THUYẾT MINH XUYÊN VIỆT – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - HDV DL
Có thể bạn quan tâm
Chào các bạn!
Mình xin được sẽ chia sẻ tài liệu về “Thuyết minh xuyên Việt” nhé. Vì tài liệu khá dài nên mình sẽ ngắt ra từng phần cho dễ theo dõi.
Các bạn hướng dẫn viên du lịch hãy coi như đây là tài liệu tham khảo. Và chỗ nào chưa đúng chưa chính xác thì rất mong được các bạn gửi thông tin góp ý để mình bổ sung nha. Cám ơn các bạn nhiều nhiều!
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HCM ngày nay rộng hơn 2093,7km2, dân số 5.037.155 người (1/4/1999), là thành phố lớn và đông dân nhất của đất nước, có năng lực lớn vể sản xuất, kinh doanh và là một trong những thành phố đang phát triển khá sầm uất của khu vực ĐNÁ. Kể từ ngày 1/12/2003, TP.HCM có tổng cộng 24 quận, huyện gồm: Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức, Tân Bình, Tân Phú (tách từ Tân Bình), Bình Tân (một phần Bình Chánh và Tân Bình), Nhà Bè, Hóc Môn, Bình Chánh, Củ Chi, Cần Giờ. Nếu không nhìn lại lịch sử, chúng ta thật khó hình dung nổi vùng đất này hơn 300 năm trước chỉ là những bãi sình lầy, hoang vu. Đất lành chim đậu, trước khi trở thành một đơn vị hành chính quốc gia, những người lao động cả nước, trong đó có cả những người có học vấn từ miền Bắc, miền Trung thế hệ này sang thế hệ khác lần lượt đến đây và một bộ phận ở cực Nam lên. Phần lớn là những người nông dân nghèo khó, không chấp nhận sự áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến hay vì những lý do khác mà tìm đến vùng đất này – như tìm đến một cuộc sống mới. Mảnh đất lạ này lại có sức cuốn hút khác thường: Người từ miền đất xa xôi nào, đã đặt chân đến đây là trụ lại, rồi sinh sôi nảy nở. Bằng bàn tay và khối óc, bằng mồ hôi nước mắt và cả xương máu nữa, họ đã biến vùng đất hoang sơ thành ruộng đồng phì nhiêu, phố phường đông đúc để rồi trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ lớn của cả nước. Năm 1698, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược đã lập Dinh Phiên Trấn, đặt cơ sở hành chính đầu tiên của Sài Gòn. Việc xác định Sài Gòn ở vị trí trung tâm cho cả vùng đất mới phương Nam thể hiện xu thế phát triển và bản lĩnh kiên cường của một dân tộc vốn có nền văn hiến lâu đời. Chính vì vậy Sài Gòn – Gia Định suốt mấy thế kỷ qua đã đứng vững trước bao thử thách và phát triển ngày càng nhanh chóng. Sài Gòn ra đời vào lúc chế độ phong kiến suy vong, giai cấp thống trị không còn tiêu biểu cho truyền thống cao quý của dân tộc. Song những người lao động, trước hết là những người nông dân, tụ hội từ bốn phương đến Sài Gòn vẫn mang trong mình dòng máu “Con Rồng Cháu Tiên” vẫn giữ gìn truyền thống đoàn kết dân tộc và thống nhất quốc gia. Chính vì vậy, từ khi còn mảnh đất hoang sơ, đến đã là một đơn vị hành chính, một trung tâm kinh tế văn hóa của cả nước. Trải qua 3 thế kỷ đầy biến động và hào hùng, Sài Gòn ngày nay càng trở nên mảnh đất yêu dấu trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Những người lao động đã tạo dựng nên Sài Gòn, đến lượt chính mảnh đất này với cuộc sống không ngừng đi lên lại tạo ra tính cách cao quý của con người đã tạo dựng ra nó. Trong cái chung của giá trị truyền thống Việt Nam, đã nảy nở nét riêng của người Sài Gòn. Trong cái hào khí của dân tộc, có đậm nét hào khí Đồng Nai – Bến Nghé. Hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt ban đầu và công khai phá đầy gian nan đã tạo ra tinh thần và ý thức tự lực tự cường, cần cù sáng tạo, dũng cảm hết mình trong lao động sản xuất và chống thiên tai địch họa. Con người của vùng đất mới đã nương tựa vào nhau để cưu mang và sống quên mình vì nhau, sinh cơ lập nghiệp, bảo vệ giống nòi và giang san đất nước. Từ đó đã hình thành truyền thống đoàn kết tương thân tương ái “Trọng nghĩa khinh tài” một giá trị cao quý của người Sài Gòn. Toạ lạc trên vùng đất Đông Nam Bộ, Sài Gòn ở vào vị trí có ưu thế lớn: phía Tây là bình nguyên bát ngát – vựa lúa của cả nước, với những kênh rạch đủ sâu cho mọi loại tàu thuyền, phía Đông là cảng biển lý tưởng cho sự giao lưu với thế giới. Khí hậu nóng ẩm, song lại ít thiên tai, sản vật phong phú: lúa, gạo, trái cây bốn mùa, sản phẩm rừng biển cùng với sức lao động dồi dào và con người dũng cảm, cần cù nhân hậu… Sài Gòn đã sớm trở thành nơi giao lưu kinh tế và thương mại có sức cuốn hút lớn. Ngay từ sau các cuộc cách mạng tư sản, nhiều tập đoàn tư bản Châu Au đã bắt đầu dòm ngó Phương Đông trong đó có Việt Nam mà tiêu biểu đầu tiên là những thành phố biển cửa ngõ của quốc gia. Đi sau những người truyền đạo và buôn bán là quân đội viễn chinh Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1858 và một năm sau chúng đánh chiếm Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược các nước Đông Dương. Không cam chịu mất nước, nhân dân Sài Gòn-Gia Định đã nhất tề đứng dậy chống xâm lăng. Lịch sử đã ghi nhận tinh thần yêu nước nồng nàng và ý thức trách nhiệm cao cả của nhân dân Nam Bộ nói chung và Sài Gòn-Gia Định nói riêng trước vận mệnh của dân tộc. Cuộc chiến đấu cố thủ của Nguyễn Tri Phương ở đại đồn Kỳ Hoà đã được hàng vạn dân binh toàn vùng giúp sức. Cuộc kháng chiến bền bỉ gan dạ với khí tiết của Trương Định, Nguyễn Trung Trực và nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ mạnh mẽ của nhân dân Sài Gòn- Gia Định. Để bóc lột đồng bào ta, bòn rút của cải của đất nước ta, thực dân Pháp đã xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện kinh tế phát triển. Sài Gòn là nơi đầu tiên đi vào nền sản xuất công nghiệp, do đó là nơi đầu tiên ra đời giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, khác với giai cấp công nhân “chính quốc”, họ chịu nhiều tầng áp bức bóc lột. Hoàn cảnh đó là cơ sở nảy sinh ý thức giải phóng giai cấp gắn liền với tinh thần độc lập dân tộc. Sài Gòn cũng là nơi đầu tiên xuất hiện