Thời Nắng Xanh Và Những Bài Thơ Khác

Tập thơ Thời nắng xanh và những bài thơ khác ra đời sau 14 năm (kể từ tập thơ Mini thơ xuất bản năm 2008) như đã được “ủ lửa”, được kết tinh, lắng đọng bởi những mặn mòi, trải nghiệm của nhà thơ tuổi Quý Mão trước thềm “lục thập giáp hoa”.

Duyên thơ tụ kết các miền quê hương

Tôi tìm thấy trong thơ Trương Nam Hương yếu tố địa văn hóa, giao thoa các miền quê cố đô Huế - Kinh Bắc - Thủ đô Hà Nội- phương Nam. Anh đã nói hộ tuổi thơ của nhiều người, trong đó có tôi “Tuổi thơ con lấm láp bãi bồi/ Cho chuồn ngô cắn rốn/ Tưởng sông Hồng hẹp hơn”; là “Trong giấc ngủ của con/Đỏ rát rời đạn lửa…/Không có bà Tiên, cô Tấm/ Chỉ có u u những hồi còi báo động…”.

Thời nắng xanh và những bài thơ khác là tập thơ thứ 11 sau gần 32 năm Nam Hương trình làng tập thơ Khúc hát người xa xứ (1990). Mỗi tập thơ thể hiện nỗ lực sáng tạo định hình phong cách Trương Nam Hương không dễ lẫn. Rất tự nhiên, anh đã tự định vị vùng văn hóa như “chốn đi về”. Thơ anh ký thác muôn mặt cuộc sống, tình yêu, gia đình, bạn hữu, sự chiêm nghiệm… được viết bằng trái tim đa cảm, bằng ngôn ngữ thơ trong sáng, thuần khiết, tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng…

Văn hóa dân tộc là nguồn cội cho người sáng tác. Nhưng khai thác nó lại tùy thuộc vào tài hoa của người cầm bút. Thơ Nam Hương hút mỡ màu mạch nguồn văn hóa các vùng miền để tạo nên sản phẩm thơ rất riêng, độc đáo.

Tập thơ hiện lên nhiều hình ảnh thân thương của làng quê Bắc Bộ với hoa xoan, hoa gạo, trúc, bánh đa, bánh đúc…Điểm tựa thơ anh là nguồn văn hóa dân gian chảy trôi, là tinh hoa các vùng quê tụ kết. Câu “gừng cay muối mặn” đã được anh đưa vào thơ nhuần nhị “Trăm năm mặn muối cay gừng cũng EM” (Khúc em). Câu ca dao “Gió đưa cây cải lên trời…” thấm bện vào thơ “Bà ơi cây cải lên trời/ Rau răm cay đắng phận người đắng theo” (Thời nắng xanh). Những câu ca quan họ nhuyễn nhòa đan dệt thơ “Ơi trúc xinh này, em ở đâu/ Về thương anh dạm ngõ sông Cầu” (Ngỏ với trúc xinh);“Bèo dạt mây trôi lại xót lòng…Sông Cầu buông dải thắt lưng ong” (Câu hát ấy); “Mưa Giêng ướt câu Quan họ/ Dải khăn hoa lý ơ hờ” (Thương câu hát cũ). Truyền thuyết Chử Đồng Tử trong câu thơ liêu trai “Giấu mình dưới cát tưởng yên/ Gáo em chưa dội đã nguyên…hình hài” (Chử Đồng Tử).

Gợi từ câu ca “Gối lụa không mềm bằng gối tay em”, nhà thơ sáng tạo nên câu thơ trong trẻo, lãng mạn: “Hai chỗ ngả đầu yên ả nhất/ Cỏ với vai em những lúc buồn” (Cỏ và em). Tiêu chí phụ nữ đẹp “mắt lá răm” nhuyễn hòa vào thơ “Em tiễn cái nhìn đau cả gió/ Chiều chớp đầy anh…mắt lá răm”…

Rời Thủ đô “hành phương Nam” đã gần nửa thế kỷ, nhưng hồn thơ Nam Hương vẫn luyến lưu, dăng mắc về phía cố đô Huế - quê cha, miền Kinh Bắc – quê mẹ, Hà Nội – có tuổi thơ “dù có đi bốn phương trời”.

