Trang
- Trang chủ
- - Hướng dẫn sử dụng trang Web
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN (Viên Minh)
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN Thời gian | Tiến trình | Tương đương | Nhân quả | Sinh | Diệt |
Quá khứ | Vô minh Hành | Ái - Thủ - Hữu | Nhân | Tập đế | Đạo đế |
Hiện tại | Thức Danh sắc Lục nhập Xúc - Thọ | Sinh - Lão - Tử | Quả | Khổ đế | Diệt đế |
Ái -Thủ - Hữu | Vô minh - Hành | Nhân | Tập đế | Đạo đế |
Vị lai | Sinh - Lão - Tử | Thức - Danh sắc Lục nhập -Xúc - Thọ | Quả | Khổ đế | Diệt đế |
Thập nhị nhân duyên là 12
điều kiện tùy thuộc vào nhau mà sinh và cũng tùy thuộc vào nhau mà diệt, có cái này thì có cái kia, không có cái này thì không có cái kia. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt.Trong Tứ diệu
đế, Thập nhị nhân duyên sinh chính là tập
đế, khổ đế. Thập nhị nhân duyên diệt chính là
đạo đế, diệt đế. Vậy Thập nhị nhân duyên chỉ là cách nói khác của Tứ diệu
đế, chứ không phải như người ta thường hiểu lầm Tứ diệu đế là pháp môn tu của Thanh V
ăn và Thập nhị nhân duyên là pháp môn tu của Duyên Giác. Chỉ vì trùng nhau chữ duyên mà người ta liên tưởng một cách sai lầm. Trên thực tế, ai muốn tu hành thành Phật cũng
đều phải tu Tứ diệu đế mà trong
đó đã bao hàm 12 nhân duyên.Có hai cách hiểu Thập nhị nhân duyên: - Một là hiểu như vòng luân hồi sinh tử trong 3 thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.- Hai là hiểu như tiến trình tâm-sinh-vật lý
được điều động bởi vô minh, ái dục trong 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai (đây chỉ nói Thập nhị nhân duyên sinh). Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt trình bày 2 ý nghĩa trên của Thập nhị nhân duyên:* Trước tiên Thập nhị nhân duyên mô tả diễn biến của vòng luân hồi sinh tử trong 3 thời:Trong những kiếp quá khứ, do thiếu sáng suốt (
vô minh) chúng ta
đã tạo các hạnh nghiệp (
hành), rồi thác sinh vào những cảnh giới tương ứng trong hiện tại. Kiếp sống quá khứ chấm dứt với tử tâm (
cuti).Sau
đó thức tái sanh, tức là kiết sinh thức (
patisandhi-viññāna) khởi lên nối liền với kiếp sống hiện tại.Thức này còn gọi là hương ấm thuộc về danh (tâm), kết hợp với tinh cha huyết mẹ thuộc về sắc (
thân), tạo thành sự sống của cái phôi gồm
đủ hai yếu tố danh và sắc nên gọi là danh sắc.Dần dần cái phôi lớn lên, sắc hình thành mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gọi là ngũ c
ăn, và danh hình thành từ thức gọi là ý c
ăn. Năm căn hòa hợp với ý c
ăn tạo thành tác dụng của lục nhập, tức là 6 cơ quan tiếp nhận
đối tượng của chúng. Khi hình thành một thai nhi
đủ điều kiện ra khỏi bụng mẹ, hài nhi ra
đời và lục c
ăn bắt đầu tiếp xúc với lục trần. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.Sự tiếp xúc giữa c
ăn trần vừa xảy ra thì liền có thọ, tức là những cảm giác khổ, lạc, xả và hỷ. Nói
đến xúc tức là
đã bao hàm các thức, vì vậy ở
đây: - Nhãn thức thọ xả. - Nhĩ thức thọ xả. - Tỷ thức thọ xả. - Thiệt thức thọ xả. - Thân thức thọ khổ và lạc. - Ý thức thọ xả và hỷ (
chưa có ưu).
Đã có khổ, lạc, xả, hỷ, thì liền có ưa, ghét khởi lên.
Đó là ái. Ở
đây ái chính là dục ái, hữu ái, phi hữu ái hoặc dục ái, sắc ái, vô sắc ái như chúng ta
đã nói trước
đây (đến đây mới có ưu). Khi
đã có ưa, ghét (
ái) thì ưa sinh
đam mê, ghét sinh hiềm hận. Sự nắm giữ ái như vậy gọi là thủ. Nói rõ hơn thủ có 4 loại: - Dục thủ là nắm bắt lục dục. - Kiến thủ là chấp giữ quan niệm. - Giới cấm thủ là chấp giữ hình thức, nghi lễ. - Ngã luận thủ là chấp giữ bản ngã, linh hồn. Do chấp thủ tư kiến, tư dục, hình thức và bản ngã mà chúng ta tạo nghiệp.
