Tích Lũy Sinh Học Kim Loại Nặng Trong Cơ Thể Một Số Loài Hàu Và Nghêu

Tích lũy sinh học kim loại nặng trong cơ thể một số loài hàu và nghêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.32 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TÍCH LŨY SINH HỌC KIM LOẠI NẶNG TRONG CƠ THỂ </b><b>MỘT SỐ LOÀI HÀU VÀ NGHÊU </b>

Trần Tuấn Việt1,2*, Trương Ngọc Việt2, Nguyễn Phước Dân2

<i><b>Tóm tắt: </b>Hàu và nghêu là những loài thuộc lớp hai mảnh vỏ được sử dụng làm </i><i>thực phẩm cung cấp cho con người. Tuy nhiên, các loài này thường sống ở các vùng </i><i>ven biển, cửa sơng là nơi có khả năng tiếp xúc với môi trường ô nhiễm kim loại từ </i><i>đất liền đưa ra. Thêm vào đó, khả năng tích lũy các kim loại trong cơ thể các sinh </i><i>vật hai mảnh vỏ này đã được công bố nhiều trên thế giới. Bài báo này nhắm tới việc </i><i>hệ thống lại các kết quả nghiên cứu về mức độ tích lũy sinh học một số kim loại </i><i>trong cơ thể các loài hải sản hai mảnh vỏ cũng như một số nghiên cứu về khả năng </i><i>ứng dụng những loài sinh vật này trong quan trắc mơi trường. </i>

<b>Từ khóa</b>: Tích lũy sinh học; Quan trắc sinh học; Kim loại nặng; Hai mảnh vỏ.

<b>1. MỞ ĐẦU </b>

Độc tố của các kim loại được xem như một trong những nguyên nhân gây ra các vấn đề về sức khỏe cho con người và môi trường [1]. Nồng độ các kim loại trong rất nhiều loài sinh vật biển, đặc biệt là lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia class), thường ở mức cao do khả năng tích lũy trong cơ thể của chúng [2–4]. Hơn thế nữa, những lồi này có thể được tiêu thụ trực tiếp bởi con người hoặc đi vào cơ thể gián tiếp thơng qua các lồi ăn thịt bậc cao hơn những sinh vật nêu trên. Mặt khác, do khả năng tích lũy kim loại và một số chất ô nhiễm trong cơ thể, những loài hai mảnh vỏ thường được nghiên cứu để sử dụng như một công cụ theo dõi chất lượng môi trường [5–7]. Trong nhiều năm qua, có rất nhiều tác giả đưa ra định nghĩa, nhưng có thể hiểu một cách tổng qt những lồi sinh vật có khả năng phản ánh mức độ ô nhiễm của môi trường thường được gọi là chỉ thị sinh học indicator), chúng được ứng dụng trong lĩnh vực quan trắc sinh học (bio-monitoring) [8]. Chính vì vậy, nghiên cứu về mức độ và khả năng tích lũy kim loại trong cơ thể một số loài hai mảnh vỏ sẽ đóng vai trò quan trọng trong đánh giá mức rủi ro tới sức khỏe người tiêu thụ và khả năng sử dụng những loài này trong các nghiên cứu quan trắc sinh học vùng cửa sông ven biển. Bài báo này đặt mục tiêu chính là tổng quan các nghiên cứu về nồng độ kim loại trong một số loài hàu và nghêu ở các vùng khác nhau trên thế giới cũng như những ứng dụng các loài này làm chỉ thị sinh học quan trắc môi trường.

<b>2. NỒNG ĐỘ KIM LOẠI TRONG SINH VẬT HAI MẢNH VỎ </b><b> 2.1. Nồng độ kim loại trong các loài hàu </b>

</div><span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>Nghiên cứu khoa học công nghệ </b></i>

trong cơ thể hàu đã được thực hiện nhiều ở các vùng biển khác nhau trên thế giới trong rất nhiều các loài hàu khác nhau (xem bảng 1).

