôn sang khu vực thành thị chủ yếu để học tập và làm việc và chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 15-39 tuổi chiếm tỷ lệ 84%. Theo số liệu công bố trong Niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục thống kê, Vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là 2 vùng có tỷ lệ di cư thuần cao nhất cả nước tương ứng là 3‰  và 18,7‰ vào năm 2020, đặc biệt là 1 số địa phương là trung tâm kinh tế như Hà Nội 3,7‰, thành phố Hồ Chí Minh 18‰ và một số địa phương tập trung các khu công nghiệp lớn như Bắc Ninh 35,8‰; Bình Dương 58,6‰; Đồng Nai 8,2‰; Bà Rịa – Vũng Tàu 3,2‰.

Công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh chóng trong một thời gian ngắn đã có những đóng góp không nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế của cả nước, tuy nhiên một mặt cũng làm cho sự phân hóa giàu nghèo diễn ra giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt là người dân sống tại khu vực nông thôn, địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh do: Mất đi kế sinh nhai của người dân chủ yếu làm nông nghiệp khi trình độ không đáp ứng được nhu cầu làm việc tại các khu công nghiệp do chưa được đào tạo kịp thời, tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp.

 

Bất bình đẳng trong thu nhập còn được thể hiện qua khoảng cách về thu nhập giữa giữa các nhóm thu nhập, đặc biệt là nhóm người nghèo nhất (nhóm 1) và nhóm người giàu nhất (nhóm 5). Trong giai đoạn 2010-2020, thu nhập của tất cả các nhóm dân cư đều tăng, khoảng cách về thu nhập giữa nhóm 1 và nhóm 5 tăng từ 9,2 lần năm 2010 tăng lên 10,2 lần năm 2019, năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh đã làm ảnh hưởng không nhở tới thu nhập của người làm công, ăn lượng và do tác động của một số chính sách hỗ trợ thiếu đói trong người dân do ảnh hưởng dịch bệnh nên mức chênh lệch này giảm còn 8,1 lần. Chênh lệch giàu nghèo nhìn rõ hơn trên góc độ chênh lệch về giá trị tuyệt đối giữa các nhóm thu nhập, năm 2010 chênh lệch giữa nhóm thu nhập thấp nhất (nhóm 1) và thu nhập cao nhất (nhóm 5) là 3 triệu đồng, đến năm 2019 chênh lệch này tăng lên gấp 3 lần năm 2010 là 9,1 triệu đồng, năm 2020 mức chênh lệch này tuy có giảm nhưng khoảng cách vẫn lớn ở mức gần 8,1 triệu đồng.

Như vậy, đô thị hóa đã có những đóng góp lớn cho phát triển kinh tế khi khu vực đô thị trong những năm qua đã thể hiện rõ vai trò là đầu tàu phát triển kinh tế – xã hội của các vùng và cả nước, đóng góp phần lớn vào tốc độ tăng GDP, chiếm tỷ trọng chi phối trong thu ngân sách nhà nước, xuất khẩu và sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng cũng kéo theo những mặt hạn chế tác động chưa tốt đến một số vấn đề xã hội, đòi hỏi các cấp, ngành địa phương cần có những giải pháp tổng thể, kịp thời để đáp ứng được quá trình đô thị hóa, đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo giữ vững ổn định và công bằng xã hội.

Từ khóa » Giàu Nghèo ở Việt Nam