TÀI LIỆU THAM KHẢO LỊCH Sử ĐẢNG Kết LUẬN Của Bộ CHÍNH TRỊ ...
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Cao đẳng - Đại học >>
- Khoa học xã hội
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.93 KB, 34 trang )
“Kết luận của Bộ Chính trị đối với một số vấn đề thuộc vềquan điểm kinh tế (tháng 8- 1986)- Nội dung và ý nghĩa”MỞ ĐẦUThắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là mốc son đánh dấuviệc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụlịch sử, giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà. Tuy nhiên trải qua hơn 10 nămđất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế đất nước rơi vàotrì trệ, khủng hoảng. Lúc này một yêu cầu cấp bách đặt ra là Đảng cần phải thựchiện đổi mới tư duy, xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liên bao cấp đãkhông còn phù hợp, xây dựng một cơ chế quản lý kinh tế mới, đưa đất nước thoátkhỏi khó khăn.Với tinh thần thẳng thắn và cởi mở, từ ngày 25 đến ngày 30-8-1986, cácđồng chí Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận, đi tới nhất trí về một số vấn đềquan trọng thuộc quan điểm kinh tế. Trong cuộc họp này, Bộ Chính trị chỉ tập trungthảo luận một số vấn đề quan trọng nhất về quan điểm kinh tế, nhằm làm rõ mộtbước tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội nóichung và lãnh đạo kinh tế nói riêng.Kết luận của Bộ Chính trị là cơ sở để đổi mới và hoàn chỉnh dự thảo Báo cáoChính trị trình đại hội Đảng VI, là căn cứ giải quyết những vấn đề cấp bách trướcmắt, đồng thời là sự đổi mới tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,mở đường đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. “Đây là bước độtphá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, có vaitrò định hướng cho việc soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trịtrình Đại hội VI của Đảng”.1NỘI DUNG1. Bối cảnh lịch sử diễn ra Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 8 năm 1986)1.1. Bối cảnh quốc tếSau chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế cay cú vìthua đau ở Việt Nam, chúng cấu kết nhau lại bao vây, cô lập Việt Nam. Đế quốc1Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-1996), NXBchính trị quóc gia, Hà Nội, 2005, tr 481Mỹ xiết chặt cấm vận về kinh tế bắt đầu từ tháng 5-1975 và lôi kéo các nước cắtviện trợ kinh tế cho Việt Nam.Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ranhững biến đổi to lớn. Trước âm mưu “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc,trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ,cùng với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, quá trình chạy đua kinh tế, cuộcđấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản có nhiều diễn biến phức tạp.Điều đó đã đặt hệ thống xã hội chủ nghĩa trước những thách thức mới. Việc vượtqua những thách thức đó diễn ra trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa lâm vàotình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong khi đó các nước tư bảnchủ nghĩa tuy cũng phải đối phó với những nguy cơ mới, nhưng do sự điều chỉnhcần thiết, đặc biệt là sử dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - kỹthuật và công nghệ hiện đại nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế có bướctăng trưởng đáng kể.Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, Trung Quốc đã thực hiện cải cách mởcửa; Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiến hành cải tổ, cải cách.Trong khi Trung Quốc có sự vượt lên mạnh mẽ thì những sai lầm về đường lối vàcách làm đã khiến công cuộc cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩaĐông Âu ngày càng khó khăn, sự khủng hoảng toàn diện dần dần xuất hiện ở cácnước này.Công cuộc cải tổ, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa có nhiều tác động sâusắc đến nước ta.1.2. Bối cảnh trong nướcỞ Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnhthuận lợi và những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước,chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới đó là:Thuận lợi: Đất nước thống nhất, hoà bình, có điều kiện phát huy trí tuệ toànĐảng, toàn dân vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; nhân dân cả nước phấnkhởi, tự hào, tin tưởng vào Đảng và sự nghiệp đất nước. Những kinh nghiệm vàthành quả của gần 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như một sốyếu tố thuận lợi về kinh tế, ở miền Nam là vốn liếng quan trọng cho sự nghiệp cách2mạng xã hội chủ nghĩa cả nước. Sự giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè quốc tế cómột vị trí quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.Khó khăn: Điểm xuất phát của cả nước, quan hệ sản xuất lạc hậu. Hậu quả30 năm chiến tranh kéo dài tàn phá đất nước nặng nề; riêng miền Nam sau 21 nămsống dưới ách chủ nghĩa thực dân kiểu mới nạn thất nghiệp, các tệ nạn xã hội, mộtsố người di tản, vượt biên giới trái phép tạo nên tình hình căng thẳng. Nước ta lại bịcác thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giớiphía Bắc xảy ra…Ta chưa đánh giá hết những khó khăn đó, còn tư tưởng chủ quan, say sưa vớithắng lợi, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn,việc bố trí cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóatập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình kinh tế - xã hộirơi vào trì trệ, khủng hoảng.Để đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định làphải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Cuối những năm 70, ở một sốđịa phương bắt đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra nhữnglời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước đầuđạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó, Đảng và nhân dân ta càng nhậnthấy sự cần thiết phải đổi mới, trước hết là đổi mới tuy duy, đổi mới cách làm nhằmxây dựng xã hội chủ nghĩa một cách có hiệu quả hơn.1.3 Quá trình Đảng ta tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới trước Hộinghị Bộ Chính trị (tháng 8 năm 1986)Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong việc quyết định đường lốicách mạng cho giai đoạn mới. Đảng ta tiến hành Đại hội vào tháng 12/1976, tại Đạihội này, bên cạnh việc tổng kết tương đối toàn diện cuộc cách mạng dân tộc dânchủ nhân dân trong cả nước và 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Báocáo chính trị của Ban chấp hành trung ương đã tổng kết quá trình đấu tranh giankhổ và anh hùng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiếnchống Mỹ, cứu nước. Đại hội cũng đã xác định đường lối chung của cách mạng xãhội chủ nghĩa Việt Nam.Triển khai nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Ban Chấp hànhTrung ương Đảng đã có nhiều hội nghị chuyên bàn về kinh tế, một trong những vấn3đề quan trọng bậc nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuynhiên do ta chủ quan nóng vội nên kinh tế của đất nước lâm vào tình trạng cực kỳkhó khăn; đời sống nhân dân, nhất là người làm công ăn lương ngày càng trở thànhvấn đề nóng bỏng.Trước thực tế đó, Hội nghị Trung ương sáu khoá IV (8/1979) đã họp có tráchnhiệm lịch sử hết sức nặng nề là đề ra phương hướng và giải pháp khắc phục nhữngkhó khăn gay gắt của đời sống kinh tế - xã hội; tìm kiếm một lối thoát đưa nền kinhtế ra khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Hội nghị đã thông qua hai nghị quyết:Nghị quyết số 20-NQ/TW về tình hình và nhiệm vụ cấp bách và Nghị quyết số 21NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng vàcông nghiệp địa phương.