Thơ Kệ Tổ Sư Liễu Quán

THƠ KỆ TỔ SƯ LIỄU QUÁN (1667 – 1742) 

Thích Liễu Nguyên (thi hóa)

to_lieu_quan

Ảnh: Tổ Sư Thiệt Diệu – Liễu Quán (1667 – 1742)

 

THÂN THẾ

Phú Yên, Bạch Mã, Đồng Xuân Địa linh, đất ấy đã sanh Thánh hiền Vào nămĐinh Mùi (1667) thiện duyên Thánh nhân Thiệt Diệu sanh tiền họ Lê.

Lúc lên sáu tuổi ở quê Mẹ hiền quá vãng, muôn bề nhớ thương Thấy rỏ, vạn pháp vô thường Xuất trần thượng sĩ, rộng đường tiến tu.

 

XUẤT GIA

Theo cha học đạo Tổ sư (lúc 12 tuổi) Tế Viên Hòa thượng, ở chùa Hội Tông Sau ra cầu pháp Giác Phong Hàm Long, Báo Quốc, đằng Trong kinh thành.

 

BÁO HIẾU

Theo chân Lão Tổ tu hành Năm sau (1691) thân phụ bệnh đành về quê Phụng dưỡng thân phụ ở quê Ngày ngày gánh củi miền quê qua ngày.

Bốn năm báo hiếu tháng ngày Đến khi thân phụ sanh ngày Lạc Bang Một thân, một bóng phương ngàn Trèo đèo vượt suối trở về Huế (1695) đô.

 

THỌ GIỚI

Nhằm năm Đinh Sửu (1697) Kinh Đô Thọ Cụ Túc Giới ở chùa Từ Lâm Thạchh Liêm Lão Tổ quang lâm Đàn đầu hòa thượng truyền tâm giới điều.

Từ đây thân y giới điều Vân du vấn đạo ở nhiều bốn phương. Năm Nhâm Ngọ (1702) tại Long Sơn. Tử Dung tryền ấn Tâm ngời Tuệ soi.

ĐẮC PHÁP Ý: TổTử Dung & Tổ Liễu Quán Thơ: Liễu Nguyên

Kỷ mão (1699) đi khắp đó đây Tìm thầy học đạo thoát ngay luân hồi. Năm Nhâm Ngọ (1702) gặp Thầy rồi. Tử Dung hòa thượng, đổi đời từ đây.

Tử Dung hỏi chổ hiển bày “Muôn pháp về một, một về nơi đâu?” Hãy luôn tu quán thật sau Thì ngươi thấy rỏ trước sau ngọn ngành.

Vâng lời Tổ ấn tu hành Bao năm khổ quán chẳng thành ,thẹnđau Truyền Đăng Lục đọc đến câu “Chỉ vật truyền Tâm, nhân bất hội xứ”

Nghĩa rằng ứng vậttỏ Tâm Chẳng ai hiểu thấu khi Tâm rỏvật Tâm ngộ pháp lạc, tịnh mật Muốn mang pháp chứng cẩn bạch Tử Dung.

Nhưng vì cách trở muôn trùng Đến năm Mậu tý (1708) mới cùng tổ xem Tử Dung hoan hỷ xét xem Sau rồi Tổ dạy cho thêm pháp mầu.

Tử Dung hỏi tiếp mấy câu “Bờ thắm buôn tay, một mình cam chịu” Tiếp tục Tử Dung dắt chìu “Chết rồi sống lại, chê mình ai dám?”

Liễu Quán! vổ tay! trình đáp: Trái cân là sắt,hợp pháp chưa thầy? Tu Dung đám lại chưa đầy Hôm sau gọi lại Tổ bày hỏi thêm.

Hôm qua việc vẫn chưa êm Hôm nay Ngươi hãy trình thêm rỏ ràng Biết đèn là lữa,đằng đằng Cơm chín từ lâu , thưa rằng được chưa?

Nghe xong lời kệ trình thưa Tử Dung hoan hỷquá ưa, gật đầu Nhâm thìn (1712) vào hạ không lâu Quảng Nam, lễ hội cùng nhau tắm Phật.