tầng lớp trí thức mới – trí thức khoa học, công nghệ và văn hóa phương Tây. Trong lúc đất nước còn tăm tối chưa có đường ra, Sài Gòn là nơi đã hưởng ứng mạnh mẽ phong trào yêu nước của các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và các nhà yêu nước tiến bộ khác. Cuộc ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên Nguyễn Tất Thành năm 1911, sau đó là sự ra đời của Công Hội Đỏ do người thợ Ba Son Tôn Đức Thắng sáng lập, tiêu biểu cho sự lựa chọn đường đi của dân tộc. Suốt 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ trong thời kỳ vận động cách mạng, những người con ưu tú nhất của quê hương từ mọi miền đất nước: Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Tạ Uyên, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Tiếp, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Lý Tự Trọng và nhiều bậc tiền bối khác đã hoạt động trên vùng đất Sài Gòn–Gia Định và đã hiến dâng tuổi trẻ, trí tuệ và cả cuộc đời cho Tổ quốc. Thành phố là ngọn cờ của các phong trào chống đế quốc xâm lược: Phong trào chống đế quốc Mỹ can thiệp vào Đông Dương (1950), phong trào Đồng Khởi của nhân dân Gia Định (1960), và cuối cùng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975. Sau gần 20 năm cùng với cả nước thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế trên địa bàn thành phố tăng trưởng khá cao và ổn định, đóng góp 37,8% GDP của cả nước. Hiện nay, TP.HCM là trung tâm du lịch lớn nhất nước, thu hút hằng năm 70% lượng khách quốc tế đến VN. TP.HCM qua những con số 1698 -Chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất vào Nam kinh lược, lập phủ Gia Định, lấy đất Sài Gòn lập huyện Tân Bình, dựng Dinh Phiên Trấn, thiết lập chính thức các cơ quan công quyền. Sài Gòn trở thành trung tâm hành chánh thương mại. 1731 -Chúa Nguyễn thành lập tại Sài Gòn Dinh Điều Khiển lãnh đạo điều hành tất cả các Dinh Trấn của cả miền Nam. 1772 -Nguyễn Cửu Đàm xây lũy “Bán Bích” quy hoạch các kiến trúc, các cơ quan công quyền và các phố, chợ… 1776 – 1788 -Sài Gòn là địa bàn giành giật có tính chất chiến lược về mặt chính trị và quân sự giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Anh với 8 trận đánh lớn. 1790 -Nguyễn Anh lập Gia Định kinh, xây dựng thành Bát Quái, khẳng định Sài Gòn là trung tâm chiến lược, trung tâm cai trị, trung tâm dân cư, thương mại của cả miền Nam. 1791 -Mở khoa thi đầu tiên ở Gia Định, đánh dấu sự phát triển về mặt Văn hóa. 1802 -Gia Long sau khi lên ngôi đổi Phủ Gia Định thành Gia Định Trấn. Năm 1808 lại đổi thành Gia Định Thành. 1833 – 1835 -Lê Văn Khôi khởi binh, chống triều đình nhà Nguyễn nhưng thất bại. 10/2/1859 -Quân Pháp vào sông Đồng Nai mở cuộc tiến công đánh phá thành Gia Định. 1859 – 1861 -Cuộc chiến đấu giữ Đại đồn Chí Hoà chống quân Pháp xâm lược. 1861 – 1862 -Cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Hồ Huấn Nghiệp, Đốc Binh Tiến. 1862 – 1863 -Xây dựng Bến cảng Nhà Rồng, Thảo Cầm Viên, thành lập xưởng Ba Son. 1865 -Xuất hiện tờ báo Quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn – Gia Định Báo. 1872 -Hoàn thành xây dựng Dinh Thống Soái – Nam Kỳ (Hội trường Thống Nhất hiện nay) 1879 -Hội đồng Thành phố Sài Gòn, Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ được thành lập. 1881 -Xây dựng đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho. 22/1/1885 -Đề đốc Nguyễn Văn Bướng lãnh đạo nghĩa quân đánh chiếm Sài Gòn nhưng thất bại. Nguyễn Văn Bướng bị địch bắt. 8/2/1885 -Phan Văn Hớn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa “18 thôn vườn trầu” (Hóc Môn) 1894 -Khai trương Nhà máy rượu. 1897 -Mở cửa trường Bá Nghệ. 1898 –Khởi công xây dựng Nhà hát lớn (Nhà hát Thành phố hiện nay) 1901 -Ra mắt tờ báo Nông Cổ Mín Đàm chuyên về Nông thương. 1902 -Xây dựng cầu Bình Lợi 1903 -Xây dựng đường tàu điện Sài Gòn – Gò Vấp, Sài Gòn – Chợ Lớn, Gò Vấp – Hóc Môn. 1907 -Ra mắt tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn. 1908 -Xây dựng Dinh Xã Tây (trụ sở UBND TP.HCM hiện nay) 1910 -Xây dựng đường xe lửa Sài Gòn – Nha Trang 5/6/1911 -Người thanh niên Nguyễn Tất Thành từ Bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. 24/3/1913 -Nguyễn Hữu Trí và Phan Xích Long lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nhưng thất bại, Phan Xích Long bị địch bắt. 12/12/1916 -Cuộc khởi nghĩa lần thứ hai của Nguyễn Hữu Trí đánh vào Dinh Thống Soái, Khám lớn Sài Gòn. Nguyễn Hữu Trí bị tử trận. 5/8/1919 -Lần đầu tiên tên tuổi của Nguyễn Ai Quốc xuất hiện ở Sài Gòn trên tờ báo “Le Courrier de Saigon” khi báo đăng tải “Bản yêu sách của các dân tộc” do Nguyễn Ai Quốc gửi đến Hội nghị Versailles và Quốc hội Pháp gây chấn động lớn trong các tầng lớp nhân dân Sài Gòn. 1921 -Thành lập Công Hội Đỏ, tổ chức Công hội bí mật thiên tả đầu tiên ở nước ta, do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Hội trưởng. 1923 -Tờ báo Tiếng Chuông Rè (Le Cloche Fêleé) của Nguyễn An Ninh ra đời. 4/8/1925 -Bãi công lớn của Công nhân Ba Son do Công Hội Đỏ lãnh đạo, đấu tranh đòi quyền lợi cho công nhân và làm chậm trễ việc Pháp gởi các chiến hạm đàn áp Cách mạng Trung Quốc. 1926 -Phong trào mạnh mẽ của quần chúng đòi trả tự do cho Nguyễn An Ninh, đòi ân xá Phan Bội Châu, tổ chức tang lễ Phan Châu Trinh. 1927 -Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân Sài Gòn đi vào chiều sâu với tổ chức “Thanh niên Cách mạng đồng chí hội” 1930 -Xứ ủy Nam Kỳ, Thành ủy Sài Gòn, Tỉnh ủy Gia Định, Tỉnh ủy Chợ Lớn được thành lập. 3/1931 -Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương lần II do Tổng Bí thư Trần Phú chủ trì họp ở số 236 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Các Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương khác diễn ra ở Sài Gòn: 3/1937, 8/1937, 3/1938, 11/1939. 1936 -Phong trào bãi công dâng cao, thành lập các “Ủy ban hành động” tiến tới họp “Đông Dương Đại Hội”. 