Đó chính là hữu. Hữu tức là tạo tác
để trở thành (
becoming), có nghĩa là tạo nghiệp bất thiện, thiện và bất
động. Ái có dục ái, sắc ái, vô sắc ái nên hữu (
nghiệp) cũng có dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, nghĩa là tạo nghiệp
để tái sinh trong tương lai ở 3 cõi 6
đường. - Nghiệp bất thiện thì tương lai tái sinh trong 4
đường khổ: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la. - Nghiệp vừa thiện vừa bất thiện thì tương lai tái sinh vào cõi người. - Nghiệp thiện thì tương lai tái sinh trong các cõi trời dục giới như Tứ
đại thiên vương,
Đao lợi, Dạ ma, Đâu suất, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên. - Nghiệp sắc giới thì sẽ tái sinh vào các cõi sắc giới, tùy theo sự chứng
đắc của mình. - Nghiệp bất
động thì tương lai tái sinh trong các cõi vô sắc giới, tùy theo khả n
ăng thiền định của mình. Khi
đã tái sinh thì lại tạo nghiệp và
đưa đến già chết (
lão tử), cứ thế sinh sinh tử tử trong vòng luân hồi lẩn quẩn triền miên.Tóm lại, từ vô minh
đến ái dục, từ tạo nghiệp đến gặt quả, từ tái sinh đến già chết,
đó là những gì
được mô tả rõ ràng qua các yếu tố
điều kiện phát sinh trong Thập nhị nhân duyên.Có người hỏi:
- Nếu Thập nhị nhân duyên được dùng giải thích vòng luân hồi tái sinh thì có phải chăng vô minh chính là khởi thủy hay nguyên nhân đầu tiên của chúng sinh? Thập nhị nhân duyên có phải là vũ trụ quan hoặc nhân sinh quan Phật giáo không? - Vô minh là nguyên nhân nhưng không phải là nguyên nhân
đầu tiên của luân hồi sinh tử, vì là
điều kiện phát sinh nên vô minh vừa là nguyên nhân của vòng sinh tử sau, vừa là kết quả của vòng sinh tử trước, nghĩa là vô minh cũng do nhân duyên phát sinh, không nên hiểu vô minh như là
Đấng Tạo Hóa. Cũng
đừng gán cho Thập nhị nhân duyên nhãn hiệu vũ trụ quan hay nhân sinh quan. Thập nhị nhân duyên chỉ mô tả trình tự duyên khởi của diễn tiến tâm-sinh-vật-lý do vô minh
điều động mà thôi.Có lẽ chúng ta ai cũng có thể chấp nhận cách giải thích theo truyền thống như
đã trình bày ở trên, nhưng bây giờ chúng ta thử tìm hiểu một ý nghĩa khác của Thập nhị nhân duyên, thực tế hơn, gần gủi hơn ngay trong
đời sống hàng ngày của chúng ta.
Đức Phật dạy: "Thấy Thập nhị nhân duyên tức thấy pháp, thấy pháp tức là thấy Như Lai". Chúng ta cũng
đã biết pháp là thiết thực hiện tại hay thực tại hiện tiền, vượt khỏi thời gian, tự mình chứng nghiệm từ bên trong.Nếu thấy
được Thập nhị nhân duyên sinh thì chúng ta cũng có thể thấy
Thập nhị nhân duyên diệt. Như vậy ngay trong hiện tại chúng ta có thể giác ngộ ra sự thật duyên khởi này, và nhờ
đó có thể chấm dứt vòng luân hồi sinh tử ngay tại
đây và bây giờ vì pháp là thiết thực hiện tại, vượt khỏi thời gian, có phải vậy không? Ngày xưa, ngay khi
Đức Phật thuyết về Thập nhị nhân duyên, có rất nhiều vị giác ngộ ngay lập tức và chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử.Nếu chúng ta có thể thay
đổi tiến trình tâm hay chấm dứt ngũ uẩn (
bản ngã) ngay bây giờ, thì chính là chúng ta
đã chấm dứt vòng duyên khởi tái sinh.Thập nhị nhân duyên chỉ là triển khai rộng rãi và chi tiết hơn của ngũ uẩn hay tiến trình tâm mà thôi. Thập Nhị Nhân Duyên và Ngũ Uẩn Trong quá khứ, nếu thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ sinh khởi trong tình trạng si mê, bất giác, thất niệm, tức là bị vô minh chi phối, thì ái, thủ và hữu cũng phát sinh,
đó là hành. Vô minh và hành trong quá khứ là nhân tái sinh khởi thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ trong hiện tại. Từ
đó lại phát sinh ái, thủ, hữu. So với ngũ uẩn chúng ta thấy:
Như vậy ngũ uẩn tương
đương với phần hiện tại của Thập nhị nhân duyên. Thực ra chúng ta chỉ cần duyên khởi trong hiện tại từ
thức đến hữu tức là chúng ta có thể thấy duyên khởi trong quá khứ. Tuy trong quá khứ chỉ nói vắn tắt là vô minh và hành, nhưng trong thực tế cũng bao gồm từ thức
đến hữu như trong hiện tại. Trong tương lai cũng vậy, từ
sinh đến lão tử chính là từ
thức đến hữu như trong hiện tại.
