Thẻ đền Mẫu (Hưng Yên) | Ngọc Sắc Blog
Có thể bạn quan tâm
Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến Có dịp về phố Hiến ăn cưới, lại có cơ hội về Đền Mẫu, thật là nhất cử lưỡng tiện. Mà đền Mẫu thờ ai? Nước ta nổi tiếng thờ mẫu Liễu Hạnh trong hệ thống tâm linh tứ phủ. Nhưng Đền Mẫu ở Hưng Yên lại thờ mẫu là người Trung Quốc. Tương truyền bà là vợ của vua Tống Độ Tông, là mẹ của vua Tống Đế Bính 9 tuổi – vị vua cuối cùng triều Nam Tống. Bà cùng các cung phi khác đã nhảy xuống biển Đông tuẫn tiết khi bị quân Nguyên Mông truy sát năm 1279. Xác bà trôi dạt về vùng biển Nghệ An, được dân ta vớt, chôn cất và lập đền thờ. (có tích nói xác bà trôi ngược về bờ biển phố Hiến). Bà họ Dương, là vợ vua nên gọi là Dương Quý Phi. Có người nhầm bà là Dương Quý Phi đời Đường nên ca tụng bà là một trong “tứ đại mỹ nhân” của Trung Quốc.
Trên cổng đền có mấy chữ “Tống Triều – Dương Thiên Hậu”, bên trên còn có bức đại tự ” Thiên Hạ Mẫu Nghi”. Thẻ đền Mẫu Quẻ thẻ đền Mẫu Hưng Yên nổi tiếng là linh thiêng. Xưa nay bao người rỉ tai nhau rằng đã về đền Mẫu thì nên rút thẻ mà xem năm đó cát hung thế nào. Trước kia thẻ chỉ toàn là chữ Hán nên muốn hiểu thánh ý phải tìm người giải thẻ. Nhưng người giải thẻ thì nhiều mà việc giải thẻ lại bát nháo nên sau đó Bộ Văn hóa thu thẻ và chuyển dịch sang quốc ngữ cho thuận tiện hơn. Thẻ ở đền Mẫu hay còn gọi là Hương Dương linh từ có tổng là 100 thẻ, chia thành 10 thẻ đại cát, 30 thẻ trung cát, 30 thẻ tiểu cát và 30 thẻ cực hung. Thẻ do Trạng Lường Lương Thế Vinh lĩnh thánh ý mà chấp bút nên còn gọi là thẻ Trạng Lường. Về hình thức thẻ chỉ là một bài thơ có 4 câu, mỗi câu 7 chữ và có phần giải viết ngắn gọn ở dưới. Nội dung bài thơ thường là mượn một điển tích nào đó trong sử sách Trung Quốc nên nhiều câu trích dẫn rất nhiều thành ngữ và địa danh của Trung Quốc. Người giải thể cần có hiểu biết về Nho học mới giải thoát ý được.
Tuy nhiên, ngày nay, mặc dù thẻ đã được chuyển dịch sang tiếng Việt, nhưng cũng đều là âm Hán Việt nên vẫn còn khó khăn cho người luận nghĩa. Mặt khác nội dung thẻ lại rất ngắn gọn, ý tứ cũng chỉ tốt xấu chung chung nên việc giải thánh ý cũng còn tùy theo người xin thẻ. Mỗi năm ai cũng có may có rủi, thành bại khác nhau. Bất luận là thế nào thì hành sự cũng cần cẩn trọng, đừng tổn hại đến người, người không tổn hại đến mình. Việc rút thẻ ở đền mẫu cũng thuận tiện vì chỉ cần tùy tâm đặt lễ rồi tự tay sóc ổng thẻ, chẳng cần sóc đến thẻ bật ra, chỉ sóc vài ba cái rồi rút thăm một cái, xem số bao nhiêu. Nhìn vào cái giá để thẻ, thấy trong số 100 thẻ có nhiều số rất ít người bốc được nên còn cả một tập giầy, cũng có những thẻ tập giấy đã vơi đi. Người may mắn có được thẻ đẹp, kém may mắn hơn trúng phải thẻ xấu. Đẹp thì mừng mà xấu thì lo. Tìm hiểu về nội dung 100 thẻ mới thấy thẻ đẹp hay xấu, linh hay không linh quả thật như người ta nói “linh tại ngã bất linh tại ngã”.