“Có thể coi Hội nghị Trung ương sáu (Khoá IV) với chủ trương và quyếttâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ởnước ta”1. “Làm cho sản xuất bung ra” nghĩa là phải khắc phục những yếu kémtrong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, đề ra chủ trương phù hợp để pháttriển lực lượng sản xuất. Những chủ trương đó đã nhanh chóng được nhân dân cảnước hồ hởi đón nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế.Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và TâyNam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian đểnhững chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, trong khi đó, nhiều chỉ tiêu cơ bản doĐại hội IV đưa ra là quá cao so với thực tế nên không thực hiện được. Nền kinh tếtiếp tục ở trạng thái trì trệ, sa sút; đời sống nhân dân có nhiều khó khăn. Vấn đề bứcxúc phải giải đáp là làm thế nào để đưa đất nước thoát khỏi trạng thái trì trệ và sựgiảm sút kinh tế đang ở mức “dưới đáy” trong lúc này.Tiếp đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám khoá V (tháng6/1985) được coi là “bước đột phá thứ hai” về tư duy lý luận trên lĩnh vực lưuthông, phân phối với nét nổi bật là thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luậtcủa sản xuất hàng hoá. Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền đượcthực hiện. Tuy nhiên, do vẫn còn tư tưởng chủ quan duy ý chí, cuộc tổng điềuchỉnh này đã làm cho “giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng1Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006),NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 2005, tr.394không tốt đến nhiều mặt hoạt động kinh tế - xã hội”. Lạm phát bị đẩy lên tốc độ phimã. Sự chênh lệch giữa giá và lương, giữa lương danh nghĩa và lương thực tế quálớn. Chính vì vậy, đầu năm 1986, lại phải lùi một bước: thực hiện chính sách haigiá. Trên mặt trận phân phối, lưu thông: lạm phát vẫn đứng ở mức 3 con số trongnhiều năm, đỉnh cao là 774,7% năm 1986. Lượng lưu thông tiền tệ năm 1994 bằng8,4 lần cuối năm 1980. Nhiều vấn đề nóng bỏng chưa giải quyết được, có mặt ngàycàng trầm trọng thêm.Cuối năm 1985, mọi công việc chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lầnthứ VI được tiến hành rất khẩn trương. Trước tình hình kinh tế- xã hội đất nước gặpnhiều khó khăn, tháng 7 năm 1986 sau khi tổng hợp sơ bộ ý kiến đóng góp của đạihội đảng bộ các cấp vòng một, Bộ Chính trị nhận thấy dự thảo báo cáo chính trị lầnđầu đưa ra lấy ý kiến chưa đáp ứng yêu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vìvậy, Bộ Chính trị chỉ đạo Tiểu ban chuẩn bị văn kiện đại hội tập trung nghiên cứunhững quan điểm kinh tế quan trọng nhất, có ý nghĩa chỉ đạo xây dựng nền kinh tếnước ta, đối chiếu, so sánh và phân tích những điểm khác nhau để Bộ Chính trịnghiên cứu, thảo luận làm rõ đúng sai và có kết luận, lấy đó làm cơ sở để điềuchỉnh Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI.Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, từ ngày 1 tháng 8 năm 1986, BáoNhân dân mở mục “góp ý kiến với Đại hội Đảng”. Đây là hình thức sinh hoạt dânchủ chính trị đầu tiên, thể hiện sự đổi mới về phong cách lãnh đạo của Đảng. Chỉtrong một thời gian ngắn, báo Đảng đã nhận được hàng vạn ý kiến đông đảo củacác tầng lớp nhân dân, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đóng góp vàodự thảo Văn kiện Đại hội VI.Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến đóng góp của Đại hội Đảng bộ các cấp vòngmột và của nhân dân cả nước, Tiểu ban dự thảo Văn kiện Đại hội VI đã chốt 3 vấnđề đang còn có ý kiến khác nhau để trình Bộ Chính trị kết luận, đó là: Cơ cấu sảnxuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế.Từ ngày 25 đến 30 thánh 8 năm 1986, Hội nghị Bộ Chính trị và Ban Bí thưđã thảo luận kỹ các vấn đề trên và đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc vềquan điểm kinh tế”2. Nội dung kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 8 năm 1986) vềmột số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế5Cuộc họp của Hội nghị Bộ Chính trị diễn ra từ ngày 5 đến ngày 30 tháng 8năm 1986. Với tinh thần thẳng thắn và cởi mở, các đồng chí trong Bộ Chính trị vàBan Bí thư đã thảo luận, đi tới nhất trí về một số vấn đề quan trọng sau:2.1 Về cơ cấu kinh tếThứ nhất, Hội nghị chỉ rõ: chỉ có một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới có thểphát triển ổn định. Bố trí đúng cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu sản xuất và đầu tưlà những vấn đề quan trọng đầu tiên của đường lối kinh tế, có ý nghĩa quyết địnhđối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong mỗi chặng đường.Trong Kết luận, Đảng ta xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm củacả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kết hợp chặt chẽ sự phát triển của nôngnghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, từng bước tiến lên xây dựng cơ cấucông - nông nghiệp hợp lý, hiện đại, trong đó công nghiệp và nông nghiệp gắn liềnvới nhau và cùng phát triển. Trong đó, công nghiệp nặng có khả năng vừa dựa vàosức mình, vừa sử dụng có hiệu quả sự phân công, hợp tác quốc tế, nhất là trongkhối SEV, để trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân.Hội nghị yêu cầu việc Việt Nam “từ một nền sản xuất nhỏ đi lên phải xácđịnh đúng bước đi của công nghiệp hoá cho phù hợp với mục tiêu và khả năng củamỗi chặng đường. Phải bố trí đúng cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, xác định đúng vịtrí, nội dung và mức độ phát triển của các ngành kinh tế, kết hợp đúng đắn giữaphát triển công nghiệp và nông nghiệp ngay trong từng bước, nhằm đạt các mụctiêu đề ra với hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất”.1Thứ hai, Hội nghị thẳng thắn thừa nhận trong hơn mười năm (từ 1976- 1986)Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, bố tríđầu tư. Vì vậy, những mục tiêu do Đại hội lần thứ V xác định đã không thực hiệnđược. Chúng ta muốn đi nhanh nhưng thực tế đã đi đường vòng, gây thêm chomình những khó khăn lớn và lãng phí thời gian, làm cho chặng đường đầu tiên bịkéo dài.Bên cạnh đó, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn vềquy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Trên thực tế,đã quá thiên về xây dựng công nghiệp nặng, ham làm nhanh, làm nhiều công trình1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 221.6lớn, không tập trung sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không coitrọng đúng mức việc khôi phục và tổ chức lại sản xuất công nghiệp, không khuyếnkhích và hướng dẫn tiểu thủ công nghiệp phát triển đúng hướng, không tăng cườngđúng mức hệ thống kết cấu hạ tầng. Điều đó làm cho đầu tư nhiều nhưng hiệu quảrất thấp. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gầnnhư dẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừngtăng lên, tình hình kinh tế - xã hội ngày càng không ổn định.Trên cơ sở chỉ rõ những sai lầm ấy, Hội nghị đã xác định lại bước đi củacông nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Tại Đại hội lầnthứ V của Đảng đã chủ trương trong 5 năm 1981-1985 phải vừa phát triển vừa sắpxếp lại sản xuất, bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng, nâng caohiệu quả đầu tư, nhằm vào mục tiêu ổn định tình hình kinh tế, xã hội, ổn định đờisống nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hoá trong những năm sau.Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục phạm sai lầm, chưa kiên quyết bố trí sản xuất,bố trí đầu tư và xây dựng theo đúng chủ trương của Đại hội lần thứ V.Việc sắp xếp lại các cơ sở sản xuất công nghiệp để khắc phục sự chồng chéo,bất hợp lý, để có thể tập trung nguồn năng lượng, nguyên liệu, vật tư có hạn vàonhững cơ sở được lựa chọn nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản xuất hiện có, hầunhư không được thực hiện.Trong xây dựng cơ bản Hội nghị nêu rõ: tuy đã đình, hoãn một số công trìnhtương đối lớn, tập trung hơn cho các công trình trọng điểm, nhưng về căn bản, vẫnchưa điều chỉnh lại toàn bộ lĩnh vực này cho hợp lý; còn do dự, không quyết tâmtrong việc đình, hoãn những công trình chưa thật cấp bách và kém hiệu quả. Việcxây dựng, nhất là xây dựng công nghiệp, vẫn phân tán, kéo dài, không đồng bộ.Mấy năm gần đây, các ngành, các địa phương còn mở rộng xây dựng quá nhiềucông trình làm cho việc xây dựng càng thêm phân tán. Tình hình trên đây khiếnchúng ta không tập trung được đủ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và vật tư chonhững mục tiêu cấp bách nhất về phát triển nông nghiệp, và công nghiệp hàng tiêudùng. “Đây là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng chậm giải quyết căn bản vấn7đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng lớn cho xuấtkhẩu”1.Đến nay, hầu hết cơ sở sản xuất công nghiệp chỉ mới sử dụng được khoảngmột nửa công suất; diện công trình xây dựng dở dang vẫn còn quá lớn so với khảnăng đầu tư, nhiều công trình dù xây dựng xong cũng không đủ điều kiện hoạtđộng tốt. Trong hoàn cảnh nguồn vốn ít, nguyên liệu, vật tư thiếu thốn, nếu cứ tiếptục theo đà này, để cho các nhà máy đều làm việc cầm chừng, để cho vốn liếng bịđọng lại quá lâu vào nhiều công trình xây dựng dở dang kéo dài, kém hiệu quả thìkhông thể thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra, nền kinh tế sẽngày càng khó khăn và mất cân đối hơn.Thứ ba, để khắc phục tình hình nói trên, nhằm mục tiêu chung ổn định tìnhhình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tạo ra tiền đề đẩy mạnh côngnghiệp hoá trong chặng đường sau, trong 5 năm 1986-1990 Hội nghị yêu cầu phảikiên quyết điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theohướng: “thật sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển côngnghiệp nhẹ, bao gồm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biếnnông sản, thực phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn, tạo thêm việc làm cho ngườilao động và tạo dần tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân”2. Công nghiệp nặngphải được phát triển một cách có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quymô nhỏ và vừa, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triểnnông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Những gì nhất thiết phải tạo ra ở trongnước (như điện, than, phân lân…) thì cố gắng làm cho được với kỹ thuật thích hợp;những gì chưa thể làm ngay, thì thông qua xuất khẩu để nhập khẩu. Phát triển đồngbộ giao thông vận tải cùng kết cấu hạ tầng khác và các hoạt động dịch vụ cần thiết.Coi trọng đầu tư cho khoa học, kỹ thuật. Chuẩn bị điều kiện mọi mặt để đẩy mạnhcông nghiệp hoá trong chặng đường sau. Trong các phương án kinh tế, phải rất coitrọng áp dụng thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật để nâng cao hiệu quả.1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 223.2Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 224.8Theo hướng đó, cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư để thựchiện cho được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàngtiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.Để thực hiện mục tiêu và phương hướng chung nói trên, Hội nghi yêu cầu:trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải thấu suốt những chủ trươngquan trọng như:Kiên quyết sắp xếp lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, trước hết là các cơ sở sảnxuất công nghiệp và nông nghiệp, của cả trung ương và địa phương. Đối với nhữngcơ sở trong 5 năm tới không có điều kiện hoạt động có hiệu quả, thì kiên quyếtchuyển hướng, thu hẹp sản xuất, chuyển từ kinh tế quốc doanh sang kinh tế tập thể,hoặc đóng cửa hẳn.Đối với các cơ sở và địa phương sản xuất các sản phẩm quan trọng của nềnkinh tế, sau khi đã xác định nhiệm vụ sản xuất, tập trung cung ứng đủ năng lượng,nguyên liệu, vật tư cần thiết để bảo đảm sản xuất theo đúng kế hoạch Nhà nước. Ưutiên bố trí vốn đầu tư để đồng bộ hoá (nhất là về kết cấu hạ tầng và cơ sở tạo nguồnnguyên liệu) và đầu tư chiều sâu cho các cơ sở này nhằm sử dụng tối đa năng lựcsản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.Tập trung vốn hoàn thành xây dựng các công trình dở dang đã được lựa chọntheo đúng tiến độ và đồng bộ để có thể phát huy ngay hiệu quả, phục vụ cho việcthực hiện ba chương trình và những mục tiêu nói trên.Giãn tiến độ, hoặc đình hẳn việc xây dựng những công trình chưa thật cấpthiết, hoặc làm xong sẽ không có điều kiện sử dụng có hiệu quả, hoặc xét trong khảnăng cân đối chung cần dành ưu tiên cho các công trình khác. Không vì đã trót bốtrí và đang xây dựng mà không kiên quyết cắt giảm những công trình loại này củacả trung ương và địa phương, cả trên hạn ngạch và dưới hạn ngạch, trong cácngành kinh tế và cả trong các ngành văn hoá - xã hội.Việc đầu tư và xây dựng thêm công trình mới phải nhằm đúng phươnghướng và mục tiêu đã định, chú trọng trước hết phục vụ yêu cầu của mặt trận nôngnghiệp (như thuỷ lợi, phân bón, thuốc trừ sâu, sức kéo, cơ sở bảo quản, côngnghiệp chế biến…), phục vụ yêu cầu phân bố lại lao động, yêu cầu đẩy mạnh sảnxuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đầu tư cho việc tạo thêm nguồn năng9lượng, nguyên liệu, tăng thêm năng lực giao thông vận tải, thông tin liên lạc… Việcxây dựng mới trong tất cả các ngành, nhất là trong công nghiệp, chủ yếu là làm quymô nhỏ và vừa, với công nghệ và kỹ thuật thích hợp, bảo đảm xây dựng nhanh, huyđộng kịp thời từng phần công trình, đạt hiệu quả thiết thực. Đối với những côngtrình đã ký kết với nước ngoài, nếu xét chưa cần thiết, chưa đủ điều kiện xây dựnghoặc không có hiệu quả, thì cũng kiên quyết đình, hoãn hoặc bỏ hẳn.Theo phương hướng nói trên, cần bàn lại và tranh thủ sự đồng tình của LiênXô và các nước anh em khác để điều chỉnh lại các kế hoạch hợp tác kinh tế đã bànhoặc đã ký kết, giảm bớt nhập khẩu số thiết bị toàn bộ, tìm khả năng nhập thêmphân bón, thuốc trừ sâu, nguyên liệu, vật tư.Trong việc đầu tư và xây dựng, từ nay cần sửa đổi cách làm trước đâythường là quyết định riêng lẻ từng công trình (kể cả đàm phán ký kết với các nước)mà không xem xét trong tổng thể phương án kế hoạch 5 năm, vừa nhất thiết phảilàm đúng quy trình xây dựng, xét duyệt các luận chứng kinh tế - kỹ thuật. Cácphương án đầu tư và xây dựng đều phải bảo đảm mục đích cuối cùng là đạt hiệuquả kinh tế - xã hội cao.Thứ tư, đi đôi với đầu tư của Nhà nước, cần có chính sách huy động rộng rãinguồn vốn của nhân dân, kể cả của Việt kiều, đầu tư vào phát triển sản xuất, nhất làsản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàngtiêu dùng và các hoạt động dịch vụ, phù hợp với chính sách đối với các thành phầnkinh tế.Trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phải chú ý đổi mới cơ chế quản lýđầu tư và xây dựng, làm cho người chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm đến cùng đốivới hiệu quả đầu tư, làm cho công tác xây dựng thật sự chuyển sang hạch toán, kinhdoanh.Hội nghị nêu rõ: “Chuyển hướng là việc rất khó khăn, đòi hỏi chúng ta phảiđổi mới cách suy nghĩ và cách làm, dám thừa nhận và thay đổi những quyết địnhsai lầm trước đây của chính mình, dũng cảm xử lý những việc phức tạp nảy sinhtrong quá trình chuyển hướng và điều chỉnh. Cần phải làm cho