Thức khởi sinh rồi
đi xuyên suốt qua danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu và cuối cùng thức làm công tác của thức uẩn là ghi lại tiến trình vừa trải qua. (
Tương đương đồng sở duyên trong tiến trình tâm của Abhidhamma và A-lại-da của Duy Thức).Tóm lại phần hiện tại của Thập nhị nhân duyên chính là tiến trình ngũ uẩn vậy. Thập Nhị Nhân Duyên Với Tiến Trình Tâm Như chúng ta
đã biết, một tiến trình tâm trong quá khứ
được đồng sở duyên ghi lại và chìm vào hữu phần. Khi có một
đối tượng tác động qua 5 môn hoặc qua ý môn thì thức lại hiện khởi.
Đó cũng chính là thức trong Thập nhị nhân duyên.
Sau khi thức hiện khởi, tiếp nhận
đối tượng thì Javana phản ứng trên
đối tượng. Javana chính là ái, thủ, hữu trong Thập nhị nhân duyên.
Trong Thập nhị nhân duyên vai trò của
đồng sở duyên
được hiểu ngầm, nhưng thật ra nó vẫn có mặt giữa hữu và sinh lão tử.
Để thấy rõ hơn chúng ta thử xem Thập nhị nhân duyên diễn ra theo tiến trình tâm như thế nào? Giả sử chúng ta
đang ngồi đây hoặc đang đi lui tới như thế này trong trình trạng si mê, bất giác, không sáng suốt, thiếu tỉnh thức, nghĩa là chúng ta
đang ở trong trạng thái vô minh. Lúc
đó tâm chúng ta rất dễ vọng động, vì nó ẩn chứa và sẵn sàng phát sinh các ái
đó chính là hành.Vậy một tâm thức không sáng suốt, dễ vọng
động chính là vô minh và hành. Trong
điều kiện sẵn có như vậy, nếu có một đối tượng tác động vào, thì thức sẽ khởi lên kết hợp với sắc c
ăn để tiếp nhận đối tượng ấy. Kết hợp đó gọi là danh sắc. Sự kết hợp trong trình trạng như thế không
được trong sáng, hỗn độn và bất an.
Đó chính là một hỗn hợp thân-tâm không sáng suốt,
định tĩnh, trong lành hay nói một cách khác là thân tâm thiếu
điều phục. Danh-sắc là từ
để gọi chung một tổ hợp thân tâm gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Vì vậy danh-sắc sẽ hiện rõ trong từng c
ăn tùy theo
đối tượng trần cảnh mà khởi sinh lục nhập.Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thuộc về sắc. Ý thuộc về danh. Nếu
đối tượng là sắc tướng thì mắt khởi dụng, nếu
đối tượng là âm thanh thì tai khởi dụng, v.v...
Mắt khởi dụng có nghĩa là tiếp nhận sắc tướng. Nhưng sự tiếp nhận chỉ thực sự xảy ra khi có sự tham dự của nhãn thức.Sự kết hợp giữa c
ăn trần và thức gọi là xúc (
trong ngũ uẩn gọi là sắc uẩn). 6 c
ăn + 6 trần + 6 thức = xúc Khi có tiếp xúc của c
ăn-trần-thức thì thì thọ liền phát sinh. Trong Thập nhị nhân duyên, thọ vừa
đóng vai trò cảm giác, vừa
đóng vai trò tri giác.
Sau khi tiếp nhận
đối tượng (xúc) với
đầy đủ cảm giác (thọ) và tri giác (
tưởng), ý chí (
tư) bắt
đầu phản ứng trên
đối tượng. Phản ứng ấy được biểu hiện qua thái độ ưa, ghét (ái), bám víu (
thủ), và tạo tác (
hữu). Như vậy ái, thủ, hữu chính là hành trong
ngũ uẩn và
Javana (
tốc hành tâm) trong
tiến trình tâm.