Ký ức tuổi thơ ám ảnh. Miền Kinh Bắc quê mẹ trở đi trở lại trong thơ “Tuổi thơ mót gió trên đồng/ Giấc mơ vun vùi trấu bếp” (Hoa gạo); là “nùi rơm nhọ bếp”, là “Tuổi thơ em dế nhũi cua còng”, “Tuổi thơ ơi gọi mãi không đầy” (Bóng quê)…

Tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên ấy có người bà tảo tần khuya sớm: “Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/ Chở sớm chiều tóm tém/ Hoàng hôn đọng trên môi bà quạch thẫm/ Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài”. Có sự day dứt không quên: “Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình” những “rau má, rau sam” để “thành bát canh ngọt mát” của bà. Hình ảnh bà “Chân bấm lên rêu/ Bà tôi gánh cả gió chiều - xót xa…/ Tôi chạy theo bà đòn tre kẽo kẹt/ Tiếng chim gù khuất khuất/ Bóng làng xa”. Và nhà thơ vùi mình an yên trong miền ký ức: “Tôi như thể chú mèo dim dim mắt/ Trong lòng bà tro trấu thật bình yên” (Thời nắng xanh)…

Tuổi thơ dăng bện “Mùa Xuân theo mẹ lên chùa/ Oản, xôi hóng nhận - chuỗi, bùa hóng đeo/ Mẹ quỳ, tôi nép quỳ theo/ Lạy từ ngọn cỏ lạy veo tới trời” (Tuổi thơ);“Mẹ nuông ấm đời con bằng Quan họ/ Thuở trúc xinh gọi chú ớt ơi à” (Nhớ sông Mẹ); “Mẹ nhìn chớp bờ đê nhoáy nhóa/ Lặng ngước về Kinh Bắc hồi lâu” (Hồi tưởng)…Anh tự bạch bị ký ức tuổi thơ ám ảnh “Gột vết bùn cõng ký ức trên lưng” (Mơ về).

Trương Nam Hương sống nặng tình nghĩa, nặng ký ức, hồi tưởng. Dẫu đi đâu, anh vẫn thiết thao miền Quan họ: “Có chở dùm Quan họ theo không…Kinh Bắc níu tháng ngày son trẻ/ Mẹ xuống đò nhận đắm thời xanh” (Hồi tưởng). Là nơi ấy “Tháng Giêng hoa xoan rơi vụng dại” (Lỗi hẹn với sông Cầu)…

Chỉ 12 năm sống ở Thủ đô mà thao thiết cả đời. Anh nói giọng Bắc, thích vẻ Hà Nội trầm lắng, suy tư. Là Hà Nội hào hoa với bốn nét phác thảo: “Mặt hồ giữa phố như nghiên mực/ Sông thảo hoa văn một nét rồng/ Hoa sữa thơm nồng trên giấy điệp/ Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong”. Giữa Sài Gòn, nhà thơ vẫn hoang hoải tháng Giêng: “Gặp một Sài Gòn thật lạ/ Mưa Xuân đất Bắc vương vào/ Anh mời heo may ghé quán/ Gọi cà phê nhớ xôn xao” (Lời mời tháng Giêng). Gặp bình cúc họa mi thấy“Sài Gòn bất chợt tinh khôi…Bên em anh gọi một ly gió mùa” (Vào quán với cúc họa mi)…

Nhớ Hà Nội là nhớ heo may ngọt“Gửi anh một chút heo may ngọt” (Nhắn),“Mùa nhắc heo may ghé cửa phòng” (Giao mùa); “Heo may dầm sấu” (Về lại)… Anh thích nhâm nhi cà phê kiểu Hà Nội: “Cà phê đắng những vỉa hè Hà Nội” (Tặng những mùa xưa);“Cho tách cà phê thấm vị buồn/ Không nhớ bao lần anh hỏi nhớ/ Tây Hồ em khuấy có lên sương” (Nhắn);“Cà phê khuấy mãi chưa tan nhớ”(Mùa gọi).Hay: “Tạ ơn Hà Nội trọn đời/ Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo”(Một thời Hà Nội)...