7/1938 -Xuất hiện tờ báo Dân Chúng, tờ báo công khai của Trung Ương Đảng ở Sài Gòn. 11/1939 -Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng họp ở Sài Gòn (có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn) xác định chiến lược cách mạng Việt Nam trong tình hình nổ ra chiến tranh TG lần 2. 23/11/1940 -Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ở Hóc Môn, Gò Vấp, Bình Chánh và các tỉnh Nam Bộ. 1943 -Thành lập lại Xứ ủy Nam Bộ. 4/1944 -Thành lập Tổng công đoàn Nam Bộ. 9/3/1945 -Nhật đảo chính Pháp ở Sài Gòn. 6/1945 -Phong trào “Thanh niên tiền phong” do Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm Tổng thư ký 25/8/1945 -Khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Sài Gòn. 2/9/1945 -Hơn một triệu người mitting ở Sài Gòn nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập. 23/9/1945 -Phát động Nam Bộ kháng chiến sau 29 ngày tự do ngắn ngủi, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp trong cả nước. 6/1/1946 -Nhân dân Sài Gòn bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. 8/4/1946 -Trận đánh kho đạn Piro Technic 5/1947 -Trên 5000 trí thức, công chức, công nhân, học sinh Sài Gòn ra bưng biền tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam bộ, trong đó có nhiều nhân sĩ nổi tiếng như cụ Phan Văn Chương, Đốc phủ sứ, nguyên Đô Trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn. 11/1947 -400 trí thức Sài Gòn ký tuyên bố phản đối chiến tranh, đòi Pháp phải đàm phán với chính phủ Hồ Chí Minh. 11/1949 -Phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị dâng cao. 9/1/1950 -Cuộc biểu tình rầm rộ của học sinh Sài Gòn chống thực dân Pháp và tay sai, Trần Văn Ơn hy sinh. Ngày 9/1 trở thành “Ngày toàn quốc đấu tranh của học sinh sinh viên” 19/3/1950 -Biểu tình chính trị của 300.000 nhân dân Sài Gòn chống thực dân Pháp và phản đối can thiệp Mỹ, đuổi tàu chiến Mỹ (Anderson & Sticken) do luật lư Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo. Ngày 19/3/1950 trở thành “Ngày toàn quốc chống Mỹ”. 1952 -Trận đánh diệt tàu địch trên sông Lòng Tàu ở chiến khu rừng Sác. 5/1954 -Trận đánh kho bom Phú Thọ Hòa (phá hủy 9000 tấn bom đạn, 10 triệu lít xăng) 30/7/1954 -Thành lập phong trào Hòa Bình Sài Gòn – Chợ Lớn đòi bảo vệ hòa bình, thực hiện thống nhất tổ quốc. 8/4/1955 -Xung đột giữa chế độ Ngô Đình Diệm và Bình Xuyên. 7/1955 -Đình công, bãi thị hưởng ứng lời kêu gọi của Liên Việt Nam Bộ đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 1956 -Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy, hoạt động ở Sài Gòn phát thảo đường lối cách mạng miền Nam, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. 11/1960 -Đảo chính chống Ngô Đình Diệm do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. 12/1960 -Nhân dân Sài Gòn chào mừng ngày mặt trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam ra đời. 8/5/1963 -Biểu tình của 600 nhà sư cùng hàng ngàn đồng bào Phật Tử chống chế độ Ngô Đình Diệm. 5/1963 -Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu chống chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. 1963 -Ngô Đình Diệm ban hành thiết quân luật bao vây đàn áp các chùa chiền, bắt hầu hết các lãnh tụ Phật giáo. 1/11/1963 -Đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm do Dương Văn Minh cầm đầu. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị giết. 21/9/1964 -Tổng bãi công của công nhân và nhân dân lao động làm tê liệt cả Sài Gòn. 3/1965 -Đặc công ta tiến đánh tòa đại sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi (diệt 217 tên Mỹ) 31/1/1968 -Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định. Quân ta tiến công Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Sân bay Tân Sơn Nhất. – Ra đời liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Sài Gòn. 5/5/1968 -Tổng tiến công và nổi dậy đợt 2. 6/1969 -Thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng Sài Gòn – Gia Định, một trong những đơn vị chính quyền được hình thành sớm nhất ở miền Nam. 3/9/1969 -Nhân dân Sài Gòn chịu tang ngày chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời 1970-1971 -Cao trào đấu tranh của sinh viên học sinh Sài Gòn chống Mỹ ngụy. 12/11/1972 -Đặc công tiến công kho Thành Tuy Hạ (phá hủy 100.000 tấn bom) 2/12/1973 -Đặc công tiến công kho xăng Nhà Bè (phá hủy 140 triệu lít xăng) 1973-1974 -Phong trào đấu tranh của công nhân, nhân dân lao động và các giới nhà báo (phong trào “Ký giả đi ăn mày), phong trào chống tham nhũng (giới công giáo), phong trào “cứu đói”. 29/4/1975 -Bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh và lịnh phát khởi cuộc nổi dậy ở Sài Gòn. 30/4/1975 -Quân giải phóng tiến chiếm Dinh Độc Lập. Chính quyền Dương Văn Minh đầu hàng. Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ. 12/1975 -Hội nghị Hiệp thương thống nhất đất nước diễn ra tại Sài Gòn. 1/1976 -Ủy ban quân quản chuyển giao chính quyền cho Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thành phố. 24/4/1976 -Nhân dân Sài Gòn tham gia bầu cử Quốc hội thống nhất cả nước. 2/7/1976 -Quốc hội thông qua Nghị quyết lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho thành phố Sài Gòn–Chợ Lớn – Gia Định. 9/1982 -Bộ Chính trị ra Nghị quyết 01/BCT về công tác của TP.HCM. 9/1991 -Ra đời khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất đầu tiên ở Việt nam 10/1991 -Đại hội Đảng bộ thành phố lần 5 3/1994 -Hội nghị Đại biểu Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ khóa 5 19/12/1995 -Khánh thành Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược. 1998 -Kỷ niệm 300 năm thành lập Sài Gòn-TP.HCM với nhiều hoạt động và công trình kinh tế, văn hóa, xã hội. 2000 Thành phố bước vào thế kỷ mới với tư thế vững chải đường hoàng, tiên phong của Hòn Ngọc Viễn Đông.