Ví dụ: khi tai nghe một âm thanh khó chịu, có nghĩa là thức → danh sắc → lục nhập → xúc
đưa đến thọ khổ. Thọ khổ đưa đến ghét tức là
phi hữu ái. Nếu âm thanh dễ chịu tức là thọ lạc, thọ lạc
đưa đến ưa thích - hữu ái. Nếu âm thanh không gây khó chịu hay dễ chịu, tức là thọ xả,
đưa đến tâm khởi lên tìm kiếm lạc thọ,
đó là
dục ái.
Nhưng người ta không
đơn giản chỉ ưa hay ghét rồi thôi mà ưa ghét trở thành thành kiến, quan niệm, cố chấp,
đam mê, thù hận, v.v... do
đó ái đưa đến thủ.Nếu chúng ta ưa một cái gì thì thành
đam mê cái
đó. Nếu chúng ta ghét một cái gì thì thành thù hận cái
đó. Vậy đối với trần cảnh đam mê hay thù hận chính là
dục thủ.Cố chấp
đối với ưa hay ghét đưa đến thành kiến, quan niệm. Ưa thì dễ sinh thường kiến, ghét thì dễ sinh
đoạn kiến, rồi chấp chặt quan niệm đó nên gọi là
kiến thủ.Xét cho cùng thì dục thủ hay kiến thủ cũng
đều phát xuất từ chấp ngã. Nếu không chấp bản ngã thì lấy ai chấp ưa ghét hay thường
đoạn, có phải vậy không? Chấp ngã chính là
ngã thủ.Dục thủ, kiến thủ, ngã thủ
đưa đến hình thành những phong cách, những
đời sống, những hình thức nghi lễ, những tập tục tín ngưỡng, rồi người ta tự trói buộc vào những quy phạm mà người ta
đã
đặt ra. Đó là
giới cấm thủ.
Nói chung, thủ là chấp trước. Nếu chỉ mới chớm sinh ưa ghét mà chúng ta giác kịp thì cũng chưa sao. Nhưng khi
đã cố chấp thì chúng ta liền tạo tác l
ăng xăng. Tạo tác chính là hữu hay nói cho dễ hiểu là tạo nghiệp.Do dục ái, hữu ái, phi hữu ái, chúng ta
đã tạo nghiệp trong 3 cõi là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.
Đến đây chúng ta cần lưu ý một điểm là dù chúng ta
đắc các thiền định trong sắc giới hoặc vô sắc giới, thì vẫn do ái-thủ-hữu mà ra (
trừ Thánh định). Rất nhiều người ưa thích thiền
định vì ham mê n
ăng lực và hỷ lạc của thiền
định. Như vậy là bị ái-thủ-hữu chi phối rồi, không thể nào chấm dứt luân hồi sinh tử
được. Đức Phật chỉ dùng thiền
định với 2 mục đích chính: một là
đoạn trừ các phiền não do 5 triền cái che lấp (
Nānākilesappahānam), hai là tồn tâm dưỡng tánh, hay nói một cách khác là nghỉ ngơi trong trạng thái tích cực gọi là hiện tại lạc trú (
ditthadham-masukhavihārā). Nhờ tâm an ổn mà trí tuệ soi chiếu
đưa đến hoàn toàn giải thoát giác ngộ.Như vậy, Thập nhị nhân duyên trong hiện tại còn lại 8
điều kiện phát sinh (trừ 2 điều kiện quá khứ và 2 điều kiện tương lai). 8
điều kiện này tương
đương với 6 giai đoạn trong tiến trình tâm:
Chúng ta cần lưu ý khi
đem so sánh 8 điều kiện hiện tại của Thập nhị nhân duyên với ngũ uẩn, chúng ta thấy
đó chỉ là 2 cách diễn
đạt khác nhau của cùng một hiện tượng. Nhưng khi
đem so sánh 8 điều kiện này với tiến trình tâm thì ta thấy chúng chỉ tương
đồng trong tam giới mà thôi. Tiến trình tâm siêu thế (
lokuttara) không còn so sánh với Thập nhị nhân duyên sinh
được nữa. Như vậy, Thập nhị nhân duyên sinh chỉ là tiến trình tâm trong tam giới (
lokiya). Vì tốc hành tâm có 2 loại: tốc hành tâm siêu thế (
lokuttarajavana) và tốc hành tâm trong tam giới (
lokiyajavana). Ái, thủ, hữu chính là tốc hành tâm trong tam giới, chứ không phải tốc hành tâm siêu thế.Trong tiến trình tâm siêu thế, tốc hành tâm không còn ái, thủ, hữu mà