quan điểm, chủtrương chuyển hướng trên đây thấu suốt trong toàn Đảng. Tất cả các ngành, cáccấp phải chủ động thực hiện việc bố trí lại sản xuất và đầu tư trong phạm vi của10ngành và địa phương mình, cùng với trung ương thực hiện việc bố trí lại cơ cấukinh tế trong cả nước”1. Trong đó, Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban Kế hoạch Nhànước phải đi đầu, phải làm gương kiên quyết bố trí lại những khâu quan trọng nhất,ảnh hưởng đến cả nước. Kế hoạch của các ngành, các cấp phải thể hiện đúng đắn,rõ ràng tinh thần và nội dung bố trí và sắp xếp lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư nhưthế nào, phải làm gì để thực hiện chủ trương coi nông nghiệp thật sự là mặt trậnhàng đầu, phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, giải quyếtviệc làm cho người lao động; đề ra những biện pháp kiên quyết và thiết thực để tậndụng công suất thiết bị sẵn có, nâng cao hiệu quả đầu tư, tiết kiệm năng lượng, vậttư, sử dụng tốt lao động xã hội.Hội nghị chỉ đạo: theo đúng những quan điểm trên đây, Hội đồng Bộ trưởng,Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước chuẩn bị trình Bộ Chính trị xem xét phương án đầu tư,danh mục công trình xây dựng và toàn bộ phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5năm 1986-1990.2.2 Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mớiQuá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình tiến hành đồngthời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹthuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật làthen chốt. Trong thời kỳ quá độ, cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất được thựchiện thông qua công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với toàn bộ nền kinh tế quốcdân nhằm cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, thúc đẩy lựclượng sản xuất phát triển, tái sản xuất mở rộng không ngừng, nâng cao năng suấtlao động xã hội. Tư tưởng chỉ đạo công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa phải được xácđịnh một cách nhất quán.Một là, “cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải tuân theo quy luật về sựphù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từsản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất của ta còn nhỏ yếu, trìnhđộ xã hội hoá sản xuất còn thấp, lại phát triển không đều”2. Vì vậy, trong việc cảitạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, phải lựa chọn bước đi và1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 227.2Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 228.11hình thức thích hợp, trên quy mô cả nước cũng như đối với từng vùng, từng lĩnhvực. Phải đi qua những bước trung gian, quá độ, từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đếntrung bình, rồi tiến lên quy mô lớn. Và tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuấtmà tiếp tục cải tạo với những hình thức cao hơn, quy mô rộng lớn hơn để từngbước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.Hai là, “cải tạo xã hội chủ nghĩa là một bộ phận trọng yếu của cuộc đấutranh nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tưbản trong thời kỳ quá độ”1. Đặc trưng cần nắm vững là nền kinh tế có cơ cấu nhiềuthành phần:- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.- Các thành phần kinh tế khác bao gồm: kinh tế công tư hợp doanh (nửa xãhội chủ nghĩa); kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể chưavào hợp tác xã, tiểu thương); kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ); kinh tế tự nhiên,tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và ởvùng cao các tỉnh miền núi phía bắc.Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải nhằm xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tếtập thể ngày càng vững mạnh, làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế vàphát huy tính hơn hẳn thông qua việc không ngừng nâng cao năng suất lao động,hiệu quả kinh tế và mức sống của người lao động. Đồng thời, thừa nhận sự tồn tạicủa thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá và một bộ phận kinh tế tư bản tưnhân ở mức độ nhất định trong một thời gian tương đối dài, coi đó là sự cần thiếtkhách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việclàm cho người lao động. Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế đó, vì lợiích của chủ nghĩa xã hội.Ba là, “cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu màlà giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất một cách đồng bộ, cả trên ba mặt: chế độ sởhữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối. Cải tạo bao hàm nội dung chủ yếu là xâydựng, nhằm từng bước làm cho ba mặt đó thật sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa.Cải tạo xã hội chủ nghĩa là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 229.12lượng sản xuất, vì vậy không thể chỉ làm một lần hay trong một thời gian ngắn làxong”1.Theo tinh thần đó, Đảng ta coi đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệmvụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hìnhthức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tínhchất và trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi quá trình phát triển.Hội nghị đánh giá: Những khuyết điểm về công tác cải tạo xã hội chủ nghĩatrong thời gian qua chỉ rõ sự không thấu suốt quan điểm cơ bản nói trên.Thiếu sót lớn nhất là chưa quan tâm đúng mức và chưa có những biện phápphù hợp để tăng cường kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tế quốc doanh. Sựchậm trễ trong việc thay đổi những chính sách, chế độ của cơ chế quản lý cũ đãkìm hãm sự vươn lên của kinh tế quốc doanh, khiến nó không giữ vững được vaitrò chủ đạo trong nền kinh tế.Trong việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá,khuyết điểm phổ biến là làm ào ạt, theo từng đợt, từng chiến dịch, với lối gò ép,mệnh lệnh, chạy theo hình thức, thiên về số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả.Gần đây, nhiều nơi lại buông lỏng quản lý, để cho một bộ phận các thành phần kinhtế đó phát triển một cách tự phát, nhất là trong thương nghiệp. Đối với kinh tế tưnhân cũng như đối với những người sản xuất nhỏ, ít chú ý đến những đặc điểm vàtính chất của từng ngành, từng nghề để lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp, có xuhướng muốn đưa ngay vào các xí nghiệp công tư hợp doanh hoặc hợp tác xã quymô lớn, không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cánbộ. Vì vậy, trên thực tế một số xí nghiệp công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp chỉlà hình thức.Hội nghị yêu cầu: “Phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cốvà tăng cường quan hệ sản xuất mới; phấn đấu đến hết chặng đường đầu tiên làmcho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn và giữ vị trí chi phối trong nền kinhtế quốc dân, quan hệ sản xuất mới thể hiện rõ tính hơn hẳn so với quan hệ sản xuấtcũ, thật sự thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển”2. Hội nghị nêu rõ:1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 229.2Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 231.13Đối với kinh tế quốc doanh: Phải trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Hội nghịlần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khoá V), kiên quyết và từng bước xoá bỏtập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán, kinh doanhxã hội chủ nghĩa mà tăng cường khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là kinh tếquốc doanh, làm cho kinh tế quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo và cùngvới kinh tế tập thể chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Đó là phươnghướng quan trọng nhất của toàn bộ nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quanhệ sản xuất mới. Biện pháp chủ yếu để tăng cường kinh tế quốc doanh trong sảnxuất cũng như trong lưu thông là:+ Sắp xếp và tổ chức lại các ngành và cơ sở sản xuất, kinh doanh theo cơ cấukinh tế đúng đắn và theo phương hướng kinh doanh xã hội chủ nghĩa.+ Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất,kinh doanh.+ Thực hiện cơ chế quản lý mới theo đúng Nghị quyết 306 (dự thảo) của BộChính trị về quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở.+ Thực hiện sự liên kết giữa kinh tế quốc doanh với các thành phần kinh tếkhác nhằm hướng các thành phần kinh tế đó vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.Phải thấy rõ có xây dựng kinh tế quốc doanh ngày càng lớn mạnh thì mới cóthể cải tạo và sử dụng có hiệu quả các thành phần kinh tế khác.Đối với kinh tế tập thể: Phương hướng chủ yếu là củng cố và tăng cường cáctổ chức sản xuất tập thể hiện có, nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng vàhiệu quả. Tăng cường kinh tế tập thể trên cả hai mặt: nâng cao trình độ tổ chức,quản lý và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật. Trong nông nghiệp, hết sức coitrọng việc củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Xây dựng các tập đoàn sảnxuất ở Nam Bộ thật sự trở thành những tổ chức đã được tập thể hoá về lao động vàđất đai. Việc đưa các tập đoàn sản xuất này lên hợp tác xã cấp cao, quy mô lớn phảiđược tính toán chu đáo, căn cứ vào các điều kiện cụ thể đã chín muồi, không đượclàm vội vã. Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động là một hìnhthức quản lý tiến bộ, cần chỉ đạo chặt chẽ nhằm phát huy hiệu quả của hình thứcđó. Các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương và cơ sở phải khắc phụctình trạng buông lỏng, khoán trắng; phấn đấu bảo đảm vật tư cho sản xuất đến tay14nông dân, chống thất thoát, ăn cắp, xà xẻo vật tư của nông nghiệp đưa ra thị trường.Cần tổng kết, rút kinh nghiệm để khắc phục những hiện tượng tiêu cực, nâng caochất lượng khoán, gắn việc khoán sản phẩm với việc nâng cao trình độ quản lý củatập thể, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng và phát triển cơ sở vật chất - kỹthuật, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập của xã viên, tăng vốn tự có của hợptác xã và tập đoàn sản xuất, làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, coi đó là nhữngbiện pháp quan trọng để củng cố hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.Bằng các chính sách, biện pháp thích hợp, khuyến khích phát triển kinh tếgia đình để bổ sung nguồn thu nhập cho người lao động, hỗ trợ cho kinh tế quốcdoanh và kinh tế tập thể.Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, cần chú trọng xây dựng quanhệ sản xuất mới phù hợp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinhdoanh. Theo hướng đó, tiếp tục vận động người sản xuất nhỏ trong các ngành thamgia các tổ chức sản xuất tập thể với những hình thức thích hợp, từ thấp lên cao, từnhỏ lên lớn, dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi. Cần nắm vững mục tiêucủa tập thể hoá là nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinhdoanh, tăng thu nhập từ kinh tế tập thể, nhất thiết không được làm theo lối hìnhthức chủ nghĩa.Phải gắn liền cải tạo nông nghiệp với cải tạo công thương nghiệp tư bản tưdoanh. Xây dựng, củng cố và phát triển các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tíndụng, kết hợp tốt hoạt động của các hợp tác xã này với hoạt động của các hợp tácxã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp để phục vụ tốt sản xuất và đời sống.Đối với kinh tế công tư hợp doanh: Đối với những tư nhân còn vốn lớn, cókhả năng sản xuất những mặt hàng có nhu cầu hoặc làm dịch vụ với quy mô lớn vàtương đối lớn thì dùng hình thức công tư hợp doanh. Cần có chính sách thích hợpđể thành phần kinh tế này tồn tại trong một thời gian nhất định và phát huy tácdụng tích cực của nó trong sản xuất, kinh doanh. Phải thực hiện sự hợp doanh đúngvới tính chất của nó để trong các xí nghiệp công tư hợp doanh, phía tư nhân khôngchỉ góp vốn và kỹ thuật mà còn tham gia quản lý và được chia lợi nhuận tươngxứng với sự đóng góp của họ.15Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá: Nhà nước thừa nhận sự tồn tại cầnthiết và tính hợp pháp của bộ phận kinh tế này, thể hiện ở quyền bình đẳng trướcpháp luật và trong xã hội. Những người tiểu sản xuất hàng hoá và làm dịch vụ đượcsự hướng dẫn và giúp đỡ của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thông qua cáchình thức liên kết và các chính sách kinh tế. Tiêu chuẩn để đánh giá tính tích cựccủa bộ phận kinh tế này là tạo thêm việc làm cho người lao động, đóng góp thiếtthực vào việc phát triển sản xuất, làm ra của cải cho xã hội, thi hành đúng chínhsách, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.Đối với tiểu thương, phải thông qua nhiều hình thức thích hợp để sắp xếp,cải tạo và sử dụng; phấn đấu từng bước chuyển số người không cần thiết sang sảnxuất và dịch vụ.Đối với kinh tế tư bản tư nhân: Vì lợi ích chung của xã hội và của nền kinh tếxã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương sử dụng có chọn lọc một bộ phận kinh tế tưbản tư nhân. Việc cải tạo đối với thành phần kinh tế này được tiến hành theophương châm "cải tạo để sử dụng, sử dụng để cải tạo tốt hơn". Đối với một sốngành, nghề nhất định trong khu vực sản xuất và dịch vụ, ở những nơi cần thiết, tưnhân được dùng vốn và kỹ thuật của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh và đặt dướisự kiểm soát của Nhà nước. Quy mô của cơ sở sản xuất và phạm vi hoạt động đượcquy định tuỳ theo ngành, nghề và mặt hàng được phép kinh doanh. Trong lưuthông, xoá bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Xoá bỏ chợ đen, nghiêm trị bọn đầucơ, buôn lậu và ăn cắp tài sản của Nhà nước. Đối với một số người buôn bán loạivừa, có tay nghề khá, trong một số ngành hàng tươi sống, Nhà nước dùng hình thứcliên doanh để sử dụng họ theo đúng chính sách và pháp luật.Đối với kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc ở các vùng cao miền núi: Phải xuấtphát từ những đặc điểm kinh tế còn rất thấp kém và lạc hậu ở đấy mà có chính sáchtổ chức đúng đắn, với những hình thức giản đơn, thích hợp để dần dần hướng bộphận kinh tế này đi vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Không nên máy móc, dập khuônlàm theo các hợp tác xã ở đồng bằng một cách vội vã.Đặc biệt, Hội nghị nhấn mạnh phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn là thay đổicả chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó là quá trình gắn liền với bước phát triển16của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắnlà xong.2.3 Về cơ chế quản lý kinh tếHội nghị nêu rõ:Thứ nhất, “việc bố trí lại cơ cấu kinh tế (bao gồm cả cơ cấu ngành, vùng, kỹthuật, v.v. và cơ cấu xã hội của nền kinh tế, tức là cơ cấu thành phần kinh tế) phảigắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Hai mặt này liên quan chặt chẽ vớinhau, vừa thúc đẩy, vừa ràng buộc lẫn nhau và đều phải phù hợp với trình độ pháttriển của lực lượng sản xuất, đồng thời gắn liền với việc mở rộng và củng cố quanhệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”1. Cùng một lúc, chúng ta vừa chuyển hướng bố trí cơcấu kinh tế, vừa đổi mới cơ chế quản lý; cho nên phải hết sức chú ý bảo đảm sự ănkhớp giữa hai mặt đó, cả về phương hướng và bước đi.Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phải nhằm tạo ra động lực phát huy vai tròlàm chủ và nhiệt tình của người lao động, thúc đẩy phong trào quần chúng hăng háithực hiện ba cuộc cách mạng, sử dụng tốt nhất mọi năng lực sản xuất, khai thác cáctiềm năng phát triển kinh tế để đạt mục đích cuối cùng là: đẩy mạnh sản xuất vớihiệu quả kinh tế và năng suất lao động ngày càng cao, thực hiện tốt quan hệ phânphối và nguyên tắc phân phối theo lao động, không ngừng nâng cao đời sống củanhân dân, tăng tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá.Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý đã được khẳng định là phải xoá bỏ tậptrung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủnghĩa. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trái với bản chất của kinh tế xã hội chủnghĩa. Những đặc trưng chủ yếu của cơ chế đó mà chúng ta cần phải xoá bỏ là:- Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu. Các cơ quanquản lý hành chính, trước hết là ở cấp trung ương có toàn quyền quyết định nhữngvấn đề kinh tế, song lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình.Cách quản lý đó vừa không ràng buộc trách nhiệm, vừa không bảo đảm quyền tựchủ của các tổ chức và các đơn vị sản xuất, kinh doanh.- Bao cấp qua chế độ phân phối và cấp phát không tính đến hiệu quả kinhtế, không gắn trách nhiệm và lợi ích vật chất với hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 235- 236.17sản, vật tư, lao động; tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượnglao động.- Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng, nấc trung gian vớinhững cán bộ quản lý kém năng động, không thông thạo kinh doanh, với phongcách quản lý quan liêu, cửa quyền, không có trách nhiệm rõ ràng; tạo ra cấu trúcthượng tầng quá lớn, không tương xứng với cơ sở hạ tầng đang còn nhỏ bé.Hội nghị nêu ra những nội dung chủ yếu của cơ chế hạch toán kinh tế, kinhdoanh xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng là:- Đổi mới kế hoạch hoá trên cơ sở vận dụng đúng đắn hệ thống các quy luậtkinh tế, phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội, đồngthời sử dụng đúng đắn các quy luật vận động của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; chuyểnsang các phương pháp kinh tế là chủ yếu, trong đó kế hoạch hoá thật sự trở thànhtrung tâm của hệ thống quản lý.- Bảo đảm cho các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa có quyền tự chủ sản xuất,kinh doanh, thực hiện đúng hạch toán kinh tế, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu tráchnhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình, phấn đấu sản xuất kinh doanh cólãi. Mức thu nhập của tập thể và của người lao động được xác định căn cứ vào kếtquả lao động và hiệu quả kinh tế.- Chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý theo yêucầu của cơ chế mới, trên cơ sở phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tếcủa cơ quan nhà nước và chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh của các tổ chức,đơn vị kinh tế, phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn bộ hệthống quản lý hành chính Nhà nước và quản lý sản xuất, kinh doanh đều đặt dướisự lãnh đạo của Đảng.Hội nghị nhấn mạnh: việc “đổi mới cơ chế quản lý theo phương hướng nóitrên là một cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng sâu sắc”1. Muốn thực hiện cuộc cảicách này, nhất thiết phải đổi mới tư duy kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy của cáccơ quan lãnh đạo và quản lý. Tư duy kinh tế mới phải dựa trên cơ sở nhận thức vàvận dụng đúng đắn hệ thống quy luật đang tồn tại và vận động một cách kháchquan trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của chặng đường đầu tiên; trong đó các1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 238.18quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời phải khắcphục những quan niệm cũ kỹ, giản đơn, cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội, nhữngthành kiến đối với quan hệ hàng hoá - tiền tệ và thị trường; khắc phục tư tưởng chủquan, thoát ly thực tế, xa rời quần chúng, vừa bảo thủ, vừa nóng vội trong công táclãnh đạo và quản lý kinh tế.Xoá bỏ cơ chế quản lý cũ, thiết lập cơ chế quản lý mới là một quá trình cảicách phù hợp với quy luật và được quần chúng đông đảo đồng tình và ủng hộ; nó làcuộc cách mạng kết hợp giữa bên trên và bên dưới, giữa sự đổi mới hoạt động củacác cơ quan nhà nước với phong trào quần chúng ở các đơn vị cơ sở dưới sự lãnhđạo của các tổ chức của Đảng. Quá trình cải cách có nhiều khó khăn phức tạp. Cácnước anh em có những điều kiện vật chất thuận lợi, có trình độ quản lý cao cũngphải làm từng bước. Việc đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta càng khó khăn, vìchúng ta còn đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ; nền kinh tế đang trongtình trạng mất cân đối gay gắt, đội ngũ cán bộ đã quen với cơ chế cũ; trình độ lýluận, nhận thức về cái mới và kinh nghiệm quản lý đều có hạn. Việc mở khâu độtphá về giá - lương - tiền vừa qua không thành công, làm cho tình hình kinh tế - xãhội, đặc biệt là thị trường, giá cả và đời sống diễn biến xấu hơn trước. Cơ chế cũ đãbị phê phán nhưng chưa thay đổi được bao nhiêu; cơ chế mới chưa được thiết lậpđầy đủ và đồng bộ; một số vấn đề đang thảo luận, chưa đi tới quan điểm thốngnhất. Vì vậy, để đổi mới cơ chế quản lý, phải có quyết tâm cao, kiên quyết sửangay những thể chế đã lỗi thời, đang cản trở sản xuất, kinh doanh; nhưng không thểgiản đơn, nóng vội, muốn giải quyết xong mọi vấn đề trong một thời gian ngắn.Phải hết sức coi trọng nghiên cứu, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn để xác định rõ nộidung cải cách trong từng bước; đồng thời phải đổi mới công tác cán bộ, xây dựngmột đội ngũ cán bộ quản lý có tư duy kinh tế đúng đắn, năng động và có tính kỷluật cao, tận tụy vì chủ nghĩa xã hội. Để làm cơ sở cho việc giải quyết những vấnđề kinh tế cấp bách và tiếp tục nghiên cứu xác định bước đi, cách làm cụ thể choquá trình đổi mới cơ chế quản lý, trước hết, cần xác định quan điểm đúng đắn vềthực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác quản lý và sử dụng quan hệhàng hoá - tiền tệ, thị trường trong cơ chế kế hoạch hoá.19Thứ hai, Hội nghị chỉ rõ: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng củaquản lý kinh tế thể hiện tính thống nhất trong việc tăng cường sự lãnh đạo củaĐảng, chức năng quản lý của Nhà nước và phát huy thật sự vai trò làm chủ củanhân dân lao động”1.Muốn thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế phảithực hiện sự phân công, phân cấp quản lý bảo đảm quyền làm chủ của ba cấp:quyền quyết định của trung ương (bao gồm cả các ngành trung ương) đối vớinhững lĩnh vực và những khâu then chốt của nền kinh tế mà trung ương cần phảiquản lý tập trung, thống nhất trong cả nước; quyền chủ động của các địa phươngtrong việc thực hiện trách nhiệm quản lý hành chính - kinh tế - xã hội trên địa bànlãnh thổ; quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, trongđó có vai trò làm chủ của các tập thể lao động. Trong sự phân công, phân cấpquản lý, trách nhiệm phải đi đôi với quyền hạn, nghĩa vụ gắn liền với lợi ích.Hội nghị thẳng thắn thừa nhận: “Hiện nay, tình trạng tập trung quan liêutrong công tác quản lý và điều hành còn khá nặng; mặt khác, tình trạng tự do chủnghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật, cục bộ, địa phương trong hoạt động kinh tế cũngnghiêm trọng và phổ biến. Hai mặt đó đang diễn ra ở tất cả các cấp, các ngành, gâyrối loạn cả trong sản xuất, xây