Theo các nghiên cứu này, có thể nhận thấy nồng độ Cd dao động rất lớn theo các vùng biển khác nhau. Nồng độ Cd cao nhất trong hàu được tìm thấy nhiều ở Trung Quốc với số lượng các nghiên cứu công bố nồng độ Cd trên 10 mg/kg khô cao hơn hẳn các khu vực khác. Nồng độ này vượt nhiều lần so với giới hạn Cd trong thực phẩm ở nhiều nước trên thế giới là 2 mg/kg khô (FAO/WHO, Trung quốc, Úc, Newzealand, Việt Nam). Bên cạnh đó, một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ Cd trong cơ thể hàu có thể gia tăng khi lượng Zn tích lũy trong chúng lớn [11]. Chính vì vậy, nồng độ Cd tích lũy cao tìm thấy trong cơ thể hàu ở các vùng Trung Quốc (TQ) có thể do sự ơ nhiễm Zn ở nhiều vùng cửa sông nước này. Một nghiên cứu năm 2014 của Liu và Wang đã chỉ ra rằng khi hàu bị phơi nhiễm trong môi trường nồng độ Cu và Zn cao có thể gia tăng khả năng tích lũy sinh học kim loại Hg, trong khi đó, chỉ có phơi nhiễm Zn mới làm gia tăng khả năng tích lũy sinh học Cd trong hàu [12]. Điều đó chứng tỏ rằng, khơng nhất thiết Cd hay Hg trong mơi trường có nồng độ cao mới cho kết quả các kim loại này tích lũy cao trong cơ thể hàu.

Theo kết quả trình bày trong bảng 1, cả hai kim loại Cu và Zn, được biết đến như thành phần thiết yếu cho các lồi thân mềm, đều có nồng độ cao. Cụ thể, nồng độ cao nhất của hai kim loại này phát hiện ở Trung Quốc và châu Úc. Những kết quả này có thể xem là kết quả từ môi trường ô nhiễm tại các khu vực này [13].

Nồng độ Pb trong các mẫu hàu cũng khá được quan tâm do những tác động xấu của chúng đến sức khỏe con người. Các kết quả cho thấy thường nồng độ Pb trong hàu ở mức nhỏ hơn 4 mg/kg khô. Nồng độ thấp của Pb trong cơ có thể hàu được lý giải do sự giảm nồng độ Pb trong môi trường những năm gần đây khi các chế tài kiểm soát Pb trong nhiên liệu được thực thi hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn có một số khu vực phát hiện mẫu cao đột biến trên 40 mg/kg khô như tại Cảng Legeh, Iran cho thấy những khả năng tiềm ẩn ô nhiễm Pb trong công nghiệp gây ra các tác động đến sinh vật vẫn lớn.

Đối với Ni và Cr, số lượng các nghiên cứu về các kim loại này trong hàu không nhiều. Nồng độ Ni và Cr trong các mẫu hàu tìm thấy dao động trong mức thấp tương đương nhau quanh khoảng 1 mg/kg khơ. Thường thì tích lũy tổng Cr trong mẫu hàu ít được quan tâm lắm do kim loại này trong môi trường tồn tại ở những hóa trị khác nhau rất phức tạp (Cr III và Cr IV), mỗi dạng cũng có những ảnh hưởng khác nhau đối với các loài hàu. Hầu hết các nước khơng có quy định về nồng độ Cr và Ni trong sinh vật hai mảnh vỏ làm thực phẩm, riêng Mỹ có quy định cho các thực phẩm là các loài vỏ cứng (shellfish) nhập khẩu phải đáp ứng nồng độ Ni ≤ 80 mg/kg ướt và Cr ≤ 13 mg/kg ướt (thường tỉ lệ khối lượng ướt gấp 6-10 lần khối lượng khô đối với hàu [13]).

<i><b>Bảng 1</b>. Nồng độ kim loại trong hàu ở các vùng trên thế giới. </i><b>Thời </b>

<b>gian </b><b>lấy </b><b>mẫu </b>

<b>Vị trí </b> <b>Lồi </b> <b>Cd </b> <b>Cu </b> <b>Zn </b> <b>Ni </b> <b>Pb </b> <b>Cr </b> <b>Hg </b> <b>Đơn </b>

<b>vị </b>

<b>Tham </b><b>khảo </b>

<b>Châu Á </b>

</div><span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

2013 Hàn quốc 0,19 11,1 46,8 0,06 0,06 0,10 0,00 ướt 10/2010 Cảng Lengeh,

Iran <i>S. cucullata </i>

11,1 ± 1,6

324± 111

748 ± 73,8 -

41,2±

18,0 - -

mg/kg khô [15]