được thay bởi Đạo Tuệ và Quả Tuệ. Tuệ tức là minh, khi minh soi chiếu thì Thập nhị nhân duyên diệt.Vậy tiến trình tâm siêu thế chính là tiến trình Thập nhị nhân duyên diệt:
Thập nhị nhân duyên sinh = tiến trình tâm hiệp thếThập nhị nhân duyên diệt = tiến trình tâm siêu thếVậy thế nào là Thập nhị nhân duyên diệt? Giả sử chúng ta
đang ngồi đây hay đi lui đi tới như thế này trong tình trạng hoàn toàn tỉnh thức, hoàn toàn sáng suốt, không mê muội, biết rõ thân tâm và hoàn toàn an tĩnh, nghĩa là không bị vô minh và hành chi phối. Nếu bây giờ có một
đối tượng khởi sinh, chẳng hạn như tai nghe một âm thanh hay mắt thấy một hình sắc, nhờ ở trong trình trạng tự chủ, ổn
định (tịnh) và sáng suốt, tỉnh thức (
minh) nên thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ
đều được soi sáng trong định tuệ. Khi cảm giác và tri giác trong sáng, chính xác, không bị ảo giác, ảo tưởng xen vào thì hành
động sẽ không bị chi phối bởi ái, thủ, hữu nữa, và vì vậy sẽ không còn nhân tạo tác sinh-lão-tử trong tương lai. Nghĩa là sinh tử chấm dứt.Vậy Thập nhị nhân duyên diệt vừa có nghĩa là chấm dứt vòng luân hồi sinh tử trong tam giới, mà cũng có nghĩa là chấm dứt sinh tử luân hồi ngay khi sự sống
đang vận hành, vì luân hồi sinh tử chỉ là ảo ảnh
đối với sự sống đích thực. Nói cho dễ hiểu là ngay khi chúng ta
đang nói năng, hành
động, suy nghĩ mà vẫn sáng suốt,
định tỉnh, trong lành một cách hoàn toàn thì chúng ta
đang thoát khỏi sự trói buộc của vòng sinh tử vô minh ái dục.
Posted by Phật Pháp Chân Thật Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest Labels: Khoa Học Pháp, Vi Diệu Pháp Không có nhận xét nào:
Trang chủ Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)
Tìm kiếm trong Phật Pháp Chân Thật (this site)
Phân loại
- Các Pháp Chân Thật (110)
- Cơ bản hành thiền (27)
- Cơ bản Phật Pháp (Hãy đến để thấy) (65)
- Cuộc đời Đức Phật Gotama (11)
- Giáo Trình và Đạo Lộ (17)
- Giới (35)
- Hỏi đáp Phật Pháp (19)
- Khoa Học Pháp (38)
- Không phân loại (162)
- Kinh Nguyên Thủy (67)
- Luân Hồi Tái Sinh (41)
- Niết Bàn (19)
- Suy nghĩ... (38)
- Sự thật phũ phàng (39)
- Thần Thông Pháp (8)
- Thiền đi vào cuộc sống (20)
- Tuệ (Huệ) (12)
- Vi Diệu Pháp (35)
- z Bài viết quan điểm riêng (7)
- z Bí mật Pháp (109)
- z Các tông phái Phật Giáo Hiện Nay (10)
- z Cảm động Pháp (5)
- z Có thể hiền giả chưa biết (19)
- z Hãy coi chừng (20)
- z Mê tín dị đoan (21)
- z Nói trước công chúng (5)
- z Pháp Luận Thời Đại (38)
- z Phật Pháp nhập Phật Tử (29)
- z Song Ngữ (15)
- z Thiền Pháp Bốn Phương (8)
- z Tôn giáo - tâm linh (29)
- z Từ Điển (3)
- z Xã hội pháp (43)
- z2 Sách Lưu Trữ (79)
- z4 Video tổng hợp (2)
Bài phổ biến trong năm
- Sư ông Thích Thông Lạc nêu ra những giả dối của pháp Đại Thừa Ngày nay không còn ngăn sông cách núi và không “đói” thông tin như ngày xưa nữa. Cho nên, mọi thứ điều được rõ ràng: “Kinh Giả”, “Kin...
- Nguồn gốc Kinh Đại Thừa là do các sư viết ra - Nguyễn Trung Hiếu Sau hơn 500 năm kể từ khi Phật nhập diệt, Phật giáo Đại thừa mới bắt đầu xuất hiện và từ đó những bộ phái khác đều bị Phật giáo Đại th...
- Chỉ có 1 pháp môn giải thoát chứ không phải có 84 ngàn pháp môn như các sư Đại Thừa nói Pháp môn giải thoát duy nhất khỏi sinh tử luân hồi, đau khổ mà Đức Phật đã dạy trong Tạng Kinh Nguyên Thủy là Bát Chánh Đạo. Các sư Đại Thừ...