dựng và lưu thông phân phối, làm cho sự chỉ đạo,kiểm soát và quản lý của Nhà nước bị suy yếu”2.Hội nghị phân tích: nguyên nhân trực tiếp của tình hình đó, trước hết là do cơchế quản lý còn nặng tính chất tập trung quan liêu, bao cấp, vừa gò bó cấp dưới,vừa làm yếu sự quản lý tập trung. Những nghị quyết của Ban Chấp hành Trungương Đảng và Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý chậm được cụ thể hoá và thểchế hoá. Bước đi và cách làm cụ thể chưa được chuẩn bị chu đáo. Một số sửa đổivề phân cấp quản lý, về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vịcơ sở còn phải tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh qua kiểm nghiệm trong thực tiễn. Hệthống tổ chức bộ máy quản lý chưa có chuyển biến gì đáng kể. Sự chỉ đạo và điềuhành của Trung ương thiếu nhất trí, không nhất quán, không theo kịp diễn biếnphức tạp của tình hình thực tế. Những điều đó làm cho một số địa phương và cơ sở1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 239- 240.2Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 240.20muốn chuyển sang hạch toán kinh doanh để đáp ứng kịp thời các yêu cầu về sảnxuất và đời sống của người lao động đã phải vượt ra khỏi những quy định hànhchính hiện hành. Đã xuất hiện một số điển hình làm ăn tốt, năng động, đồng thờicũng có những việc làm chỉ chú ý tới lợi ích cục bộ, gây thiệt hại cho lợi ích chung.Các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ở trung ương không kịp thờinghiên cứu tổng kết, phân rõ đúng, sai để có cách xử lý đúng. Mặt khác, trong việcđổi mới một số chính sách, chế độ quản lý, có một số quy định thiếu chặt chẽ (nhưvề chính sách xuất khẩu, nhập khẩu của địa phương) làm tăng thêm tình hình phântán.Những người làm ăn bất chính cả trong và ngoài khu vực nhà nước, baogồm cả một số người có chức, có quyền, đã lợi dụng những sơ hở của cơ chế cũvà tình trạng lỏng lẻo trong lúc thay đổi cơ chế quản lý để xoay xở, ăn cắp, mócngoặc, tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, gây tổn thất cho đấtnước, làm rối loạn thêm tình hình kinh tế - xã hội. Nghiêm trọng hơn nữa là tìnhtrạng lạm dụng chức quyền để trấn áp, trù dập những người tố cáo. Những hànhđộng phạm pháp không bị trừng trị kịp thời, nghiêm minh, công khai; do đó chưađược ngăn chặn mà còn có phần lan rộng thêm. Nạn tham nhũng dưới nhiều hìnhthức đang diễn ra khá phổ biến ở các ngành, các cấp, cần kiên quyết ngăn chặn.Yêu cầu và điều kiện đầu tiên của quá trình đổi mới cơ chế quản lý là phảikiên quyết nhanh chóng lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế - xã hội, nhấtlà trong lĩnh vực lưu thông, phân phối. Như vậy, cần phải làm những việc sau đây:Dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện phân cấpquản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa bảo đảm cho trung ương nắm vữngquyền quản lý tập trung đúng mức, vừa tiếp tục phát huy cao độ tính chủ động,sáng tạo của địa phương và cơ sở. Quyết không vì những khó khăn, khuyết điểmvừa qua mà quay trở lại cơ chế tập trung quan liêu.Đi đôi với việc tiếp tục phá bỏ những vướng mắc của các đơn vị cơ sở trongquá trình thực hiện quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, phát huy quyền làm chủ tậpthể của người lao động theo đúng Nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ Chính trị, cầnkhẩn trương nghiên cứu cơ chế chung về phân cấp quản lý. Trong cơ chế đó, trướchết cần xác định chức năng quản lý đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân mà trung21ương phải nắm và làm tốt, đồng thời quy định rõ sự phân cấp giữa trung ương, địaphương và các đơn vị cơ sở trên các lĩnh vực quản lý cụ thể, trước hết là những lĩnhvực đang có nhiều vướng mắc, như vật tư, hàng hoá, xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tưxây dựng cơ bản, các định mức kinh tế kỹ thuật, tài chính, tiền tệ, giá cả, tiềnlương, tiền thưởng…Tinh thần chung là trung ương nắm những sản phẩm (vật tư và một số mặthàng tiêu dùng thật sự thiết yếu trong nước, hàng xuất khẩu và nhập khẩu chủ yếu),những công trình, những nguồn vốn cần phải cân đối trong phạm vi cả nước, chịutrách nhiệm bảo đảm vững chắc những cân đối đó, đồng thời đòi hỏi các ngành, cácđịa phương và cơ sở phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với trung ương. Ngoàiphạm vi đó, cần mở rộng quyền hạn của địa phương và cơ sở, nhất là cho đơn vịsản xuất, kinh doanh được tự cân đối để phát triển kinh tế theo phương hướng,nhiệm vụ kế hoạch nhà nước và theo luật pháp, chính sách, chế độ do trung ươngquy định. Những quy định này phải được sửa đổi, bổ sung theo cơ chế hạch toán,kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho địa phương và cơ sở thực hiệnquyền tự chủ, phát huy chủ động, sáng tạo trong khuôn khổ của phương hướngchung. Những quy định phải đồng bộ, có hệ thống, song lúc đầu chưa thể hoànchỉnh. Trong quá trình thực hiện, cần tiếp tục theo dõi, tổng kết để bổ sung, sửa đổi.Các ngành, các cấp, các cơ sở phải hạch toán chặt chẽ và báo cáo trung thực, coi đólà kỷ luật của Đảng và Nhà nước.Hội nghị khẳng định: “điều quan trọng hàng đầu là sự chỉ đạo và điều hànhcủa tất cả các cấp, trước hết là Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng phải theo đúngcác nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, phải thống nhấtvề bước đi và các chủ trương cụ thể. Đối với những vấn đề chưa thể kết luận thìphải thống nhất cách giải quyết tạm thời và tổ chức làm thử rút kinh nghiệm để đitới quyết định chính thức”1.Trên cơ sở đổi mới một bước cơ chế quản lý và thực hiện sự chỉ đạo, điềuhành thống nhất của trung ương, cần tăng cường tổ chức và kỷ luật, lập lại kỷcương, trật tự, đề cao pháp luật trong hoạt động kinh tế. Các ngành, các cấp nhấtthiết phải chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của Trung ương. Những trường1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 243.22hợp tự ý làm trái quy định của trung ương phải bị xử lý nghiêm minh. Các cơ quancó trách nhiệm ở trung ương phải chịu trách nhiệm về những quy định của mìnhkhông phù hợp với thực tế, gây cản trở và làm thiệt hại đối với sản xuất, kinhdoanh của cấp dưới.Phải thực hiện công bằng xã hội và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việcphê bình công khai trên báo là quyền chính đáng của mọi công dân và phải đượcthực hiện có nền nếp. Thực hiện nguyên tắc: mọi đảng viên bình đẳng trước kỷ luậtcủa Đảng, mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Trên tinh thần đó, cần kiênquyết loại trừ tệ tham nhũng và chống mọi cách làm ăn phi pháp mưu lợi cho cánhân, gây thiệt hại cho lợi ích chung của Nhà nước. Những người xâm phạm tài sảncủa Nhà nước và của tập thể, dùng quyền lực ức hiếp quần chúng, trù dập người tốcáo và cả những người vu cáo, gây rối, những người bao che cho những tên phạmtội đều phải bị xét xử công khai, trừng trị theo luật pháp, bất kể ở cương vị nào.Phải cảnh giác và có biện pháp hữu hiệu chống lại sự phá hoại về kinh tế điđôi với chiến tranh tâm lý của địch, đặc biệt là trên lĩnh vực thị trường và giá cả.Thứ ba, “Kế hoạch hoá là công cụ trung tâm của hệ thống quản lý, bao quátmọi mặt kinh tế - xã hội trong nước, gắn liền với quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằmbảo đảm phát triển nền kinh tế quốc dân với hiệu quả cao”1.