10-11/2012

Cửa sông Bakam, Malaysia

<i>S. cucullata </i> -

63,0 ± 0,14

109 ±

0,2 - - - -

mg/kg khơ [16]

3-7/2013

Hải Phịng (HP) & Hạ Long, Việt Nam (VN) <i>Saccostrea </i><i>glomerata </i>3,53 – 12,7 238 – 1.598 824 – 3.202 -

0,79 – 6,20 0,81 – 4,47

- mg/kg khô [17]

4/2011 Cửa sông Pearl, TQ <i>Crassostrea </i><i>hongkongensis </i>14,4 ± 7,8 923 ± 477 2.894 ± 941 -

1,6 ±

0,4 - -

mg/kg khô [18] 6,5 ± 23,3 511 ± 4.966 1.974 ± 4.897

- 1,1 ±

2,3 - -

mg/kg khô

7/2014 Vịnh

Liaodong, TQ <i>C. gigas </i>

61,5 ± 5,3 474 ± 159 21.741 ± 6.123 2,5 ± 1,6 5,9 ± 1,3 2,6 ± 0,91 -

mg/kg khô [19]

5-9/2011

Cửa sông Jiulongjiang TQ

<i>C. sikamea </i> 10 3.600 7.000 4,9 2,7 5,9 - mg/kg khô [20]

<b>Châu Phi </b>

8/2004-5/2005

Atlantic,

Morocco <i>C. gigas </i> 4,54 25,9 481,7 25,8 4,2 7,1 0,4

mg/kg khô [21]

<b>Châu Mỹ </b>

2000-2011

Cửa sông

Savannah Mỹ <i>C. virginica </i> -

90,1 ± 14,8

1.531

± 464 - - -

0,3 ± 0,3

mg/kg khô [22]

2008-2009 Vịnh California, Mexico <i>C. </i><i>corteziensis </i>6,05 ± 2,77 60,0 ± 33,4 777 ± 528 -

1,11 ± 0,63 - 0,38 ± 0,17 mg/kg khô [23]

2012-2013

Santa Catarina, Brazil

<i>C. gigas </i> <0,5 1,71 - 0,05 <0,5 - - mg/kg khô [24]

5-12/2009 Caroni Swamp, Trinidad <i>C. </i><i>rhizophorae </i>0,56 – 1,12 23,5 - 68,8 690 – 3.696 0,56 – 30,8 0,56 – 5,04 1,12 – 1,68

- mg/kg khô [25]

<b>Châu Âu </b>1990-2010 Basque Country, Tây Ban Nha

<i>C. gigas </i> 0,01– 2,06 17,6– 1.253 52 – 6.077 0,01– 5,81 0,03– 7,85 0,01– 4,73 0,02– 0,53 mg/kg khô [26]

4/2012 Cửa sông Thames, Anh Quốc <i>C. gigas </i>2,19 ± 0,73 391 ± 143 1.972 ± 617 -

1,14 ± 0,44

- - mg/kg khô [27]

<b>Châu Úc </b>

2005-2006

Cửa sông

Sydney, Úc <i>S. glomerata </i> - 1.419 6.518 - 8,9 - -

mg/kg khô [28]

01/1991 Sông Hawkesbury Úc <i>C. </i><i>commercialis </i>0,8 – 2,1 160 - 180 1.440-5.440 -

0,1 – 0,5 -

0,12-0,27

mg/kg khô [29]

<b>2.2. Nồng độ kim loại trong các loài nghêu </b>

</div><span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>Nghiên cứu khoa học công nghệ </b></i>

loại nặng trong 12 loài nghêu tại 34 vị trí lấy mẫu vùng ven biển Malaysia đã được cơng bố bởi Md. Faruk Hossen và cộng sự [30]. Theo đó các kim loại là Cd, Pb, Ni, Cu, Zn và Fe được tổng hợp và so sánh với các giới hạn cho phép của Malaysia và một số nước khác cho thấy hầu hết các loài này đạt tiêu chuẩn đối với thực phẩm.