Trong Nam Hương có dòng máu Huế “Con từ xa Huế sinh ra…Con thương với Huế câu thơ lụy tình/ Chênh vênh quá nửa Ngự Bình/ Huế cho con cả cung đình rêu phong”. Trong tên anh có dòng sông quê “Con cùng tên với dòng Hương/ Thơ con trắc ẩn cánh buồm, cha ơi” (Lời thưa). Huế tổ quán trong anh máu thịt: “Anh mượn màu rêu Huế để yêu em…/Anh mượn màu nắng Huế để thương em” (Màu Huế). Nam Hương trải lòng mối ân tình bởi “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô/ Sông Hồng hắt đỏ lên thơ/ Tôi buông lục bát xanh bờ Hương Giang”; và cất tiếng gọi: “Ơi sông Hương, hỡi sông Hồng/ Giọng tôi lạc giữa mênh mông nỗi buồn” (Gửi hai dòng sông quê)…

“Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...”

Đi qua mọi va đập cuộc sống, thơ Trương Nam Hương thường đằm sâu nỗi buồn, sự cô đơn, ẩn ức, suy tư như lời tự bạch chân thành: “Câu thơ tôi sinh thành từ nỗi cô đơn để an ủi những điều bất hạnh”. Anh nói về nỗi buồn, sự cô đơn đan trộn nhiều cảm xúc rất riêng: “Người cô đơn cả bóng người/ Lau thao thức bạc chỏm trời phơ lau/ Sâu từ thơ thẳm niềm sâu/ Buồn từ lơ lắc nghiêng đâu cũng buồn” (Hoa lau); “Ba mươi tuổi thơ anh òa giọt khóc” (Trăng mật); “Câu thơ chở chòng chành tiếng khóc” (Xa lắc mùa Thu)…Ý tưởng thơ được nhà thơ đúc kết súc tích:

Tứ như vốc hạt tình gieo xuống

Mảnh đất hồn ta chữ lặng chờ

Ngày như giấy trắng, đêm như mực

Ngọn bút khơi mầm – những luống thơ

(Ý nghĩ trên vườn sân thượng)

Thơ Trương Nam Hương trĩu nặng yêu thương với gia đình. Những bài thơ dành cho đấng sinh thành đọc cay cay khóe mắt: “Mẹ giờ hóa nén hương thơm đỏ/ Thương lặng nhìn con chẳng rụng tàn/ Khói thắt se vòng lo mẹ nặng/ Cõi về cong vít cả chân nhang" (Mẹ gió khuya); “Ngọn gió hay là hồn mẹ/ Mong manh bậc cửa đêm về” (Gió khuya)...Đặc biệt hình ảnh “đôi guốc” thật ám ảnh: “Đưa mẹ vào Tháp cốt/ Quay về, con bần thần/ Quên hóa vàng đôi guốc/ Lên đó Người lạnh chân”…

Đứng “Trước sông”, anh thấy “Bóng cha đáy nước/ Người khuất lâu rồi/ Vớt thương chẳng được”. Bỗng trở về câu thơ của anh: “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...”.

Đi qua bao sóng gió, thơ tình yêu có lắng mặn, trầm tư, nhưng muôn đời vẫn đắm say: “Anh cúi hôn em ở thế trăng quỳ/ Em nở trên anh đóa sen hây múa”; hoặc kín đáo và mãnh liệt: “Đất trời cuống quýt khỏa xiêm y” (Trăng biển). Em là Nàng thơ: “Lặng đến cuối cơn mưa bất chợt/ Lộng lẫy sau lưng bảy sắc cầu vồng” (Cuối cơn mưa). Có hạnh phúc nào hơn định nghĩa ANH từ EM: “Anh chắc từ em anh mới anh/ Mẹ sinh anh trước để anh thành/ Nếu không em nữa sông lơ lạc/ Biển nhắc Thu về giọt máu xanh” (Khúc em).

An nhiên, tự tại một niềm với thơ tránh xa sự xô bồ. Anh thả những câu thơ bất ngờ, ngợi ngẫm khi dòng đời bon chen: “Lúc người đánh bóng tuổi tên/ Anh đi tìm hộp xi đen…đánh giày” (Không đề). Mẹ là bến đỗ mỗi khi đứa con trở về “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian/ Chẳng quen khoanh dạ mặt bàn/ Về thưa ghế đẩu cơ hàn mẹ cho” (Dặn lòng).

Nhà văn Lê Thị Bích Hồng

27.1.2022

Trich nguồn: https://www.thethaovanhoa.vn/

Từ khóa » Bài Thơ Trời Nắng Xanh