Thần Tướng Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương - Du Lịch

Thấn tướng, đức vua Bố Cái Đại Vương- Phùng Hưng

Đường Lâm mới có Phùng Hưng

Đã tài kiêu dũng lại lưng phú hào

Cõi Tây nổi việc cung đao, Đô Quân tôn hiệu, Tản-Thao hiệp tình.

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Giang sơn thời Bắc thuộc lần III

Bản đồ Việt Nam giai đoạn Bắc thuộc lần thứ III. Ảnh Pavo Xie

Ngay từ cuối thời trị vì của Đường Huyền Tông (712-756), triều đình nhà Đường gặp không ít khó khăn cả về đối nội lẫn đối ngoại. Trong nước, năm 755, tướng An Lộc Sơn nổi binh làm phản, ngoài biên thì người Thổ Phồn luôn đem quân tới đánh phá, đó là chưa kể tình hình bất ổn triền miên ở các Đô Hộ Phủ.

Dưới thời trị vì của Đường Túc Tông (756-762), Đường Đại Tông (762-779) và Đường Đức Tông (779-805), khó khăn của nhà Đường càng thêm chồng chất bởi sự công khai chống đối của các Tiết Độ Sứ ở khá nhiều phiên trấn. Thư tịch cổ của Trung Quốc cho biết :

Đầu thời Đường Đại Tông, Tiết Độ Sứ của trấn Lư Long (vùng Bắc Bình của Trung Quốc ngày nay), Tiết Độ Sứ của trấn Ngụy Bắc (vùng Trực Lệ của Trung Quốc ngày nay), Tiết Độ Sứ của trấn Thành Đức (cũng thuộc vùng Trực Lệ của Trung Quốc ngày nay)... nguyên là hàng tướng của nhà Đường, đến đây cũng không chịu tuân theo mệnh lệnh của triều đình nữa.

Dưới thời Đường Đức Tông, những viên tướng như Vương Vũ Tuấn, Điền Duyệt, Lý Nạp, Chu Thư, Lý Hy Liệt, Lý Hoài Quảng... đã nối nhau làm loạn, khiến cho Đường Đức Tông buộc phải mấy phen bỏ kinh thành tháo chạy.

Ở khá nhiều trấn khác, chức Tiết Độ Sứ bị các quan trấn trị coi là chức cha truyền con nối, triều đình nhà Đường đành phải chịu chấp thuận chứ không còn có quyền tấn phong nữa.

Tình hình chính trị diễn biến ngày một phức tạp nhưng biện pháp quản lí của nhà Đường lại thường là thiếu nhất quán và cứ liên tục đổi thay một cách không cần thiết.

Năm Kỉ Mão (679), Đường Cao Tông (649-683) đặt ra An Nam Đô hộ phủ thì đến năm Đinh Dậu (757)Đường Túc Tông (756-762) đã cho đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Trấn Nam Đô Hộ Phủ và chỉ hơn mười năm sau, năm Nhâm Thân (768), Đường Đại Tông (762-779) lại cho đổi Trấn Nam Đô Hộ Phủ thành An Nam Đô Hộ Phủ như cũ.

Mỗi lần đổi tên như vậy là một lần thay đổi bộ máy quan lại đô hộ mới và cứ mỗi lần thay đổi bộ máy cai trị là một lần nhân dân khắp cõi buộc phải nai lưng ra làm việc để đóng góp thêm cho giặc.

Nửa sau của thế kỉ VIII, Cao Chính Bình (232) được triều đình nhà Đường cho giữ chức đứng đầu An Nam Đô Hộ Phủ. Đây là một trong những viên quan khét tiếng tàn bạo và tham lam, hắn dã vắt óc nghĩ ra đủ mọi thứ có thể thu vào để vơ vét cho riêng thân.

Bấy giờ, không phải chỉ nhân dân ta mà ngay cả binh lính dưới quyền của Cao Chính Bình cũng không sao chịu đựng nổi. Một làn sóng phản kháng khá mạnh mẽ và chẳng bao lâu sau đó là một cuộc binh biến đã nổ ra ngay trong thành Tống Bình (233) khi Cao Chính Bình đến nhận chức chưa được bao lâu. Sự kiện này đã khiến cho toàn bộ guồng máy chính quyền đô hộ phủ một phen thất điên bát đảo.

Theo ghi chép của VIỆT ĐIỆN U LINH thì tổ tiên của hai anh em Phùng Hưng và Phùng Hãi đời đời nối nhau làm Quan Lang ở vùng Đường Lâm. Sinh thời, Phùng Hưng cũng từng giữ chức này.

Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ. Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Khai Nguyên, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người (theo bia Quảng Bá).

Làng cổ Đường Lâm, nơi sinh thành của đức ông Phùng Hưng - vua Bố Cái Đại Vương

Theo thần tích, đức ông Phùng Hạp Khanh lấy vợ là bà Sử Thục Nương. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô, lớn lên ai cũng có thần lực, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ mất.

Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Đức ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ông đánh được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ bằng mưu kế, đem lại bình yên cho làng xóm, tới giờ nhân dân Đường Lâm còn lưu truyền. Em trai ông là Phùng Hãi cũng lừng danh không kém.

Theo thần tích Đường Lâm, đức ông Phùng Hưng có hai người vợ là Nguyễn Thị Hồng Loan, Nguyễn Thị Ngọc Nhị và được một con trai là Phùng An.

Đời truyền rằng Phùng Hãi có thể “mang được tảng đá nặng trên ngàn cân, đội được thuyền có sức chở cả ngàn hộc mà đi xa tới mười dặm". Dânkhắpvùngaiaicũngđều nể phục.

Ba anh em Phùng Hưng, Phùng Hải, Phùng Dĩnh lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa làm chủ Đường Lâm, rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc.

Đức ông Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng không phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.

Rất tiếc là tất cả các tài liệu hiện có đều không cho biết năm sinh của hai anh em Phùng Hưng và Phùng Hãi. Phùng Hưng mất năm Tân Mùi (791) còn Phùng Hãi thì mất năm nào chưa rõ.

Nguồn: Tổng hợp InterNet

Ths Nguyễn Thy Ngà

Từ khóa » Bố Cái đại Vương Phùng Hưng đóng đô ở đâu