- MƯỜI PHÁP BA LA MẬT (PÀRAMÌ) -U Thittila MƯỜI PHÁP BA LA MẬT (PÀRAMÌ) Bồ Tát là một vị Phật đang thành, và như vậy Bồ Tát là một chúng sanh đang thực...
- Phật A di đà không có thật Ai tu theo đạo Phật đều biết Phật A di đà nhưng ít ai hiểu rằng Phật A di đà thật sự không có thật, chỉ là ông Phật tưởng tượng do các sư ...
- Trạng thái tâm (Sở hữu tâm) - Vi diệu pháp - TK Giác Chánh Về môn học Vi Diệu Pháp thì quan trọng nhất là phần Sở hữu tâm (trạng thái của tâm), các kiến thức khác liên quan đến Vi Diệu Pháp có thể ...
- NHƯ LÝ TÁC Ý (YONISO MANASIKĀRA) - Nguyên Kim và Như Thủy NHƯ LÝ TÁC Ý Nguyên Kim Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để...
- Kinh Ðại Hạnh Phúc (Maha Mangala Sutta)
- Luận về 4 tầng thiền vô sắc và tu tập thần thông (Henepola Gunaratana - Pháp Thông dịch) Tứ Thiền Vô Sắc Không Vô Biên Xứ Thức Vô Biên Xứ Vô Sở Hữu Xứ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ...
- Pháp môn Tịnh độ trong kinh điển Pāli (Toại Khanh -Tỳ kheo Giác Nguyên)) Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ...
Lưu trữ bài viết
- ▼ 2011 (1009)
- ▼ tháng 7 2011 (776)
- GIỚI THIỆU BỘ PHÂN TÍCH ĐẠO (PATISAMBHIDAMAGGA) CỦ...
- Về pháp quán niệm hơi thở - Pháp sư Tăng-già-bạt...
- Đức Phật Trong Cái Nhìn Của Các Nhà Khoa Học -Giác...
- Ngay Trong Kiếp Sống Này
- Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Giớ...
- Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Ngu...
- Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Mườ...
- Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Bảy...
- Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Các...
- Ngay Trong Kiếp Sống Này - Sadadaw U - Niết Bàn
- Ngay Trong Kiếp Sống Này (Sadadaw U Pandita) - Bả...
- Bản đồ hành trình tâm linh (Sách) - Thiền sư Sayad...
- Bản đồ hành trình tâm linh- Chương 1: Chuẩn bị tâm
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 2 - Các kỹ nă...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 3 - Con đường ...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 4 - Tiếp Cận T...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 5: Tuệ giác th...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 6: Tuệ tri vô...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 7 - Tuệ thứ t...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 8 Từ Tuệ Di...
- Bản đồ hành trình tâm linh (Chương 9)
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 10: Niết bàn...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Chương 11: Những su...
- Bản đồ hành trình tâm linh - Tỳ kheo Tâm Pháp dịch
- SAMATHA và VIPASSANĀ (Chỉ tịnh và Minh sát) - Tỳ K...
- PHÚT GIÂY HIỆN TẠI và BẢN CHẤT CHÂN THẬT CỦA BẠN ...
- KHỔ ĐAU VÀ GIẢI THOÁT - Eckhart Tolle
- Ý NGHĨA CỦA SỰ CHẤP NHẬN MỌI VIỆC CHẤP NHẬN TẤT C...
- LỐI VÀO CÕI VÔ TƯỚNG - ĐI SÂU VÀO CƠ THỂ -Eckhart...
- HÃY KIÊN TRÌ CHÚ TÂM VÀO PHÚT GIÂY HIỆN TẠI ĐỪNG ...
- Đức Phật Ở Đâu - Tác giả: Dr. K. Sri Dhammananda N...
- NGHIỆP LÀ GÌ? - K.Sri Dhammananda
- NGHIỆP VÀ LÝ NHÂN QUẢ - Francis Story
- HỎI VÀ ĐÁP VỀ NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP - Nina Van ...
- Tái Sanh - Ledi Sayadaw - Dịch giả Pháp Thông
- CÁC TIẾN TRÌNH TÂM CẬN TỬ - Dịch giả: Pháp Thông
- QUY LUẬT VẬN HÀNH CỦA NGHIỆP - Sayadaw U Sīlānanda
- CHÁNH KIẾN giảng giải (Sammàtthi Dìpanì) - Ledi S...
- Thiền Định trong Phật Giáo Nguyên Thủy (Viên Minh)
- Thiền Tuệ trong Phật Giáo Nguyên Thủy (Viên Minh)
- Vài Quan Sát và Gợi Ý Cho Thiền Minh Sát - Tác g...
- SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THIỀN ÐỊNH VÀ THIỀN TUỆ - Tác gi...
- TRẠCH PHÁP - Tác giả: Susan Elbaum Jootla - Dịch...
- Mahāsatipaṭṭhānasutta & chú giải Pali - Việt
- Tứ Niệm Xứ Giảng Giải - Tác giả: Goenka - Dịch gi...
- Hãy tự mình bước đi trên đạo lộ - Thiền sư GOENKA
- SỰ SUY NIỆM CỦA NỘI TÂM - thiền sư U JOTIKA
- HỎI & ĐÁP với Thiền sư GOENKA về pháp hành Vispas...
- Thiền sư Goenka - Giáo trình thực hành vispassana...
- Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 1/4
- Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 2/4
- Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 3/4
- Thiền sư Goenka - Giáo trình vispassana - Phần 4/4
- THUẬT NGỮ PĀLI & TRUNG TÂM TU THIỀN MINH SÁT TUỆ
- Tuệ phát sinh do tu tập Thiền Định và Tuệ Quán
- TƯỚNG TU CHỨNG - SAMGHARAKASA
- LUẬN VỀ CÁC NỀN TẢNG CỦA QUÁN NIỆM -Saṭipaṭṭhānaka...
- LUẬN VỀ QUÁN THỰC TÁNH «Vipassanākathā» - Paṭisamb...
- Máy đo hào quang con người RFI
- Cảm xạ học là gì?
- Sự linh nghiệm Bùa chú trên bia mộ Kim tự tháp?
- Bí ẩn người ngoài hành tinh trong sử thi Gilgamesh
- Bí ẩn trí nhớ về kiếp trước
- Kiến trúc sư tuyên bố giải mã bí ẩn kim tự tháp?
- Khoa học và Phật giáo: Trước ngã tư đường
- Cô gái Nga có khả năng nhìn thấy bệnh tật
- Những khả năng rùng rợn của người Ấn Độ
- ‘Phù phép’ cho hoa quả tươi lâu
- Duyên Khởi và Tính Bất Khả Phân của Hiện Tượng
- Có một nhà bác học trong mỗi chúng ta
- Giải mã giấc mơ khi cận kề cái chết
- Nửa giờ điện thoại mỗi ngày tăng nguy cơ ung thư não
- Bỗng dưng nói ngoại ngữ như gió sau cơn hôn mê
- Cậu bé sờ đến đâu bệnh hết đến đấy?
- Cô bé hiểu được 100 ngôn ngữ của loài vật hoang dã
- Những người làm khoa học kỳ lạ
- Tiếng vọng trong đầu là ‘chuyện thường gặp’
- Bí ẩn của giây phút hấp hối
- “Nướng” tiền cho đồng cô, đồng bóng
- Những khả năng đặc biệt của con người
- Tổn thương sọ não làm phát triển năng lực phi thường
- Ly kỳ Sanh nghề tử nghiệp ở VN: Vua điện đừng nên ...
- Khả năng linh cảm - trực giác - thần giao cách cảm...
- Hiện tượng huyền bí – Thôi miên hay chữa bệnh
- Trường sinh học – Những khả năng bí ẩn
- Bộ não của người thuận tay trái
- Nguyên Phó Thủ tướng Trần Phương kể chuyện tìm mộ ...
- Tiên tri của Thú vật
- Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên và lời khen của Thủ ...
- Mộng du – giấc mơ có thật
- Ngoại cảm kỳ diệu
- Có hay không “kiếp luân hồi”?
- Phân biệt màu sắc bằng tay
- Những “quái kiệt” người Việt Nam
- Tìm được hài cốt nhờ “gọi hồn”
- Chuyện về người Việt có Siêu năng lực
- Chuyện khoa học kỳ lạ
- Bí ẩn hiện tượng cơ thể tự cháy
- “Dị nhân” khoe tài ngăn mưa đuổi bão
- Toàn tập người chết trở về ở VN
Phổ biến trong tháng
- Chỉ có 1 pháp môn giải thoát chứ không phải có 84 ngàn pháp môn như các sư Đại Thừa nói Pháp môn giải thoát duy nhất khỏi sinh tử luân hồi, đau khổ mà Đức Phật đã dạy trong Tạng Kinh Nguyên Thủy là Bát Chánh Đạo. Các sư Đại Thừ...
- Trạng thái tâm (Sở hữu tâm) - Vi diệu pháp - TK Giác Chánh Về môn học Vi Diệu Pháp thì quan trọng nhất là phần Sở hữu tâm (trạng thái của tâm), các kiến thức khác liên quan đến Vi Diệu Pháp có thể ...