CHỢ VĂN THÁNH- KHU DU LỊCH VĂN THÁNH
Đươc xây dựng khoảng 1993-1995. Dự kiến đây là chợ lớn đầu mối (giống như chợ An Lạc và bến xe miền Tây) cho các loại hàng hóa từ miền Trung vào khu Tân Cảng. Nhưng chợ khánh thành không lâu thì bến xe Văn Thánh dời đi làm cho chợ mất khách và mất luôn vị trí như dự kiến. Hiện nay chợ rất ế và nhà nước dự định bán chợ cho doanh nghiệp Đài Loan vào việc khác. Khu du lịch Văn Thánh nằm trên cù lao 7ha nên còn gọi là cù lao 7 mẫu, hiện nay do Du lịch Gia Định quản lý. Đây là khu DL nhỏ, nhưng được nhiều người biết đến vì 1993-1994 ở đây tổ chức thi tuyển chọn diễn viên điện ảnh. Vào mùng 5 tháng Giêng âm lịch hàng năm, ở đây thường tổ chức lễ hội mừng chiến thắng Đống Đa (5/1/1789 – Kỷ Dậu âm lịch)
CẦU SÀI GÒN
Được bắc qua sông Sài Gòn, xây dựng năm 1960 do công ty C.E.C (Capital Engineering Corporation) thiết kế và thi công. Chiều dài của cầu là 987,431m, 32 nhịp. Năm 1998 cầu được nâng cấp sửa chữa phần chịu lực và mở rộng từ 19,3m thành 24m như hiện nay. Trong tương lai sẽ có thêm một cây cầu nữa được bắc song hành với cây cầu hiện tại, nhằm giảm áp lực cho cầu Sài Gòn, hiện đại hóa các cửa ra vào TP.HCM. Sông Sài Gòn dài trên 230km, bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng (Lộc Ninh, Bình Phước), một đoạn sông là ranh giới tự nhiên giữa Tây Ninh và Bình Phước. Một phần nước sông Sài Gòn đổ vào hồ Dầu Tiếng, sau đó chảy qua khu vực Bến Cát đến Thủ Dầu Một vào TP.HCM và hợp với sông Đồng Nai đổ ra cửa Cần Giờ, vịnh Gành Rái. Dự án đường ngầm vượt sông Sài Gòn Theo dự án đường ngầm dưới sông Sài Gòn xây dựng theo cấu trúc đường ống rộng 22,8m, cao 9,055m, gồm hai ống chịu lực cách nhau 0,6m, mỗi ống là một chiều xe chạy về TP.HCM và Thủ Thiêm (rộng 9,7m, cao 5,95m, lòng rộng 7,5m cho hai làn xe chạy). Tuyến đường hầm vào Q.1 sẽ đi dưới đường Hàm Nghi lên mặt đất hai đường Lê Hồng Phong và CMT8 và Phạm Hồng Thái.
TÂN CẢNG
Ngay dưới chân cầu Sài Gòn, phía hạ lưu thuộc quận Bình Thạnh là khu cảng mới dọc theo bờ sông. Cảng này được Mỹ xây dựng năm 1965 nhằm cung cấp vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975 là khu vực cảng của Hải quân Việt Nam, năm 1990 được tách ra làm hai khu vực quân sự và cảng kinh tế. Hiện nay Tân Cảng là một trong những cảng quân sự quan trọng nhất của Việt Nam. 70% số lượng hàng hóa quân sự được thông qua cảng này. Cảng hiện nay là trung tâm sửa chữa, tiếp tế hàng hóa chính của nền quân sự Việt Nam. Cảng cũng là một trong những lý do chính Bộ Chính trị nước ta không đồng ý xây cầu vượt sông Sài Gòn qua Thủ Thiêm mà phải xây hầm. Bên cạnh cảng quân sự là cảng container Tân Cảng với trang thiết bị hiện đại nằm trong khu liên hợp cảng Sài Gòn.