Ở Việt Nam, nghêu Bến Tre <i>Meretrix lyrata</i> là một trong những loại hải sản phổ biến ở khu vực phía Nam. Trong những năm 2003-2007, Phạm Kim Phương và cộng sự đã công bố kết quả thực hiện đề tài cấp Sở Khoa học Công nghệ và luận văn tiến sỹ nghiên cứu vế sự tích tụ và tự đào thải kim loại nặng Cd, As, Pb trong môi trường nuôi nhân tạo cũng như những phân bố ngoài tự nhiên khu vực Cần Giờ của các kim loại này. Đối với nghêu lấy tại bãi nghêu Cần Thạnh (lấy trong 1 đợt), nghiên cứu này phân tích các kim loại trong thịt nghêu và toàn bộ nội tạng cho thấy nồng độ các kim loại Cd và Pb trong nội tạng cao hơn trong thịt rõ rệt (Cd: 0,07 mg/kg trong thịt và 0,20 mg/kg trong nội tạng; Pb: 0,04 mg/kg trong thịt và 0,13 mg/kg trong nội tạng) cịn As thì phân bố đồng đều (1,50 mg/kg trong thịt và 1,70 mg/kg trong nội tạng). Kết quả trong phịng thí nghiệm cho thấy lồi nghêu này tích lũy Pb cao nhất sau đó đến Cd và As; Đào thải nhiều nhất là As (đi từ As (V) sang As (III) và về dạng phức hữu cơ và thải ra ngồi) sau đó đến Pb và Cd (trong đó Cd hưu cơ thì đào thải nhiều hơn Cd vô cơ). Với Pb và Cd mặc dù cơ chế giảm độc tự nhiên có trong cơ thể nghêu nhưng 2 kim loại này lại tích lũy lâu dài trong nghêu và có thể nguy hại khi làm thực phẩm [31]–[33]. Từ năm 2010-2016 cũng có một số các nghiên cứu rải rác về nồng độ kim loại trong loài nghêu này ở các vùng biển ở Việt Nam được thực hiện bởi Nguyễn Phúc Cẩm Tú và cộng sự [34], Nguyễn Thị Kim Phương và cộng sự [35], và Lê Xuân Sinh [36]. Tuy nhiên những nghiên cứu này có quy mơ về số lượng mẫu và thời gian lấy mẫu hạn chế hơn so với nghiên cứu tại Tân Thành và Cần Giờ (Kết quả thể hiện trong bảng 2). Những kết quả nồng độ kim loại trong mẫu nghêu này ở Việt Nam cũng tương đồng như ở Malaysia và một số loài nghêu khác ở Trung Quốc cho thấy hầu hết nồng độ kim loại nằm trong mức cho phép đối với thực phẩm.

Nồng độ Cd trong hầu hết các mẫu nghêu đều nằm trong giới hạn cho phép của thực phẩm ở nhiều nước trên thế giới là 2 mg/kg khô. Tuy nhiên, một số mẫu vẫn phát hiện cao, điển hình là nghêu Nam cực. Kết quả cho thấy Cd cao hơn 2 mg/kg khô ở hầu hết các bộ phận của nghêu Nam Cực, trong đó, thận và tuyến tiêu hóa có nồng độ Cd cao hơn nhiều so với mang (bảng 2). Một kết quả thú vị từ nghiên cứu này cho thấy nồng độ Cd và Fe trong nghêu Nam Cực cỡ lớn cao hơn trong các con nhỏ, minh chứng cho khả năng tích lũy các kim loại này. Mặt khác, nồng độ Mn, Zn và Cu trong các con nhỏ lại cao hơn. Kết quả tương quan nghịch có lẽ liên quan đến tốc độ lọc của các cá thể nhỏ thì cao hơn các cá thể trưởng thành nên lượng kim loại thông qua thức ăn và vật chất lơ lửng đi vào cơ thể sinh vật nhiều hơn [37].