Tử Dung hỏi Sư ý Phật “Phật Phật truyền nhau, Tổ Tổ truyền trao” “Chẳng biết truyền nhau cái gì?” Nghe lời tổ hỏi những gì, Sư thưa.

Liễu Quán cung kính thưa Ngài Búp măng mộc trên đá dài muôn trượng Chưa hết Sư tiếp khiêm nhường Mai rùa long mọc nặng nhường ba cân

Tử Dungđáp lạiân cần Ngựa đua dưới nước thuyền vần trên non Nghe lời Tổ dạy sắt son Liễu Quán đáp lại, Con còn mấy câu.

Đứt dây,đàn vọng đêm thâu Gãy sừng trâu rống thâu đêm chốn cùng Nghe xong tổ thấy ung dung Từ nay Pháp Phật dung dung tổ truyền.

 

NGUYÊN TÁC

Nhâm Ngọ (1702) Minh Hoàng Tử Dung dạy Sư quán yếu chỉ sau:

Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)

Gần 8 năm tham cứu mà chưa lãnh hội, trong lòng Sư tự lấy làm hổ thẹn [7]. Một hôm, nhân đọc sách Truyền Đăng Lục đến câu:

Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ (Chỉ vật truyền tâm, người không hiểu rõ được)”, thoạt nhiên Sư tỏ ngộ được yếu chỉ của Thiền.Vì núi sông cách trở, Sư chưa thể đến đến trình kệ với Tổ Tử Dung được.

Mãi đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), 42 tuổi, Sư Liễu Quán lại trở ra chùa Ấn Tôn (Từ Đàm – Huế) cầu Thiền sư Tử Dung ấn chứng.

Sư đem hiểu biết của mình trình bày ra, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thì nghe Thiền sư đọc:

Huyền nhai tán thủ,

tự khẳng thừa đương,

Tuyệt hậu tái tô,

khi quân bất đắc

(Hố thẳm buông tay,

Một mình cam chịu

Chết rồi sống lại,

Ai dám chê mình ?)”

Minh Hoằng Tử Dung: Vậy là thế nào, nói nghe?

Thiệt Diệu Liễu Quán: Không đáp, chỉ vỗ tay cười ha ha.

Minh Hoằng Tử Dung: Chưa phải.

Thiệt Diệu Liễu Quán: Bình thùy nguyên thị thiết (Trái cân vốn là sắt).

Minh Hoằng Tử Dung: Chưa nhằm.

Minh Hoằng Tử Dung: Hôm qua việc đã chưa xong, nói lại xem!

Thiệt Diệu Liễu Quán:

 

Tảo tri đăng thị hỏa,

Thực thục dĩ đa thì!

(Sớm biết đèn là lửa,

Cơm chín đã lâu rồi!)”

Minh Hoằng Tử Dung: Thầm khen gật đầu.

Mùa hạ,Nhâm Thìn (1712), Thiền sư Tử Dung vào Quảng Nam dự lễ "Toàn viện" (theo văn bia). Nhân đó, Sư Liễu Quán đem trình bài kệ "Dục Phật" (Tắm Phật). Minh Hoằng Tử Dung hỏi:

Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật truyền nhau; chẳng hay truyền trao nhau cái gì?

Thiệt Diệu Liễu Quán:

Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,

Quy mao phủ phất trọng tam cân.

(Búp măng trên đá dài một trượng,

Cây chổi lông rùa nặng ba cân)”

Minh Hoằng Tử Dung:

Cao cao sơn thượng hành thuyền

Thâm thâm hải để tẩu mã.

(Chèo thuyền trên núi cao,

Phi ngựa dưới đáy bể)

Rồi hỏi: Là sao?

Thiệt Diệu Liễu Quán:

Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống

Một huyền cầm tử tận nhật đàn.

(Trâu đất gãy sừng rống suốt đêm.

Đàn tranh đứt dây gẩy trọn ngày)”

Trích dẫn từ:http://vi.wikipedia.org

 

HOẰNG HÓA

Kế thừa tổ ấn trao truyền Y tam thừa giáo, chèo thuyền độ tha Đằng Trong nước Việt bao la Chánh hưng Phật giáo sáng ra năm nào.