CẢNG SÀI GÒN
Cảng Sài Gòn trực thuộc Cục Hàng Hải Việt Nam là cảng biển lớn nhất ở Việt Nam hiện nay, đã trải qua trên 100 năm phát triển và là thành viên của Hiệp hội cảng biển quốc tế (IAPH) từ năm 1992. Hiện nay, cảng Sài Gòn tiếp tục thu hút đầu tư để phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Điều kiện tự nhiên của cảng Sài Gòn được xem là khá thuận lợi cho một cảng biển. Với độ dài luồng 85km từ Vũng Tàu, với mớm nước bình quân 11m, thấp nhất là 9,7m và cao nhất là 12,1m, dây điện vượt sông có cao độ 36m. Cảng có thể tiếp nhận tàu có tải trọng 30.000DWT, chiều dài 230m trong khoảng thời gian 6-15 giờ mỗi ngày. Hệ thống bốc xếp gồm 18 cầu tàu với tổng chiều dài 2082m, 32 phao neo cùng một lúc có thể bốc xếp 30 tàu lớn nhỏ. Hệ thống kho gồm 68.344m2 và 107.609m2 bãi chức hàng, tổng sức chứa khoảng 200.000 tấn, đặc biệt có bến chuyên dùng xếp dỡ container với khả năng thông qua 300.000 TEU/năm (1 TEU là một container tiêu chuẩn 20 feet). Năm 1994, cảng Sài Gòn được trang bị các phương tiện bốc xếp hiện đại: cần cẩu di động, cầu cảng K12 mới tại Tân Thuận (có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn nhất của hệ thộng cảng biển Việt nam), thiết bị bốc xếp của hãng KALMAR Thụy Sĩ trị giá gần 2 triệu USD. Hiện nay cảng Sài Gòn đang phấn đấu trở thành một trong những cảng biển hoạt động hiệu quả nhất khu vực ĐNÁ với khối lượng hàng hóa thông qua mỗi năm khoảng 15 triệu tấn. “Chịu chơi” với người Sài Gòn Trong ngôn ngữ quen thuộc của người Sài Gòn có tiếng “chịu chơi”. Trời đất! Người ta chịu đói, chịu rét, chịu những đau khổ, thiệt thòi còn “chơi” phải chịu đựng sao? Nghe tiếng “chịu chơi” dễ nghĩ “chơi” là cái gì rất đỗi lớn lao mà cũng khó khăn, nặng nhọc vô cùng. Chẳng lẽ “chơi” lại quan trọng đến thế kia sao? Nhưng người Sài Gòn đâu có hời hợt trong các ngôn từ. Tiếng “chịu chơi” được xuất hiện lâu rồi, tồn tại thường xuyên trong các sinh hoạt và qua tiếng ấy hẳn người Sài Gòn đã xác lập một giá trị rõ ràng. Như vậy, nội dung tiếng “chơi” ở đây có ý nghĩa gì khác lạ? Trong văn học xưa, tiếng “chơi” là một ngôn từ vào loại nặng cân có thể tìm gặp trong nhiều tác phẩm của những con người rất mực tài hoa. Ở những vị này, tiếng “chơi” dầu có vị trí đáng kể, vẫn chẳng giống nhau một cách hoàn toàn. Khi Nguyễn Du viết “Chơi cho liễu chán, hoa chê” thì sự “chơi” ấy đòi hỏi đầu tư cật lực về phần thể xác, có thể đưa vào bệnh viện và cũng có thể dẫn đến nhà tù. Hẳn đây là lần đầu tiên tiếng “chơi” trần tục được vào ngòi trong tác phẩm lừng danh và cũng qua thiên tài này ta biết sự “chơi” không phải dễ dàng bởi lẽ “nghề chơi cũng lắm công phu”. Ở Nguyễn Công Trứ, “chơi” lại đượm màu nhàn hạ, phong lưu. Khi ông nói lên, đầy ý tự hào: Trời đã cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày trôi Thì sự “chơi” ấy không chỉ lấn chiếm một khoảng thời gian cùng với không gian rộng rãi hơn nhiều mà còn có cả chiều cao của những vẫy vùng ngang dọc. Đến khi Tản Đà tuyên bố: Tớ hãy chơi cho quá nửa đời Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi Thì “chơi” đã được kéo về ni tấc bình thường nhưng được nâng lên làm một lẽ sống. Những người Sài Gòn, dĩ nhiên, kế thừa đầy đủ các kiểu chơi ấy và ngôn từ này của dân tộc mình. Xét ra, thì phần kế thừa không phải là ít mà phần bổ sung lại cũng khá nhiểu. Lần đầu, ở trong ngôn ngữ dân tộc, những người Sài Gòn đã cho tiếng “chơi” có một kích thước hoàn toàn mới lạ, không đối lập với cuộc sống chân thật, cần cù mà còn xem như một tiêu chuẩn có hạng trong sinh hoạt hàng ngày. “Chơi” thành tiếng nói tổng quát, bao gồm từ những say mê lăn lóc của Nguyễn Tố Như, những hoạt động đầy tự hào của Nguyễn Công Trứ, những cuộc phiêu lưu, sa đà của Nguyễn Khắc Hiếu đến những công ăn, việc làm rất đỗi bình thường liên quan mọi mặt chính trị, xã hội. Hơn thế, tiếng “chơi” còn là một cách đánh giá sự đời, đánh giá việc người. Có lần, trong chế độ cũ, thấy mấy chị em chuyên gánh nước mướn hè nhau xách những đòn gánh vây bắt một tên cao bồi húc xe làm một em bé bị thương rồi toan bỏ chạy, một cụ già đứng bên đường gật gù, nhận xét: “Mấy con mẻ “chơi” được quá!”. “Chơi được quá!” là lời khen rất chân thành, nhưng bỏ công ăn, việc làm, vây đánh cao bồi du đãng, chấp nhận một sự trả thù nào đó, lại là “chơi” sao? Mấy tiếng “chơi được” cũng là ngôn ngữ Sài Gòn. Cái gì coi cũng dễ dàng, coi cũng như “pha”, trừ cái lẽ phải ở đời là phải giữ gìn. Qua các tiếng ấy, ta nhìn thấy được phần nào tâm lý của người Sài Gòn, tâm lý thanh thản, vui vẻ, không ưa kiểu cách nặng nề, không thích những trò làm ra quan trọng. Nhưng cái gì mới thật là quan trọng? Cho đến cái chết cũng là “chết bỏ” dễ như “chơi” vậy Qua tiếng “chịu” trong “chịu chơi” là một thái độ tinh thần đầy những thách thức và đầy trách nhiêm.Chỉ đáng gọi lá “chịu chơi” những ai dám xông vào nơi hiểm nghèo, chấp nhận sống chết, chấp nhận tù đày, chấp nhận một cuộc thư hùng mà không cần khẳng định trước là mình thử thắng, chấp nhận chịu tiền không sợ thua lỗ, chấp nhận cả sự phiêu lưu với những hậu quả khôn lường. “Chịu chơi” là biết gánh chịu mọi thứ hậu quả mà không thèm đến kêu than. Qua tiếng “chịu chơi” có một đánh giá rất thoáng về đời. Rõ ràng cuộc sống không phải cần đến chắt bóp, so đo như một anh giàu keo kiệt, tham lam bòn rút mỏi mòn sự sống của thiên hạ và của chính mình, nhưng là một cuộc đua tài trong đó con người có thể xông vào với cả say mê nhưng biết ra khỏi với lòng thanh thản. Nó không thoát tục như thiền nhưng nhuốm đầy một chất thiền trần tục. Nó không coi đời như một canh bạc rủi may, nhưng là một cuộc vận động trường bát ngát trong đó lao động cật lực được pha trộn cốt cách ưu du của những nghệ nhân. Có cái gì đó rất giả nhưng mà lại rất thực trộn lẫn nhọc nhằn cùng với niềm vui tầm thường mà cũng lớn lao, trong một ý niệm về đời. Cũng có những người quen với tính cách lắt léo, uyển chuyển của ngôn ngữ Việt, đảo ngược hai tiếng “chịu chơi” ra thành “chơi chịu” để mà cợt đùa, nhưng trong chừng mực nào đó chúng ta hiểu rằng “chơi chịu” cũng là một thứ “chịu chơi”. Con người Sài Gòn là người Việt Nam được thích nghi hóa trong những điều kiện Nam Bộ và là con người Nam Bộ đã được thích nghi trong một thành phố bến cảng sâu trong nội địa, trải qua bao cuộc chuyển mình của vùng đất mới với những tranh chấp lịch sử vô cùng ác liệt. Vì vậy, nó mang đầy đủ vốn liếng ngàn đời của dân tộc mình cộng với một cuộc sống mới dồn dập biến cố mang tầm thế giới trên vùng tân lập. Tính cách “chịu chơi” của con người đó bắt nguồn từ trong lịch sử khá dày của cuộc sống di dân trong đó bên cạnh những người dân thường, những người lính tráng, còn có những kẻ phiêu lưu và những tội đồ chịu cảnh lưu đày. Đó là thời những ông Hoành, ông Trắm ngang tàng, từng được lịch sử nhắc tên. Đó cũng là thời mà tất cả những kẻ chống đối triều đại, nếu không bị chém đầu thì phải lưu đày biệt xứ và vào vùng đất mới này hẳn không ít người đã làm những thầy dạy học. Nhiều nhà giáo đầu tiên ấy đã truyền cho học sinh mình, bên cạnh đạo lý thánh hiền là lòng phản kháng, là sức chịu chơi. Ở nơi đầm lầy, sông rạch dọc sông, một đô thị lớn đã được dựng lên, mỗi ngày mỗi xóa đi lằn ranh đã có để được mở rộng không ngừng. Như một vùng đất Q. 4 Sài Gòn, ban đầu chỉ mang cái tên khiêm tốn gọi là Tạm Hội, dần được đổi thành Vĩnh Hội, để có cơ sở sau đổi thành khánh Hội với niềm mơ ước phồn vinh. Sài Gòn đã được phát triển, di động không ngừng trong sức vươn lên và mang trong mình bao điều bí ẩn chưa người biết hết. Ở đó, bao người Việt Nam mang cái tên Tây vẫn biết đánh Tây với cả nhiệt tình yêu nước, ở đó một em thiếu niên đã biến mình thành cây đuốc rực hồng thiêu đốt quân thù. Ở đó có người cầm búa đập phá xiềng xích của bọn thực dân trói đời dân tộc và đã trở thành chủ tịch nước, ở đó có những con người cường khấu, lục lâm một khi thấy được nẻo về lẽ phải đã trở nên những chiến sĩ, những anh hùng. Và ở đó có người dân đã từng đuổi giặc Mỹ với những tay không, có những bà mẹ chịu chơi như là các má Bàn Cờ, có những thanh niên không có vũ khí vẫn đốt xe Mỹ… không chỉ ở trong quá khứ và trên vài thập niên qua, sau ngày giải phóng, Sài Gòn với những thăng trầm vẫn là mảnh đất chịu chơi với những nỗ lực bung ra liên tục để vươn lên. Tóm lại, qua tiếng “chịu chơi” chúng ta nhìn thấy được nét trẻ trung của thành phố này. Tiếng “chơi” gắn liền với những trẻ thơ hơn là người lớn nhưng tiếng “chịu” lại thiên về người lớn hơn là trẻ thơ. Trong bài ca khởi nghĩa của nhà thơ Hưởng Triều nói về Sài Gòn có câu: “Một thành phố trẻ măng Nhưng lịch sử rất lạ lùng”
QUẬN 2
Qua khỏi cầu Sài Gòn là địa phận của Q.2. Với diện tích 5020ha gồm An Phú-An Khánh-Thủ Thiêm-Thạnh Mỹ Lợi-Bình Trưng. Trước 1/4/1997, khu vực này thuộc huyện Thủ Đức. Q.2 gồm khu công nghiệp Cát Lái, và khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ là trung tâm mới của TP.HCM trong tương lai gần. Với quy hoạch mới của TP, Q.2 sẽ là trung tâm thương mại tài chánh của TP. Dân số hiện tại là khoảng 100.000 người, dự kiến đến năm 2010 sẽ là 600.000 người. Các công trình trọng điểm đã và đang được khởi công xây dựng tại khu vực Q.2: + Khu nhà ở và Du lịch An Khánh. + Khu đô thị mới Bình Trưng – Thạnh Mỹ Lợi. + Khu liên hợp TDTT Rạch Chiếc. + KCN Cát Lái. + Tháp Truyền hình TP.HCM cao 450m với vốn đầu tư dự định là 150 triệu USD. + Hầm vượt sông Sài Gòn tại Thủ Thiêm. + Đường song hành QL 52 (kinh phí dự tính là 310 tỷ đồng). + Đường cao tốc Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đường cao tốc TP.HCM – Biên Hòa – Vũng Tàu Vào tháng 12/1994, lưu lượng xe ngày đêm lưu thông trên quốc lộ 51 là 13.666 chiếc. Trong đó từ TP.HCM đi Vũng Tàu chiếm 70%. Lực lượng này theo dự báo đến năm 2000 sẽ tăng 17% và sau năm 2000 tăng 13%/năm. Nếu chậm trễ trong việc xây dựng hệ thống đường cao tốc thì sự tắc nghẽn cũng như tình trạng không an toàn giao thông sẽ trở thành một lực cản lớn cho sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Khái niệm đường cao tốc trước hết bắt nguồn từ tốc độ xe chạy: tốc độ thiết kế chung là 120km/h, qua các nút giao thông đồng mức là 60km/h và chỉ dành phục vụ cho xe động cơ 4 bánh, đặc biệt đối với xe vận tải nặng, sau đó là điều kiện an toàn với những khả năng điều khiển nghiêm ngặt. Vì vậy, ngoài đường cao tốc, công trình còn bao gồm những cơ sở dịch vụ như nhà điều khiển, nơi chỉ huy toàn bộ các hoạt động trên tuyến đường, các trạm thu phí, các điểm dừng khẩn cấp, các nút giao thông, các cầu vượt, các khu nghỉ ngơi, các khu trung tâm bảo hành… Bước đầu đường được xây dựng với 4 làn xe và sau 2011, nâng lên 6 hoặc 8 làn xe. Tổng chi phí đầu tư về xây dựng khoảng hơn 600 triệu USD, được chia làm nhiều giai đoạn, bắt đầu từ đoạn Cát Lái – Long Thành với mức chi phí cao nhất vì phải thực hiện cầu vượt sông Đồng Nai, chiếc cầu dài nhất, được xây dựng theo yêu cầu bắt buộc đối với một chiếc cầu nằm trên đường cao tốc. Các nhà thiết kế đường cao tốc muốn đạt được mục tiêu vạch được tuyến đường ngắn nhất từ TP.HCM và đi từ Biên Hòa đi Vũng Tàu. Vì vậy, theo dự án, con đường sẽ có hai điểm đầu là Cát Lái (TP.HCM), Cầu Quan (Biên Hòa) và điểm kết thúc tại eo Ông Từ-TP.Vũng Tàu. Lấy Long Thành (Đồng Nai) là trung tâm, tuyến đường cao tốc TP.HCM-Vũng Tàu hình thành một hệ thống đường hình chữ Y với tổng chiều dài 95km, trong đó đoạn Cát Lái-Long Thành dài 23km, sẽ rút ngắn được hành trình TP.HCM-Vũng Tàu so với tuyến đường đang sử dụng hàng chục km. Toàn tuyến đường phải xây dựng 97 cầu lớn nhỏ, với tổng chiều dài 7,7km. Cầu lớn nhất là cầu vượt sông Đồng Nai trên đoạn Cát Lái-Long Thành với chiều dài ước tính 1740m. Tuyến đường cao tốc TP.HCM-Biên Hòa-Vũng Tàu dự kiến xây dựng theo các mốc thời gian: đoạn Cát Lái-Long Thành 1999-2000, đoạn Long Thành-Phú Mỹ 2001-2003, đoạn Phú Mỹ-Bà Rịa 2004-2006, đoạn cầu Quan 2007–2009–2010 và sau đó là đoạn nối với sân bay Quốc tế Long Thành. Như vậy, đoạn đường Cát Lái–Long Thành là bước khởi đầu, tiếp nối dần là các đoạn đường khác, có tính hợp lý cao, vì đồng hành với từng bước phát triển của toàn vùng kinh tế trọng điểm và những công trình dự kiến trong tương lai như: Cảng Nước Sâu Vũng Tàu, cảng Hàng không Long