<i><b>Bảng 2</b>. Nồng độ kim loại trong nghêu ở các vùng trên thế giới.</i><b>Thời </b>

<b>gian </b><b>lấy </b><b>mẫu </b>

<b>Vị trí </b> <b>Loài </b> <b>Cd </b> <b>Cu </b> <b>Zn </b> <b>Ni </b> <b>Pb </b> <b>Cr Hg </b> <b>Đơn vị Tham </b>

</div><span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trước

2015 Malaysia

<i>12 loài khác </i><i>nhau </i>0,18-8,51 0,84-36,00 24,13-368,00 1,25-7,80

0,13-19,10 - -

mg/kg khô [30]

5/2010 Vịnh Gamak, Hàn quốc <i>Ruditapes </i><i>philippinarum </i>0,5 ± 0,2 13,6 ± 0,0 76,8 ± 0,3 2,9 ± 0,3 0,8 ± 0,2

3,6 ± 0,5 -

mg/kg khô [38]

3-4/2014

Tiền Giang, VN <i>Meretrix </i><i>lyrata </i>

1,06 ± 0,23

10,3 ± 0,6

81,9 ±

15,8 - - - -

mg/kg khô

[39]

6-8/2014

1,34 ± 0,65

9,27 ± 6,1

82,8 ± 24,7 -

0,55 ±

0,58 - -

mg/kg khô

2015 Cần Giờ, VN

<i>M. lyrata (>24 </i><i>tháng) </i>0,11-0,79 20,26-35,76 117,4-302,55 -

0,10-0,79

0,35-0,45 -

mg/kg khô

[40] <i>M. lyrata </i>

<i>(6-24 tháng) </i>0,21-1,17 15,75-33,43 128,6-311 -

0,15-0,33

0,12-0,41 -

mg/kg khô

<i>M. lyrata (<6 </i><i>tháng) </i>0,07-0,73 15,78-49,5 152,5-315 -

0,11-0,40

0,10-0,27 -

mg/kg khô

3/2012

Phù Long, HP, VN <i>Meretrix </i><i>lyrata </i>0,78 ±0,25 13,14 ±6,55 60,14 ± 4,54 -

1,31 ±0,53

2,10 ±0,23 -

mg/kg khô

[41] Quần Mục, HP,

VN <i>Meretrix </i><i>lyrata </i>1,15 ±0,24 10,57 ±5,56 58,18 ± 7,48 -

1,08 ±0,71

2,33 ±1,14 -

mg/kg khô

2013-2014 Xiamen, TQ <i>M. petechialis </i>

0,04-0,05

- -

- 0,02-<sub>0,10 </sub> ND - mg/kg <sub>khô </sub> [42]

11/2011 6 thành phố

biển, Bắc TQ <i>S. subcrenata </i>

1,93± 0,29

1,21± 0,33

16,8± 3,78 -

0,14± 0,01 0,30± 0,16 0,06± 0,03 mg/kg ướt [43] <b>Châu Phi </b>

4/2007 Địa Trung Hải, Hy Lạp

<i>Tapes </i>

<i>decussata </i> 0,09 3,82 21,87 10,28 0,24 8,47 -

mg/kg khô [44]

8/2004-5/2005

Sidi Moussa, Morocco

<i>Venerupis </i>

<i>decussatus </i> 2,2 11,1 103,1 22,4 4,1 9,6 0,3

mg/kg khô [21] <b>Châu Mỹ </b>

7/1993

Cửa sông Rio de la Plata, Argentina

Corbicula

fluminea

0,5-1,9 28-89 118-316 1,3-

5,8 - 1,3-11 -

mg/kg khô <sub>[45] </sub>

10/2006 Sông

Choctawhatchee Mỹ

<i>C. fluminea </i> 0,25 9,8 14 - 1,2 - -

mg/kg ướt <sub>[46] </sub>

<b>Châu Âu </b>

11-12/2009

Poole Harbour,

Anh <i>C. edule </i> 0,2-0,8 6-13,8 40-160 5,5-14 ND-3,4

1,4-8,5

ND-0,47

mg/kg khô [47]

7/2006 Cửa sông Alb, Đức

<i>Corbicula </i>

sp. 0,1 38 128 0,78 0,28 2 -

mg/kg khô [48] <b>Nam Cực </b>2005-2006 Potter Cove (Nam Cực) <i>L. elliptica </i><i>(mang) </i>2,9 ± 0,8 8,6 ± 5,5

107 ± 17

- - 0,78 ± <sub>0,5 </sub> <sub>±0,30 </sub>0,70 mg/kg <sub>khơ </sub>

[37] <i>L. elliptica </i>

<i>(tuyến tiêu </i><i>hóa) </i>

11 ± 3 73 ± 14 120 ± 8

- - 2,1 ± 2,4 1,4 ±0,6 mg/kg khô <i>L. elliptica </i><i>(thận) </i>129 ± 27 7,3 ± 3,8 2650 ±