Để thực hiện được vai trò trung tâm, hội nghị yêu cầu: công tác kế hoạch hoáphải được đổi mới theo quan điểm hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Phải sửdụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường trong cơ chế kế hoạchhoá. Trong đó:Thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế - xã hội trong lĩnh vực lưuthông, trao đổi hàng hoá, là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nềnkinh tế còn nhiều thành phần, thị trường xã hội tất nhiên cũng có nhiều thành phầnkinh tế tham gia, hình thành thị trường có tổ chức của các tổ chức sản xuất và lưuthông hàng hoá xã hội chủ nghĩa và thị trường "tự do", bao gồm hoạt động mua bántrực tiếp giữa người sản xuất với người tiêu dùng và hoạt động lưu thông, dịch vụcủa những người kinh doanh cá thể, tư nhân ở cả thành thị và nông thôn. Nhữngđiều kiện khách quan về kinh tế - xã hội tạo nên sự tồn tại lâu dài của thị trường "tự1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 244.23do" ở mức cần thiết, trong phạm vi quản lý của Nhà nước. Nhà nước cần sử dụngnhững biện pháp có hiệu quả để cải tạo và xoá bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa,nghiêm trị bọn đầu cơ, buôn lậu; nhưng không thể xoá bỏ thị trường "tự do" theo ýmuốn chủ quan bằng mệnh lệnh hành chính, mà chỉ có thể từng bước thu hẹp nóbằng sự thay thế tốt hơn của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, và phải biết sử dụngnó trong những lĩnh vực mà thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chưa thể kinh doanhtốt hoặc chưa cần kinh doanh.Nhà nước phải phấn đấu giành độc quyền kinh doanh lương thực, vật tưchiến lược và một số loại hàng tiêu dùng thiết yếu khác, thông qua các tổ chức kinhdoanh xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm những năm qua cho thấy không thể thực hiệnđộc quyền nếu chỉ dùng mệnh lệnh hành chính và bằng cấm đoán là chủ yếu. Đểthực hiện chủ trương quan trọng này, phải dùng biện pháp kinh tế là chính, kết hợpvới sử dụng đúng đắn biện pháp giáo dục, hành chính, tổ chức và tư pháp; phải dựavào các tổ chức kinh doanh là chủ yếu, đồng thời sử dụng tốt chức năng kiểm soátvà quản lý thị trường của các cơ quan quản lý Nhà nước. Phải có chính sách giá cảvà phương thức mua, bán hợp lý để thương nghiệp xã hội chủ nghĩa thông qua kinhdoanh mà nắm toàn bộ hoặc hầu hết sản phẩm hàng hoá và phải chuẩn bị điều kiệnđáp ứng được nhu cầu của xã hội về những mặt hàng mà Nhà nước độc quyền kinhdoanh.Thị trường có tổ chức và thị trường tự do hợp thành một thị trường xã hộithống nhất, trong đó hai lực lượng kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩavừa đấu tranh với nhau, vừa đan kết với nhau, bổ sung cho nhau nhằm đáp ứng nhucầu nhiều mặt của xã hội. “Nhà nước phải kế hoạch hoá và quản lý toàn bộ thịtrường xã hội. Tất nhiên, không thể kế hoạch hoá thị trường tự do một cách trựctiếp, song kế hoạch nhà nước phải tính đến nó khi bố trí cân đối tiền - hàng và cáccân đối tổng hợp của nền kinh tế quốc dân. Phải dùng các chính sách, biện phápthích hợp để phát huy mặt tích cực và hạn chế tính tự phát của thị trường "tự do",đưa nó đi theo phương hướng của kế hoạch nhà nước, bổ sung cho thị trường có tổchức”1. Coi thị trường "tự do" là lực lượng đối địch, muốn xoá bỏ ngay hoặc buônglỏng quản lý và chạy theo tính tự phát của thị trường "tự do" đều là những khuynh1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47 (1986), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2006,tr. 246.24hướng sai lầm. Phương hướng chủ yếu để Nhà nước quản lý và làm chủ thị trườnglà tăng cường sức mạnh và chất lượng kinh doanh, phục vụ của thương nghiệp xãhội chủ nghĩa, làm cho nó chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và đủ sức chi phối toàn bộthị trường xã hội.Kế hoạch phải thông qua thị trường, trước hết là thông qua các hợp đồngkinh tế, để cân đối sản xuất và tiêu thụ, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng và khôngngừng tăng lên của xã hội, coi thị trường là một căn cứ để xây dựng và điều chỉnhkế hoạch. Kế hoạch phải biết sử dụng thị trường để điều tiết sản xuất và lưu thônghàng hoá trong phạm vi nhất định, nhằm khai thác các khả năng đáp ứng nhữngnhu cầu và thị hiếu mà kế hoạch chưa thể bao quát được. Mặt khác, kế hoạch phảitính đến toàn bộ khối lượng hàng hoá, tiền tệ lưu thông trên thị trường xã hội đểbảo đảm quan hệ cân đối giữa các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.Kế hoạch phản ánh cả giá trị sử dụng và giá trị; do đó quan hệ hàng hoá tiền tệ, thị trường phải thể hiện trong các chỉ tiêu, các cân đối kế hoạch; đồng thờicác quan hệ đó cũng thể hiện ở các chính sách đòn bẩy, được sử dụng cả trong kếhoạch trực tiếp và kế hoạch gián tiếp, nhằm tạo ra động lực thúc đẩy mọi hoạt độngsản xuất, kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế đi theo phương hướng,nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch nhà nước.Hội nghị chỉ rõ: vấn đề cấp bách trước mắt là vận dụng đúng các quy luật đótrong chính sách giá cả.Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luậtgiá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị, sức mua của đồng tiềnvà quan hệ cung cầu như tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trungương. Giá cả chỉ có thể dần dần ổn định trên cơ sở phát triển sản xuất, tập trungnguồn hàng vào thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, bài trừ tệ tham nhũng và nạn chợđen, khắc phục lạm phát, từng bước lập lại cân bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ vàcung - cầu. Vì vậy, chính sách giá cả phải nhằm trước hết làm cho người lao độnglàm ra nhiều sản phẩm hàng hoá, tích cực phấn đấu giảm tiêu hao vật chất, bảo đảmđịnh mức đúng đắn để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm và hăng hái bánsản phẩm cho Nhà nước. Không thể ổn định giá cả bằng cách giữ giá một cáchcứng nhắc, bất chấp sức mua của đồng tiền, bất chấp quan hệ cung - cầu và sự biến25
Tài liệu liên quan
- Tài liệu về môn Lịch sử Đảng
- 193
- 2
- 11
- Tư liệu tham khảo lịch sử 11
- 56
- 783
- 3
- Tài liệu tham khảo mẫu Phiếu đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
- 3
- 640
- 1
- TÀI LIỆU ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG
- 13
- 852
- 5
- Tài liệu Bài Giảng Lịch Sử Đảng pptx
- 31
- 520
- 0
- Tài liệu ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG doc
- 14
- 1
- 9
- Tài liệu Ôn tập lịch sử Đảng pdf
- 8
- 533
- 1
- Tài liệu thi môn Lịch sử Đảng pptx
- 4
- 346
- 0
- Tài liệu ôn tập lịch sử Đảng doc
- 17
- 269
- 0
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong bối cảnh lịch sử như thế nào ? Nêu nội dung và ý nghĩa của Đại hội.
- 1
- 825
- 5
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(188.5 KB - 34 trang) - TÀI LIỆU THAM KHẢO LỊCH sử ĐẢNG kết LUẬN của bộ CHÍNH TRỊ đối với một số vấn đề THUỘC QUAN điểm KINH tế (THÁNG 8 1986) nội DUNG và ý NGHĨA Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Hội Nghị Bộ Chính Trị Khóa V 8 1986
-
Báo Cáo Chính Trị Của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Khóa VII Tại ...
-
Kết Luận Của Bộ Chính Trị Ngày 27/8/1987 Về Cuộc Thảo Luận Dự Thảo ...
-
Tư Duy Mới Của Đảng Về Kinh Tế Tư Nhân
-
Văn Kiện Quốc Hội Toàn Tập Tập Vi(quyển 2) 1984 - 1987
-
Phần 6-Thời Kỳ Tiến Hành Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Trên Cả Nước ...
-
Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam Khóa V
-
Hội Nghị Bộ Chính Trị Khóa V 8 1986 - Blog Của Thư
-
Viết Lại Báo Cáo Chính Trị - Tuổi Trẻ Online
-
Đảng Cộng Sản Việt Nam Lãnh đạo Công Cuộc đổi Mới Kinh Tế đất ...
-
Đại Hội Đảng Bộ Tỉnh Hải Dương Lần Thứ V
-
Đổi Mới Tư Duy Chính Trị - Màn Dạo đầu Cho đổi Mới Kinh Tế ở Nước Ta
-
Nội Dung Chính Sách Thành Tựu
-
Chương III: Tạp Chí Cộng Sản Từ 1977 đến 1986