Tiểu Luận | ĐOÀN THUẬN | Trang 3

.

Bà HUYỆN THANH QUAN ______________________________________ . huyện thanh quan .

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG BÀI THƠ “ CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ” CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN.

______________________________________________________

Đặng Công Đoãn

Không gian và thời gian là một phạm trù triết học chỉ sự tồn tại của thế giới vật chất. Không có gì tồn tại ngoài không gian và thời gian. Tác phẩm là một thế giới nghệ thuật. Thế giới đó có con người tồn tại trong một khoảng không gian và thời gian đặc biệt.. Không gian và thời gian trong tác phẩm là không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Nó không chỉ là không gian và thời gian vật chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới tinh thần, hiện thực đời sống thông qua tác phẩm văn chương.

Như một lẽ tự nhiên vô hình, hữu cảm, thời gian và không gian đã được các thi nhân bao đời cảm thức, trở thành nỗi ám ảnh miên man, tụ điểm, giội vào thẳm sâu tâm hồn nhà thơ mà hình thành nên thi tứ.

Điểm nổi bật trong cảm thức thời gian ở thơ ca trung đại đó là vị trí chủ đạo của thời gian thiên nhiên vũ trụ bất biến tĩnh tại. Mặt khác, thời gian lịch sử trong thơ tương quan với thời gian vũ trụ. Khi nói tới lịch sử là nói tới sự thay thế triều đại, theo quan niệm thời Trung đại, mọi hưng vong thành bại đều thuộc mệnh trời, cho nên thời gian lịch sử gắn liền với thời gian vũ trụ một cách huyền bí. Vũ trụ tuần hoàn cũng kéo theo sự tuần hoàn của lịch sử. Phạm trù thời gian chỉ được xác nhận trong các khoảng cách lớn: kim – cổ, xưa – nay. Các khoảng cách nghìn năm, vạn năm, gợi ra sự bất biến các khoảng thời gian ngắn chưa được chú ý. Thời gian quá khứ được gọi là tiền, thời gian tương lai được gọi là hậu, véc- tơ thời gian hướng về quá khứ theo trật tự không gian. Một yếu tố nữa là trong văn học trung đại, thời gian con người đã được ý thức trước thực tế tuổi tác, thọ yểu và sự bất lực của con người. Thơ ca phần lớn nói cái hữu hạn của đời người sự nhỏ bé của kiếp người. Theo Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai… Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người”.

Trong thơ trung đại không gian vũ trụ chiếm vị trí ưu thế. Sự phát triển chậm chạp của lịch sử cũng là cho người ta thiên về cảm nhận tính bất biến của không gian. Mặt khác giao lưu thông thương ít phát triển nên người trung đại chưa có quan niệm về thế giới như là tổng thể các nước. Họ hình dung thế giới là thiên hạ, hình dung quốc gia cũng thiên hạ hoặc hình dung qua mô hình sinh tồn non nước, giang san sơn hà. Như vậy, dù muốn hay không, không gian đã được cảm nhận qua năng lực chiếm lĩnh không gian của người đương thời và mang đậm chất chủ quan.

Qui mô không gian có ý nghĩa đặc biệt để biểu hiện sức mạnh tâm hồn. Người xưa nói: “ Hùng tâm đại chí”, chí lớn gắn với không gian lớn. Không gian có tác dụng giải phóng tầm nhìn. Trong không gian tha hương thời trung đại, con người thấy lẻ loi, yếu đuối khi bị bứt ra khỏi không gian quê nhà quen thuộc nên chỉ ra khỏi nhà mười dặm đã có cảm giác “lữ thứ, hoàng hoa” là thế. Đó không chỉ là một mã nghệ thuật mà còn phản ánh một phần sự thực của tâm trạng con người. Đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan, ta có cảm giác tác giả như đang chú ý trước hết đến thời gian. Cách dùng từ “chiều trời”, đưa chiều lên trên là cách nhấn mạnh trước hết đến thời gian. Thời gian được cảm nhận qua tiếng trống dồn gấp gáp, tại thời điểm chiều hôm ấy giội lên trong lòng người bao nỗi niềm thương nhớ

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

Cảm thức thời gian buồn tủi len lỏi vào tâm trạng, tạo nên mạch thơ tràn đầy âm hưởng buồn đau. Bên cạnh đó, chúng ta thấy, thời gian trong thơ các nhà nho thường là thời gian tĩnh tại bất biến. Thời gian vũ trụ trước hết được thể hiện ở ngay các nhan đề thơ nói về một thời điểm vãn cảnh, chiêu cảnh, mộ cảnh, dạ vũ, xuân đán, sơ hạ, xuân hàn, thu nhật hiểu thán…các bài thơ, phong cảnh thường miêu tả cảnh sắc trong một thời điểm trong mùa tĩnh tại.

Câu phá đề gợi cho ta một cảm giác mệt mỏi và chậm rãi của thời gian ban chiều, một thời điểm mang tính ám ảnh văn hoá trong thơ xưa. Câu thơ bắt đầu bằng “trời chiều” và khép lại bằng “bóng hoàng hôn” như muốn hắt cả ánh vàng của nắng chiều lên con người và cảnh vật. Thời điểm chiều hôm là lúc con người trở về sum họp, quây quần cùng gia đình nhưng dường như nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn tạm nghỉ chân trên hành trình xa xôi và vắng vẻ.