750 - -

0,9 ± 0,6 68 ± 97 mg/kg khô <i>Ghi chú: ND – Không phát hiện. </i>

<b>3. HÀU VÀ NGHÊU TRONG QUAN TRẮC SINH HỌC </b>

</div><span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i><b>Nghiên cứu khoa học công nghệ </b></i>

thị môi trường. Với đặc điểm thường sống vùi trong bùn cát, các nghiên cứu về nghêu thường tập trung vào tương quan nồng độ các chất ô nhiễm trong cơ thể và trong vật chất lơ lửng và trầm tích đáy. Trong khi đó, tương quan một số các chất ô nhiễm trong cơ thể hàu với môi trường nước và vật chất lơ lửng thường được công bố hơn so với các môi trường khác.

Phát hiện năm 2013 của Rejomon George và cộng sự cho thấy khả năng áp dụng loài nghêu <i>Villorita cyprinoides</i> làm quan trắc sinh học tại vùng nước tù (backwater) Cochin ở Ấn độ là khả thi khi kết quả nồng độ các kim loại Fe, Co, Ni, Cu, Zn, Cd và Pb có sự biến động liên quan đến dịng chảy hay thời gian gió mùa (monsoon) và vị trí lấy mẫu tại khu vực nghiên cứu. Kết quả phân tích ANOVA cho thấy sự khác biệt có tính thống kê của nồng độ các kim loại nghiên cứu trong sinh vật ở những vị trí chịu tác động khác nhau và trong mùa khác nhau (Mùa gió mùa-monsoon vào 9/2011 lượng mưa >200mm tương đương mùa mưa vùng nhiệt đới; trước gió mùa – pre monsoon vào tháng 4/2011 khi bắt đầu mùa mưa và sau gió mùa-post monsoon vào tháng 12/2010 khi kết thúc mùa mưa). Kết quả cho thấy nồng độ kim loại tăng theo mùa với thứ tự monsoon<post-monsoon<pre-monsoon. Kết quả này được lý giải do khu vực cửa sơng bị vùng địa hình bao bọc làm giảm khả năng làm sạch cũng như những tác động của nước mặn tới q trình tích lũy sinh học. Mặt khác thì bài báo cũng dẫn chứng những nghiên cứu vào thời gian pre-monsoon tại khu vực này thường có dịng thải từ dân cư, nơng nghiệp và cơng nghiệp cao hơn ở mùa khác, hay lưu lượng dòng chảy của các sông ở mùa monsoon và post-monsoon cao hơn mùa pre-monsoon làm kim loại khơng lắng xuống trầm tích hoặc bám nhiều trên vật chất lơ lửng. Ngoài ra, kết quả phân tích tương quan giữa độ dài hay cân nặng của sinh vật với nồng độ các kim loại cho thấy mối tương quan cao ở cả 3 mùa khảo sát [49].

Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác cũng đã phân tích việc ứng dụng các loài nghêu khác nhau làm chỉ thị sinh học cho phát hiện ô nhiễm kim loại nặng trong mơi trường trầm tích đáy như nghêu Manila <i>Venerupis philippinarum </i>[5], nghêu <i>Polymesoda erosa</i> [6] hay nghêu Nam cực [37].

Cũng như nghêu, mỗi loại hàu ở các vùng khác nhau cũng có những mức tích lũy sinh học các kim loại khác nhau và khả năng áp dụng trong quan trắc sinh học một số các kim loại khác nhau. Ở Tây Ban Nha, diễn biến nồng độ của nhiều kim

loại trong cơ thể hàu Thái Bình Dương <i>C. gigas</i> được thực hiện từ năm 1990 đến

2010 đã đưa ra nhiều những bằng chứng cho thấy khả năng áp dụng loài này như một sinh vật quan trắc [26]. Mặt khác, các nghiên cứu độc lập khác nhau trên thế giới cũng cho các kết quả tương quan có ý nghĩa thống kê cao giữa nồng độ một số kim loại với kích thước, tuổi, trọng lượng với cả con hàu hoặc từng bộ phận, cụ thể một số loài hàu khác có thể ứng dụng trong quan trắc sinh học như <i>C. virginica </i>[22]<i> Crassostrea corteziensis</i> và <i>Crassostrea palmula</i> [23], <i>Crassostrea </i><i>rhizophorae</i> [25], <i>Saccostrea glomerata</i> [28].