Thiền Tôn khai trụ nương vào (Nhâm Dần 1722) Quí sửu (1733), Giáp Dần (1734), Ất Mão (1735) thiện duyên Bốn Đại Giới Đàn dự truyền Tiếp tăng độ chúng hưng thiền chánh Tông. Ngồi tòa Bát Nhã Tánh Không Canh Thân (1740) Đại Giới Long Hoa, Ngài truyền. Chánh pháp tỏa khắp mọi miền Võ Vương – Chúa Nguyễn (1738 – 1756)nghe tiếng ban truyền .

Chúa sai quan đến thỉnhliền Mời Ngài vào phủ, dịp chiêm bái Ngài. Nhưng vì thích cảnh liên đài (lâm tuyền) Ngài xin ở lại chốn đài Viên Thông. Dưới núi Ngự Bình đồi thông Nhiều lúc Chúa ngự vào trong vấn Thiền. Mùa thu lá rừng trước hiên Báo tin nhập diệt mặc nhiên trở về.

Viên Thông chốn tịnh thanh khê Ngài phó chúc kệ mọi bề bảo ban Ngài dạy đồ chúng nên làm Y theo giới luật tu bằng tinh chuyên.

Chúng tăng vâng lời Ngài truyền. Kế thừa chánh pháp, làn truyền thịnh hưng Năm Nhâm Tuất (22/11/1742) hiệu cảnh hưng Sau thời cúng ngọ bổng dưng Ngài truyền.

Giờ Mùi đồ chúng kính tuyên Ngài ngồi kiết tọa an nhiên Niết bàn Đồ chúng tiếp độ muôn ngàn Bốn chín đệ tử nối truyền pháp Tông.

Hay tin chúa Nguyễn ban phong Hiệu là: Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng Quý hợi (19/2/1943) nhập tháp một phương Thiên Thai Thiền Tôn ngát hương tháp Ngài.

THƠ KỆ PHÚ CHÚC NIẾT BÀN Sáng ngộ: Tổ Sư Liễu Quán

Hán Việt:

Thất thập dư niên thế giới trung Không không sắc sắc duyệt dung thông Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý Hà tất bôn man vấn tổ tông.

Việt Dịch:

Hơn bảy mươi năm trong thế giới Không không sắc sắc thảy dung thông Sáng nay mãn nguyện về quê cũ Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông

Trích nguồn: Web Tosuthien.net

thap_to_lieu_quan

Ảnh: Tháp Tổ Liễu Quán Tại núi Thiên Thai Thiền Tôn (Huế)

 

DÒNG KỆ TRUYỀN THỪA THIỀN PHÁI LIỄU QUÁN Sáng kệ: Lâm Tế đời 35 Tổ sư Liễu Quán

Hán Việt:

Thật Tế Đại Đạo Tánh Hải Thanh Trừng Tâm Nguyên Quảng Nhuận Đức Bổn Từ Phong. Giới Định Phước Huệ Thể Dụng Viên Thông Vĩnh Siêu Trí Quả Mật Khế Thành Công.

Truyền Trì Diệu Lý Diễn Xướng Chánh Tông Hạnh Giải Tương Ưng Đạt Ngộ Chân Không.

 

Việt dịch:

Đường lớn thực tại Biển thể tính trong Nguồn tâm thấm khắp Gốc đức vun trồng.

Giới định phước tuệ Thể dụng viên thông Quả trí siêu việt Hiểu thấu nên công.

Truyền giữ lý mầu Tuyên dương chánh tông Hành giải song song Đạt ngộ chân không.

(Thiền Sư Nhất Hạnh dịch)

 

THƠ HÓA: DÒNG THÁNH KỆ TỔ SƯ LIỄU QUÁN

 Dòng kệ: Tổ Sư Liễu Quán Hóa thơ:Thích Liễu Nguyên

Thật: Chơn Không – Bát Nhã hằng nương Tế: Từ Bi cứu độ muôn phương nương nhờ Đại: Hoa Nghiêm cùng khắp vô bờ Đạo: Sanh Phương Tiện giải, tu thời thoát ly.