Không gian gian trong bài thơ là không gian đăng cao. Từ nơi đây, tác giả phóng tầm mắt khắp bốn phương, thu vào tầm mắt mình những những hoạt động của “ ngư ông”, “ mục tử” chậm chạp kết thúc một ngày làm việc vất vã.

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Ở không gian đó con người có thể nghe thấy “tiếng ốc xa đưa” và tiếng “vẳng trống đồn”. Những âm thanh này vốn không xa lạ nhưng khi đặt vào khung cảnh đất khách quê người thì lại gợi lên sự bâng khuâng, se buồn trong lòng người lữ khách. Hai âm thanh đan quyện vào nhau như muốn báo hiệu sự vội vã của thời gian đang đổ dần về tối.

Trong cái khung thời gian chiều hôm muộn mằn đó, đã tạo nên không gian tâm tưởng thể hiện những suy tư, trăn trở, tình cảm của nhà thơ.

“ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

Hình ảnh “ ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn, thoáng , vừa sôi động. Rừng mơ bạt ngàn càng thấy sự lẻ loi đơn chiếc của thi nhân , hình ảnh “ gió cuốn” gợi sự xao động bên trong của nữ sĩ . Hình ảnh cánh chim chiều “ bay mỏi” cũng gợi tâm trạng của thi nhân. Làm sao giữa không gian bạt ngàn của rừng mai mà nhận ra “ chim bay mỏi” ? Phải có con mắt rất tinh, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải là con mắt của tấm lòng. Còn “ dặm liễu” thì thơ mộng mà “ dặm liễu sương sa” thì vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo. Cái lạnh của sương chiều đã thúc bước chân của người đi đường “ khách bước dồn”. Cái hay của hai câu luận là không gian được mở ra với những hình ảnh đẹp, thơ mộng, gợi cảm và chủ đề “ Chiều hôm nhớ nhà” cũng được mở ra theo chiều sâu của tâm trạng tạo nên không gian suy tư, không gian tâm tưởng cho bài thơ.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn”.

Ở hai câu kết của bài thơ, bằng cách sử dụng điển cố “ Liễu Chương Đài, người lữ”, ta nhận thấy có sự đan xen giửa thời gian quá khứ và không gian nội tâm thể hiện nổi niềm hoài cổ của nhà thơ. Dưới triều Tự Đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Sống trong cung đình, nhưng bà tự coi mình như kẻ “ lữ thứ”, tấm lòng của bà luôn luôn hướng về chốn “ Chương Đài”. Đó chính là nổi niềm hoài cổ, tiếc thương quá khứ vàng son của tiền triều. Sinh trưởng vào thời Lê mạt và Nguyễn sơ, bà đã chứng kiến bao cảnh thay ngôi đổi vị, chiến tranh tang thương. Cái ươn hèn của con cháu Hậu Lê, vua Lê Chiêu Thống toan “rước voi về dày mả tổ”,… Bà huyện Thanh Quan, cũng như thi hào Nguyễn Du, muốn dùng văn thơ để diễn tả “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Vốn là phận nữ nhi, bà không thể viết lên những lời nuối tiếc nhà Lê như là một di thần, nhưng bà chỉ muốn nói lên lòng tha thiết tiếc thương cho một thời rực rỡ xa xưa, bị vùi dập vì loạn ly khói lửa.

Chiều hôm nhớ nhà là một tâm trạng cố hữu, thường hằng của động vật, của con người. Mỗi khi ngày hết, mọi sinh linh đều tìm về nhà, tổ ấm, chốn nương thân để được che chở nghỉ ngơi. Bằng những động tác dứt khoát, sảng khoái (gác mái, gõ sừng), ngư ông và mục tử ra về. Và tuy là bến xa (viễn phố) và thôn lẻ (cô thôn), nhưng họ còn có nơi để mà về. Còn con người lữ thứ kia, giống như con chim bạt gió, mặc dù đang dồn bước nhưng không có nhà để mà về. Chỉ có sự nhớ nhà, sự nhớ về sự nhớ nhà. Bởi thế, đường đi không bao giờ kết thúc. Bởi thế lữ khách trở thành một trường lữ, một người đi.

Trong không gian nghệ thuật Chiều hôm nhớ nhà có đậm đặc những con người đang chịu sức ép của một hoàng hôn cuối ngày: thi nhân với bát ngát nỗi hàn ôn Chương Đài-lữ thứ, lữ khách với những bước nặng nề bồn chồn, ngư ông tìm về viễn phố, mục tử trở lại cô thôn. Chừng ấy con người trong quanh quất một bài thơ không biết mình đang chịu một sự điều phối vô hình mà kỳ diệu của thiên nhiên để nhất nhất tìm về mỗi nơi mỗi chốn của mình.

Bài thơ đưa chúng ta vào một không – thời gian tưởng như cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thời điểm “trời chiều” được cụ thể hoá trong sự “bảng lảng” của “bóng hoàng hôn” mang đến cho ta một buổi chiều như bao buổi chiều khác trong thơ ca xưa. Có nỗi nhớ của người con xa quê:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

(Ca dao)

Buồn trông cửa bề chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

(Truyện Kiều)

Văn học trung đại là một giai đoạn lớn trong lịch sử văn học dân tộc và nhân loại. Đồng thời cũng là một trong ba phạm trù lớn của văn học, bên cạnh văn học cổ đại và văn học cận hiện đại. