Thái Sư Á Vương Đào Cam Mộc – Sinh Vi Lý Tướng, Tử Vi Lê Thần

Đệ nhất khai quốc công thần

Trong số những người góp công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, nhà sư Vạn Hạnh và Thái sư Á vương Đào Cam Mộc được xếp ở vị trí đệ nhất khai quốc công thần. Nếu nhà sư Vạn Hạnh là người nêu ý tưởng thì Thái sư Đào Cam Mộc là người tổ chức và trực tiếp chỉ huy việc đổi ngôi không đổ máu và diễn ra nhanh chóng.

Triều Tiền Lê, vào đời vua Long Đĩnh (1006 – 1009), bắt đầu mục nát. Vua làm việc càn rỡ, tàn bạo. Trong nước lòng dân oán thán, bên ngoài giặc Tống rình rập xâm lấn. Lúc bấy giờ, uy tín của quan Thân vệ Lý Công Uẩn ngày càng cao cả trong và ngoài triều. Nhà sư Vạn Hạnh có lần nói với Lý Công Uẩn: "Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân lại đang nắm binh quyền trong tay, đứng đầu muôn dân, chẳng phải Thân vệ thì ai đương nổi nữa". Đó là ý tưởng táo bạo và hợp thời của nhà sư Vạn Hạnh… Tuy nhiên, để thực hiện thành công ý tưởng đó và góp phần xây dựng triều Lý hưng thịnh cần có sự trợ giúp đắc lực của quan Chi hậu Đào Cam Mộc.

Tháng 7, ngày Tân Hợi, năm Kỷ Dậu (1009), vua Lê Ngọa Triều băng hà, thái tử còn bé. Lý Công Uẩn cùng với Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyên Đê mỗi người đem 500 quan Tùy Long vào làm túc vệ. Theo sách Đại Việt Sử ký toàn thư, khi ấy Chi hậu Đào Cam Mộc nhân lúc vắng nói với Lý Công Uẩn rằng: "Bấy nay, chúa thượng ngu tối và bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, nên trời không cho hưởng thọ mà con nối thì thơ ấu, không thể kham nổi việc lớn đầy khó khăn, trăm sự đều phiền nhiễu, thần linh không ưa, dân chúng nháo nhác tìm chân chúa. Vậy, sao Thân vệ không nhân cơ hội này mà nghĩ mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa thì xem dấu cũ của vua Thang, vua Vũ, gần thì xem việc của họ Đinh, họ Lê… trên thuận lòng trời, dưới hợp lòng người, chứ cứ khư khư giữ chút tiết hạnh bề tôi nhỏ nhoi hay sao?"

Lý Công Uẩn sợ Đào Cam Mộc có mưu khác nên dọa bắt nạp cho bá quan. Đào Cam Mộc không sợ mà nói tiếp: "Tôi thấy việc trời và người như thế cho nên mới dám nói ra. Nay ông muốn tố cáo tôi thì tôi cũng xin thưa rằng tôi đâu sợ chết!". Lý Công Uẩn nói: "Tôi đâu nỡ tố cáo ông, chẳng qua vì sợ lời nói của ông mà tiết lộ ra thì chúng ta đều phải chết nên mới răn như thế đó thôi".

Ghi chép về việc này, sử sách có ghi: “Ngay ngày hôm đó, Đào Cam Mộc nói với triều thần rằng hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy tai biến gì, chúng ta có giữ được cái đầu không? Mọi người vui vẻ nghe lời, dìu Lý Công Uẩn lên điện, tôn lên ngôi Hoàng đế, trăm quan đều quỳ dưới sân, tung hô vạn tuế”.

Theo sử ghi như vậy thì: Cuộc thay ngôi diễn ra nhanh chóng. Vai trò của Đào Cam Mộc như vậy thực là quan trọng. Chắc chắn là ông đã ngầm vận động các triều thần. Thực tế trong triều tất thể nào cũng còn hoàng thân quốc thích nhà Lê cùng những kẻ cận thần sủng ái của Ngọa Triều. Vậy mà cuộc đảo chính diễn ra êm thấm, “vui vẻ” không có một phản ứng chứng tỏ sức sắp đặt, bài binh bố trận tài tình của Đào Cam Mộc. Sự kiện này mở ra triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm (1009 – 1225).

Đào Cam Mộc, vị công thần triều Lý hết lòng chăm lo việc dân, việc nước.

Ngoài công lớn trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, Đào Cam Mộc còn có công giúp Lý Công Uẩn xây dựng cơ nghiệp nhà Lý buổi ban đầu. Vì vậy, ông đã được Lý Thái Tổ phong tước là Nghĩa Tín hầu, sau này thăng đến chức Thái sư và gả công chúa đầu là An Quốc cho ông. Khi triều chính tạm ổn định, tháng 2 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) nhà vua cùng phò mã Đào Cam Lộc đi kinh lí các tỉnh miền ngoài để tìm đất định đô lâu bền. Và quyết định rời đô về Thăng Long của Lý Thái Tổ cũng có một phần đóng góp ý tưởng và công sức của Đào Cam Mộc.

Thái sư Vương Đào Cam Mộc. (Nguồn Internet)

Theo hai bản thư tịch Ngọc phả tướng Đào Cam Mộc và Công chúa Thiềm Hoa – An Quốc tại phủ Vũ Bị, xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam và bản Tự phả chùa Đông Hải – chùa Thiên Đô, nay là đền Vệ xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, cho ta biết thêm một số tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của vị công thần bậc nhất triều Lý.

Ngọc Phả phủ Vũ Bị do Tiến sĩ Phạm Tráng quê ở Dụng Nhuệ, huyện Giáo Thủy, tỉnh Nam Định, soạn ngày 2-2 niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (Nhâm Tuất 1502). Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) được Tam giáp Ngô Thế Vinh quê Bái Dương huyện Nam Trực (Nam Định) chép. Trong Phả chép rằng, mùa xuân năm 1010, Lý Thái Tổ về quê Kinh Bắc thăm tổ đường, trên đường trở lại Hoa Lư, Lý Thái Tổ ghé thăm đất Hương Ngư, huyện Thượng Hiền (nay là thôn Vũ Bị, xã Vũ Bản), các cuộc tuần du có phò mã Đào Cam Mộc hầu giá, coi như chuyến khảo sát cuối cùng cho công cuộc dời đô.

Bản "Tự phả chùa cổ Đông Hải", do Minh Tuệ thiền sư trụ trì chùa chép năm Canh Tý (1840), cũng theo Ngọc phả thời Lê do Quản giám bách thần Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc (1557) ghi rằng: Chùa này có từ thời Đinh – Tiền Lê, gần biển nên gọi là chùa Đông Hải. Thời trẻ Đào Cam Mộc từng tu học, giỏi võ, thông văn được sư tổ cho đi tìm minh quân, sau đó ông vào Hoa Lư làm quan cho nhà Tiền Lê, nhà Lý. Tháng 6-1010, Lý Thái Tổ phong Đào Cam Mộc chức Thiên Đô tiên phong tướng quân chỉ huy cuộc dời đô, tại đây triều đình làm Lễ tế cáo trời đất, xuất quân nên từ đó đổi tên là chùa Thiên Đô.

Tương truyền, khi được vua Lý Thái Tổ trao trọng trách dời đô, Đào Cam Mộc chuẩn bị hai đoàn thuyền gồm 300 chiếc, một ngả đi đường biển qua vùng đất huyện thành Đại La; một ngả nơi sông Nhị cũng lên thành Đại La. Khi thuyền đến chân thành, thấy có hai con rồng vàng hiện ra chào đón, nhà vua mới gọi là kinh thành Thăng Long.

Thấy đất Vũ Bị thế đẹp, dân làng thuần hậu, phò mã xin vua nhận đất để sau này đưa công chúa về ở. Tại đây, vợ chồng ông khuyên dân tương thân xư xử, tương trợ cấy cày, xây dựng thuần phong mỹ tục. Công chúa An Quốc xuất tiền riêng mở mang ruộng đất, xin vua cha dựng bia thế nghiệp, đến nay phủ Vũ Bị còn giữ hai tấm đá cổ, các nhà chuyên môn gọi là Thạch Kiệt, hiểu chung là mốc ruộng đất "Sắc cấp tứ" nhà vua cấp cho người có công. Thạch Kiệt được dựng vào năm Hồng Thuận thứ 5, ngày 25-2 năm 1513, ghi chép trên 140 mẫu ruộng ở các xứ trong vùng, xa nhất là đồng Ba, thuộc xã Đồn Xá, huyện Bình Lục. Các di tích thờ vợ chồng Đào Cam Mộc đều có đền miếu nguy nga, được các vua nhà Nguyễn ban 10 đạo sắc phong, các nhà khoa bảng đề thơ ca tụng… Hằng năm dân làng thường xuyên mở hội.

Sớm khôi phục các đền thờ Đào Cam Mộc

Sau 6 năm phò Lý Thái Tổ ổn định triều chính, Thái sư Đào Cam Mộc đã tạ thế tại tư dinh nay thuộc đất Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội) năm Thuận Thiên thứ 6 (1015). Để ghi nhớ công ơn vị khai quốc công thần, Lý Thái Tổ đã truy phong cho ông chức vị cao nhất là Á Vương, cho xây đền thờ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc ngay tại tư dinh và ban tặng câu đối: "Lý triều định đô vương tứ phúc/ Đào trạng văn quan Quốc ân thân".

Cùng với đền thờ tại tư dinh trên đất Cổ Loa, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc cũng được lập đền thờ tại nhiều nơi. Ông là một trong 3 vị quan (Đào Cam Mộc, Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu) được thờ ở Võ chỉ thuộc đền thờ Lý Bát Đế (Đền Đô, thuộc xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh).

Nhà Võ Chỉ ở Đền Đô, nơi thờ Đào Cam Mộc, Lê Phụng Hiểu và Lý Thường Kiệt. (Nguồn Internet)

Tại quê hương, huyện Yên Định (Thanh Hóa), ông được dân thờ ở 3 nơi là chùa Hưng Phúc (xã Đinh Tiến, quê nội), nghè làng Nam Thạch (xã Yên Trung, nơi có đền thờ chính) và nghè làng Bùi Hạ (xã Yên Phú). Các triều đại sau này đều đánh giá cao công lao của Đào Cam Mộc đối với đất nước và phong ông là Thượng thượng đắng Tối linh Phúc thần. Điều này được ghi trong một số sắc phong còn lại được giữ tại xã Yên Trung, huyện Yên Định, Thanh Hóa ngày nay.

Tuy nhiên, cả 3 nơi thờ phụng này đều đã bị phá hủy bởi chiến tranh hoặc đổ nát cách đây hơn nửa thế kỷ. Nhưng dù vậy, câu đại tự tại làng Nam Thạch: "Sinh vi Lý Tướng, tử vi Lê thần" (Sinh làm tướng nhà Lý, chết làm thần nhà Lê) vẫn được lưu truyền trong dân gian. Từ nhiều năm nay, các nhà khoa học đang kiến nghị, đề xuất để sớm khôi phục lại đền thờ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc giúp cho các thế hệ sau hiểu rõ hơn và tưởng nhớ đến công ơn của vị Thái sư Á vương Đào Cam Mộc tài đức xuất chúng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Lan Phương (tổng hợp)

Nguồn:

- Vũ Thanh Sơn, Các vị thần thời Lý, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội – 2011.

- Các đại công thần trong lịch sử Việt Nam, Nxb Lao động, 07/2013.

- Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, 1972.

Từ khóa » đào Cam Lộc