Tánh: Phật tánh chiếu khắp mọi khi Hải: Bao la biển Tuệ đến đi không còn Thanh: Thanh tịnh ba nghiệp vuông tròn Trừng: Rỏ Tâm thấy pháp, chẳng còn tâm si

Tâm:Dụng Tâm hợppháp mọi khi. Nguyên:Bản lai vạn pháp không hai khắp cùng Quảng:Bao la phổ độ muôn trùng Nhuận: Thấm nhuần pháp Phật trùng trùng hóa sanh.

Đức: Từ Bi tánh đức Phật ân. Bổn:Góc Tâm có Phậtdiệu chân rạng ngời. Từ: Từ BiTrí Tuệ muôn đời Phong: Trụ nhân cốt cách thảnh thơi tu trì.

Giới: Chiếc áo lành mặc mọi khi Định: Luôn theo chánh pháp tu trì bình an. Phước: Quả thiện hưởng phước lạc ban Huệ: Sáng soi thường chiếu xóa tan mê mờ.

Thể: Nơi chổ hoạt dụng nương nhờ Dụng: Hợp cùng Thể Tướng sờ sờ khắp nơi Viên: Cả ba hợp nhất muôn đời Thông:Chẳng ai cản được Pháp thời duyên sanh.

Vĩnh: Từ vô thỉ, pháp vô sanh Siêu: Vượt lên Tam giới vô sanh nẻo về Trí:Thấu rỏ vạn pháp mọi bề Quả: Sanh từ Phước Trí đề huề lạc ban.

Mật: Trong pháp mật hiện muôn vàn Khế:Tam thời khế hợp vượt ngoài thời gian Thành:Quả thiện nay đã viên mãn Công: Làm nhiều công quả thiện an sau này.

Truyền:Thừa truyền chánh pháp lý đầy Trì: Tu trì pháp Phật, truyền đầy thế nhân. Diệu: Đầy đủ lý của pháp nhơn Lý:Khế hợp Diệu ấy thiện nhân tu hành.

Diễn: Xiển bày chánh pháp rành rành Xướng: Ngợi ca pháp Phật thực hành đồng tu Chánh: Nẻo đúng hướng dẫn kẻ ngu Tông:Chính là Tông Phật vân du truyền thừa.

Hạnh:Thực hành hạnh nguyện Tam thừa. Giải: Liễu tri vạn pháp BaThừa đồng quy Tương: Tâm hợp chánh pháp mọi khi Ứng: Ứng theo phương tiện tức thì ngộ ra.

Đạt: Đạt đến chổ vốn Không Ta Ngộ: Thấy rỏ Ngũ Uẩn thoát ra luân hồi Chơn: Có ngay trong pháp luân hồi Không:Thiệt, không, thường,có ba thời chẳng sai.

 

KHỞI NGUỒN LIỄU QUÁN THẬT TÔNG Thơ: Liễu Nguyên

Một chữ nối Pháp một đời Pháp Phật truyền thừa bao thời Tổ trao Bốn mươi hai chữ 42 đời Xuất gia, Phật tử rạng ngời chánh Tông.

Khởi nguồn Liễu Quán Thật Tông Đời sau Không kệ,cùng Tông Niết bàn Trùng trùng đắc pháp muôn ngàn Thân y giới luật, lạc bang hướng về.

Pháp Phật là cánh đồng quê Bao la pháp lạc bốn bề đồng tu Lục độ, Bồ Tát vân du Rộng truyền Phật pháp nẻo cùng chốn mê.

Nhớ núi Linh Thứu Thánh quê Phật trao Ca Diếp khởi bề ấn tông Chánh pháp Phật tổ dung thông Đến nay nhân loại rỏKhông baothời.

Muôn đời chánh pháp rạng ngời Phật Phật hạo hạo, vạn đời truyền trao Pháp luân thường chuyển đẹp sao Đương lai Di Lạc tiếp trao Pháp thiền.

Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh. Mam mô Mô Tây Thiên Đông Độ, Việt Nam Du Hóa Lịch Đai TổSư chứng minh. Nam mô Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Ngũ Thế Viên ThôngThiên Thai Thiền Tôn Tự Thiệt Diệu Liễu Quán Tổ Sư Chứng minh.

 

Từ khóa » Bài Kệ Dòng Liễu Quán