Thành, sau đó tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của TP.HCM và Biên Hòa (vì ở các nơi này đã có những KCN, Khu chế xuất quan trọng: Tân Thuận, Linh Trung, Cát Lái, Phú Mỹ, Nhà Bè, Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Biên Hòa 3…) và có tác động thúc đẩy quá trình đô thị hóa với các thành phố mới: Thủ Đức, Thủ Thiêm, Nhơn Trạch… Điều đó cho thấy con đường đã trở thành nhu cầu cấp bách đối với sự phát triển của TP.HCM, Bình Dương, Biên Hòa, Vũng Tàu. Tuyến đường quan trọng này sẽ tạo cơ hội phát triển và thu hút đầu tư cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, góp phần quan trọng cho sự phát triển các dự án về cảng biển, công nghiệp dầu khí, du lịch… Đồng thời mở ra các đô thị tương lai như: Thủ Thiêm (TP.HCM), Nhơn Trạch (Đồng Nai)… đường cao tốc và xa lộ–theo phương án cũng thúc đẩy việc hình thành các điểm dân cư, đô thị mới trong chương trình giãn dân đối với TP.HCM như: Cầu Quan, Gò Dầu, Phú Mỹ, Long Thành và đặc biệt phục vụ cho sân bay quốc tế sẽ xây dựng trong tương lai ở Long Thành. Xa lộ Biên Hòa – Cầu Rạch Chiếc Được xây dựng vào năm 1959-1961 do Mỹ đầu tư và công ty C.E.C thiết kế và thi công. Xa lộ rộng 21m, dài 31km từ cầu Điện Biên Phủ đến Ngã tư Tam Hiệp–Biên Hòa và được đặt tên là Xa lộ Biên Hòa. Trước năm 1975 Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng con đường này như một đường băng quân sự dã chiến phòng khi sân bay Tân Sơn Nhất bị sự cố. Đến năm 1971, họ cho rằng xa lộ thuận lợi cho quân Cách mạng đổ bộ tấn công Sài Gòn nên đã cho xây dựng vạch ngăn cách giữa tim đừơng. Năm 1984, nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng Hà Nội đã đổi thành Xa lộ Hà Nội. Năm 1998, cùng với dự án khôi phục Quốc lộ 1A, Xa lộ Hà Nội cũng được khôi phục và mở rộng và bàn giao cho chính phủ Việt Nam vào ngày 20/1/1998. Ngày nay hai bên Xa lộ đã mọc lên các khu vực dân cư sầm uất, khu vui chơi giải trí thể thao, Làng đại học và đặc biệt là các khu công nghiệp rất hiện đại. Cầu Rạch Chiếc được xây dựng cùng thời với cầu Sài Gòn và Xa lộ Biên Hòa (1959-1961) dài 148,9m. Đây tuy là chiếc cầu nhỏ nhưng là nhân chứng cho một sự kiện lịch sử quan trọng góp phần làm rạng rỡ cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Vào ngày 27/4/1975, tại chân cầu này đã xảy ra liên tục 5 trận đánh giữa quân giải phóng và quân đội Sài Gòn bảo vệ cầu (vì đây là điểm yếu nhất trên Xa lộ Biên Hòa). Cuối cùng, quân giải phóng đã chiếm được cầu Rạch Chiếc nhưng 59 chiến sĩ Cách mạng đã hy sinh tại đây để giành đường lưu thông an toàn cho quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Nhà máy xi măng Hà Tiên Bên phải là Nhà máy Xi măng Hà Tiên được xây dựng năm 1960 – 1964, sản lượng hiện nay 1,5 triệu tấn/năm, một trong những cánh chim đầu đàn của ngành xi măng hiện nay. Nguyên liệu chính, clinke, được lấy từ nhà máy xi măng Kiên Lương, sau đó được chuyên chở bằng sà lan đến TP.HCM sản xuất ra xi măng thành phẩm cung cấp cho thị trường thành phố và Đông Nam Bộ. Trước năm 1999, xi măng Hà Tiên luôn nằm trong danh sách đen làm ô nhiễm môi trường của thành phố, do nhà máy thải ra quá nhiều khói bụi. Nhưng ngày nay, nhà máy đã bỏ ra trên 2 triệu USD trang bị các thiết bị chống ô nhiễm như: máy lọc bụi, giảm khí photphat… Nhà máy nước Thủ Đức Nằm phía trái, được xây dựng từ năm 1959. Nhà máy có 8 bể lọc lấy nước từ sông Đồng Nai tại khu vực Hóa An với công suất 670.000m3/ ngày, cung cấp nước cho toàn TP.HCM. Hiện nay chúng ta đang vay vốn từ Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) khoảng 65 triệu USD để thay đổi toàn bộ các ống dẫn nước chính từ 1,8m lên 2,4m và mở rộng nhà máy nước đưa công suất cung cấp nước của nhà máy lên một triệu m3/ngày. Xa lộ Đại Hàn Dài 40km, kéo dài từ Ngã 3 Trạm 2 đến An lạc – Bình Chánh, được xây dựng từ 1969-1970 do Mỹ thiết kế và công binh Đại Hàn thi công nên gọi là Xa lộ Đại Hàn. Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ đã hoảng sợ và lập tức cho xây dựng con đường này và xem như là vành đai để ngăn cách giữa Sài Gòn và cái nôi cách mạng Củ Chi. Ngày nay Xa lộ Đại Hàn là con đường giao thông quan trọng nối vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ mà không phải đi vào TP.HCM. Hiện nay, dự án đường Xuyên Á từ Bangkok–PhnomPenh–Mộc Bài–Quốc lộ 22–Xa lộ Đại Hàn–Quốc lộ 51–Vũng Tàu đang được thực hiện. Ngày 2/4/2000 dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 1A đoạn An Sương-An Lạc (km1901–km1915) với chiều dài 14km, qua các Quận 12, Hóc Môn, Bình Chánh đã chính thức khởi công. Đoạn đường này được nâng cấp cải tạo đạt tiêu chuẩn kỹ thuật đường đồng bằng cấp I, nền đường trải bê tông nhựa nóng rộng 29m, gồm 6 làn xe cơ giới, hai làn xe thô sơ, có hai dải an toàn và phân cách giữa bằng bê tông cốt thép và 5 nút giao thông. Tổng mức đầu tư công trình là 2,385 tỷ đồng, do công ty TNHH B.O.T An Sương – An Lạc làm chủ đầu tư. Các nhà thầu: Tổng cty công trình Giao thông 6 (CIENCO 6), CIENCO 8 và Cty xây dựng dầu khí (CONAC) đảm nhiệm thi công trong thời gian 24 tháng (tháng 4/2002 hoàn tất công trình). Ngay sau lễ khởi công, các đơn vị thi công đã bắt tay vào xây dựng ngay hai chiếc cầu Bình Phú Tây và Bình Thuận, trên tổng số 5 cầu trên tuyến. Những “cái nhất” của lịch sử Thành phố Ngôi trường cổ nhất là trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường THPT Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. Nhà máy điện xưa nhất: Nhà máy điện Chợ Quán xây dựng năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW. Máy phát điện chính công suất 1000A/h. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy toạ lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, Q.5. Bệnh viện cổ nhất: Bệnh viện Chợ Quán xây dựng năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 giao cho Quân đội gọi là Viện bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn Việt có 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 CB-CNV và 550 giường bệnh. Nhà hát cổ nhất: Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn–TP.HCM toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu. Khách sạn cổ nhất: KS Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, xây dựng năm 1880 do KTS người Pháp thiết kế, tên KS có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày giải phóng miền Nam đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, KS được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental có diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, KS Continental là một trong những KS đạt tiêu chuẩn quốc tế góp phần cho ngành du lịch TP.HCM ngày càng phát triển. Nhà thờ cổ nhất: Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 xây dựng từ năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại TP.HCM và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ Quận 5. Ngôi đình cổ nhất: Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, xây dựng vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp–sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp. Nhà văn hóa cổ nhất: Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Spertif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao của quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ cơ ngơi này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để cải tạo xây dựng thành nơi tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2,8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa LĐ là NVH cổ và lớn nhất của TP.HCM. Thảo Cầm Viên – Công viên lâu đời nhất: Thảo Cầm Viên do người Pháp xây dựng năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi trồng những động thực vật vùng nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được cải tạo, mở rộng và nhập thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương. Ngôi nhà xưa nhất: Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại TP.HCM nằm trong khuôn viên Toà Tổng Giám Mục TP.HCM-180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá Đa Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây dựng bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá Đa Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trỗ công phu hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Đá Ba Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”. Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bật tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống- bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mớt mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch. Ngôi chùa cổ nhất: Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP. HCM nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí. Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ. Đường sắt đầu tiên ở thành phố: Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đừơng sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, xây dựng năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đướng sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hoà Hưng. Trên nền Ga Sài Gòn cũ ngày 8/8/1998, khởi công xây dựng Trung Tâm Văn Hoá Thương Mại Sài Gòn. Người Viêt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp: Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hoá phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời. Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên: Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869. Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam: Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công nông thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tính dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nôi trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay. Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên: “Đại Nam Quốc Am Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ Latinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ. Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên: Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp. Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây dựng theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được xây dựng từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gôtic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây dựng này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp. Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây: Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, Latinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Anh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường xá và phân khu phố phường”. Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỉ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn – Gia Định theo phương pháp phương Tây. Tòa nhà cao tầng nhất TP.HCM và Việt Nam: Tòa nhà 37 Tôn Đức Thắng, Q.1, TP. HCM. Gồm 34 tầng và một tầng hầm. Nghĩa Trang Liệt Sĩ Thành Phố Diện tích 3ha, là nơi yên nghỉ của các chiến sĩ hy sinh trong hai cuộc trường chinh chống Pháp và chống Mỹ, và trên chiến trường Campuchia. Được xây dựng vào năm 1984 đến tháng 4/1987 thì hoàn thành. Với hình ảnh người Mẹ Việt Nam cao sừng sửng ôm trọn lấy gần 10.000 đứa con thân yêu đã ngã xuống cho Tổ quốc, Điêu khắc gia Nguyễn Hải đã gửi tặng cho người dân TP.HCM năng động nhưng hào hùng.
Chia sẻ:
Có liên quan
Từ khóa » Thuyết Minh Tphcm
-
Thuyết Minh Về Thành Phố Hồ Chí Minh | Văn Mẫu - Kiến Thức Việt
-
Thuyết Minh Về Thành Phố Hồ Chí Minh - Văn Mẫu Tổng Hợp
-
Giới Thiệu Thành Phố Hồ Chí Minh. - Văn Mẫu - Tìm đáp án, Giải Bài
-
BÀI THUYẾT MINH CITY TOUR THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 123doc
-
Bài Thuyết Minh Tuyến SG-ĐL - Tài Liệu Text - 123doc
-
Thuyết Minh địa điểm Du Lịch Thành Phố Hồ Chí Minh
-
Bài Thuyết Minh Tuyến Tour Tp.HCM – Tây Ninh – Củ Chi - TaiLieu.VN
-
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chợ Bến Thành (8 Mẫu) Những Bài ...
-
THUYẾT MINH TUYẾN SÀI GÒN - CẦN THƠ
-
Thuyết Trình Về TPHCM - Ngô Hồng Ngọc 9A1 - Prezi
-
Tài Liệu Thuyết Minh Tphcm Phan Thiết
-
Thông Tin Thuyết Minh Sài Gòn - Đà Lạt - Nha Trang - Phan Thiết
-
Con đường Nào Xưa Nhất Sài Gòn - TPHCM | Vietnamteambuilding
-
Tuyến điểm Du Lịch || Thuyết Minh Tuyến Tp.HCM - Mỹ Tho (P2)