- Kinh Ðại Hạnh Phúc (Maha Mangala Sutta)
- MƯỜI PHÁP BA LA MẬT (PÀRAMÌ) -U Thittila MƯỜI PHÁP BA LA MẬT (PÀRAMÌ) Bồ Tát là một vị Phật đang thành, và như vậy Bồ Tát là một chúng sanh đang thực...
- TỨ DIỆU ĐẾ __ Minh Đức Triều Tâm Ảnh Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế (ariya sacca) tức là bốn sự thât rốt ráo về khổ, về nguyên nhân khổ, về diệt khổ, về con đường diệt khổ. ...
- Thấy biết trong sáng - Viên Minh Quả thật điều bất lợi! Người ngu sinh sở tri. Hủy phần sáng của mình, Tự chẻ đầu chính nó. (Pháp cú 72) Thấy biết là khả năng t...
- Giúp trí nhớ Vi Diệu Pháp Các biểu đồ Vi Diệu Pháp 1. Bảng nêu Vi Diệu Pháp (1) [ Đầu trang ^ ] 2. Bảng nêu Vi Diệu Pháp (2) [ Đầu trang ^ ] 3. L...
- Luyện thần thông - Trưởng lão Ưu Ba Đề Sa (Upatissa) LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT Trưởng lão Ưu Ba Đề Sa (Upatissa). Tam Tạng T ăng Gi à Bà La dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. Thích Như ...
- Vi Diệu Pháp Nhập Môn - Tỳ kheo Giác Chánh (Sách cần thiết đọc để hiểu Kinh Tạng Pali) Phatphapchanthat: Khi bạn đọc vào Tạng Kinh như Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh hoặc các sách vở Phật giá...
- Luận về 4 tầng thiền vô sắc và tu tập thần thông (Henepola Gunaratana - Pháp Thông dịch) Tứ Thiền Vô Sắc Không Vô Biên Xứ Thức Vô Biên Xứ Vô Sở Hữu Xứ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ...
Bài đăng toàn thời gian
- Sư ông Thích Thông Lạc nêu ra những giả dối của pháp Đại Thừa Ngày nay không còn ngăn sông cách núi và không “đói” thông tin như ngày xưa nữa. Cho nên, mọi thứ điều được rõ ràng: “Kinh Giả”, “Kin...
- Nguồn gốc Kinh Đại Thừa là do các sư viết ra - Nguyễn Trung Hiếu Sau hơn 500 năm kể từ khi Phật nhập diệt, Phật giáo Đại thừa mới bắt đầu xuất hiện và từ đó những bộ phái khác đều bị Phật giáo Đại th...
- Phật A di đà không có thật Ai tu theo đạo Phật đều biết Phật A di đà nhưng ít ai hiểu rằng Phật A di đà thật sự không có thật, chỉ là ông Phật tưởng tượng do các sư ...
- Kinh Ðại Hạnh Phúc (Maha Mangala Sutta)
- Chỉ có 1 pháp môn giải thoát chứ không phải có 84 ngàn pháp môn như các sư Đại Thừa nói Pháp môn giải thoát duy nhất khỏi sinh tử luân hồi, đau khổ mà Đức Phật đã dạy trong Tạng Kinh Nguyên Thủy là Bát Chánh Đạo. Các sư Đại Thừ...
- Đừng nghĩ bạn là người bất hạnh nhất! Bạn ít tiền? Bạn không sở hữu một gương mặt đẹp? Một đôi chân dài thon thả ngút ngàn? Một thân hình nam tính? Tinh thần bạ...
- Chọn Đường Tu Phật - Tiểu Thừa (Nguyên Thủy) hay Đại Thừa (Tân Tiến)? Bài viết này sẽ tóm lược con đường Giải thoát thật sự của Phật Gotama và những con đường tu tắt của chư vị Tổ-...
- Trạng thái tâm (Sở hữu tâm) - Vi diệu pháp - TK Giác Chánh Về môn học Vi Diệu Pháp thì quan trọng nhất là phần Sở hữu tâm (trạng thái của tâm), các kiến thức khác liên quan đến Vi Diệu Pháp có thể ...
- Luận về 4 tầng thiền vô sắc và tu tập thần thông (Henepola Gunaratana - Pháp Thông dịch) Tứ Thiền Vô Sắc Không Vô Biên Xứ Thức Vô Biên Xứ Vô Sở Hữu Xứ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ...
Trang ngoài
- Con đường giải thoát
- Phật Giáo Nguyên Thủy
- Phật Học Chuyên Đề Thiền Trong Hơi Thở – TT Giác Chánh 9 năm trước
- Phật Pháp Chân Thật Thiền Phân Tích theo Kinh 4 năm trước
- Trung Tâm Hộ Tông