Ví như thẻ số 66 của mình: “Nhậm tha hủy dự bất hà can, Tùng bách vô câu ngạo tuế hàn, Tẩu thạch phi sa giang hải dũng Ngô thân an nhược Thái Hàng san”
Trong bài thơ này có dẫn một câu thành ngữ “tẩu thạch phi sa” có xuất xứ từ “Tam quốc chí”, lại nhắc đến Thái Hàng san là dãy núi dài 400 km, cao khoảng 2000 mét ở Trung Quốc. Trong Tam quốc chí Ngự sử Trần Dận ở Đông Ngô vì bảo vệ Thái tử Tôn Hòa mà đắc tội với Tôn Quyền nên bị bắt giam vào ngục, sau nhờ có người bảo lãnh đến Tây Lăng Thục, được Trung Thư Thừa Hoa Ninh viết thư tiến cử, nói ” Trần Dận thời làm quan tại Thương Ngô Nam Hải đã có công giúp dân qua cơn nghịch cảnh như chuyển đá trong con bão cát, lại là người tư chất thông minh, có tài cán, làm quan hết lòng vì dân mà bản thân thì vô cùng liêm khiết”. Thế nên có thể dịch nghĩa bài thơ như sau: “Cho dù người khác hủy đi danh dự cũng chẳng ngại gì vì như cây tùng cây bách đâu sợ gì cái lạnh của mùa đông, dù khó khăn như chuyển đá trong bão bụi, như dòng sông ra biển bị thủy triều ngăn cản thì thân mình cũng vững như đá trên đỉnh núi Thái Hàng”. Dịch thơ: “Người khác khen chê có ngại gì Mùa đông tùng bách chẳng suy vi Như đá nằm trên cồn cát trắng Là núi Thái Sơn chẳng sợ gì” (Bản dịch thơ lấy từ internet, có sửa lại đôi chút) Như vậy, năm nay quả là một năm khó khăn, phải vượt qua thị phi của người khác, nhưng thánh ý đã rõ, mình như viên đá trên đỉnh núi cao rồi còn sợ gì bão cát dưới chân. Cũng có thẻ không nhắ lc đến điển cố, điển tích gì, chỉ là một bài thơ dễ hiểu như thẻ số 85: “Quân tự thông minh chí quá người, Hà tu cầu đảo tự minh chân, Tài hôn nhị sự kỳ lai nhật Bệnh tụng khiên liên ngũ nguyệt tuần” Dịch thơ: Người rất thông minh chí hơn người, Chẳng nên cầu đảo tự hiểu thôi Tài, hôn sẽ hẹn ngày mai tới Bệnh, kiện giằng dai mấy tháng trời” Có quả xấu, như quả số 50: “Nhân bệnh sàng đầu dạ tận ngâm Thê vô tình ý tử vô tâm Thu thuyền thanh tống hà dương hạ Tài dã thù phi tích nhật kim” Dịch thơ: Người ốm kêu rên suốt đêm ngày Vợ con hờ hững chẳng ai hay Ve sầu kêu giục là dương xuống Của để lâu năm đã lấp đầy”. (Bệnh hung, tài phá, gia đạo biến, mất của).
Link xem chi tiết 100 thẻ tại đây:
Chia sẻ:
- X
Từ khóa » Giải Quẻ Số 17 đền Mẫu Hưng Yên
-
Quẻ Trạch Lôi Tùy - Quẻ Số 17 Có ý Nghĩa Gì - Ứng Dụng Thực Tế
-
Ý Nghĩa Quẻ Số 17 Trạch Lôi Tùy Trong Kinh Dịch
-
Quẻ Số 17 - Quốc Văn Chu Dịch - Phan Bội Châu - Cổ Học
-
Ý Nghĩa Của 64 Quẻ Dịch. Quẻ 17: Trạch Lôi Tùy
-
Trạch Lôi Tùy - Ý Nghĩa Quẻ Số 17 Và Cách Gieo Quẻ Chi Tiết Nhất
-
Kinh Dịch, Tứ Trụ, Xin Quẻ
-
Giải Quẻ Đền Mẫu Hưng Yên - Quỷ Cốc Tiền Định Số (Quẻ 65
-
Thập Lục Tứ Quái: Quẻ Số 33 đến Quẻ 64 - Tên Phong Thủy
-
Ứng Dụng Quẻ Trạch Lôi Tùy – Quẻ Số 17 Kinh Dịch Vào Cuộc Sống
-
Top 18 Lời Giải Quẻ Xăm 46 Mới Nhất 2022 - TBDN
-
Đền Mẫu - Cổng Thông Tin điện Tử Thành Phố Hưng Yên
-
Rút Thẻ đầu Năm: Thẻ Xấu Không đáng Lo
-
Nhờ Mọi Người Dịch Giúp Quẻ Xin ở đền Mẫu Tại Hưng Yên ạ