<b>4. KẾT LUẬN </b>

</div><span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mức lo ngại cho người tiêu dùng khi sử dụng chúng như thực phẩm, tuy nhiên nó lại là đặc tính quan trọng trong nghiên cứu khả năng ứng dụng các loài này vào lĩnh vực quan trắc môi trường hay nghiên cứu về mức độ ô nhiễm môi trường.

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

[1]. S. E. Martin and W. Griswold, “<i>Human Health effects of heavy metals,</i>” Environ. Sci. Technol. briefs citizens, <b>Vol. 15 </b>(2009)<b>,</b> pp. 1–6.

[2]. Q. Tarique, J. Burger, and J. R. Reinfelder, “<i>Metal Concentrations in Organs </i><i>of the Clam Amiantis umbonella and Their Use in Monitoring Metal </i><i>Contamination of Coastal Sediments,</i>” Water, Air, Soil Pollut., <b>Vol. 223</b>, No. 5 (2012), pp. 2125–2136.

[3]. A. Sakellari, S. KaraVoltsos, D. Theodorou, M. Dassenakis, and M. Scoullos, “<i>Bioaccumulation of metals (Cd, Cu, Zn) by the marine bivalves M. </i><i>galloprovincialis, P. radiata, V. verrucosa and C. chione in Mediterranean </i><i>coastal microenvironments: Association with metal bioavailability,</i>” Environ. Monit. Assess., <b>Vol. 185</b>, No. 4 (2013), pp. 3383–3395.

[4]. F. A. Otchere, “<i>Heavy metals concentrations and burden in the bivalves </i><i>(Anadara (Senilia) senilis, Crassostrea tulipa and Perna perna) from </i><i>lagoons in Ghana: Model to describe mechanism of accumulation/excretion,</i>” African J. Biotechnol., <b>Vol. 2</b>, No. 9 (2003), pp. 280–287.

[5]. H. Wu, C. Ji, Q. Wang, X. Liu, J. Zhao, and J. Feng, “<i>Manila clam Venerupis </i><i>philippinarum as a biomonitor to metal pollution,</i>” Chinese J. Oceanol. Limnol., <b>Vol. 31</b>, No. 1 (2013), pp. 65–74.

[6]. C. K. Yap, F. B. Edward, and S. G. Tan, “<i>Concentrations of heavy metals in </i><i>different tissues of the bivalve Polymesoda erosa: Its potentials as a </i><i>biomonitor and food safety concern,</i>” Pertanika J. Trop. Agric. Sci., <b>Vol. 37</b>, No. 1 (2014), pp. 19–38.

[7]. K. W. Wong, C. K. Yap, R. Nulit, M. S. Hamzah, S. K. Chen, W. H. Cheng, A. Karami, and S. A. Al-Shami, “<i>Effects of anthropogenic activities on the </i><i>heavy metal levels in the clams and sediments in a tropical river,</i>” Environ. Sci. Pollut. Res., <b>Vol. 24</b>, No. 1 (2017), pp. 116–134.

[8]. B. A. Markert, A. M. Breure, and H. G. Zechmeister, "<i>Bioindicators and </i><i>biomonitors: principles, concepts and applications,"</i> The Netherlands: Elsevier science (2003).

[9]. M. M. Helm and N. Bourne, “<i>Hatchery culture of bivalves – A practical </i><i>manual,</i>” Rome (2004).

[10]. X. Liu and W.-X. Wang, “<i>Time changes in biomarker responses in two </i><i>species of oyster transplanted into a metal contaminated estuary,</i>” Sci. Total Environ., <b>Vol. 544</b> (2016), pp. 281–290.

[11]. F. Liu and W. X. Wang, “<i>Facilitated Bioaccumulation of Cadmium and </i><i>Copper in the Oyster Crassostrea hongkongensis Solely Exposed to Zinc,</i>” Environ. Sci. Technol., <b>Vol. 47</b>, No. 3 (2013), pp. 1670–7.

</div><!--links-->

Từ khóa » Khả Năng Tích Lũy Sinh Học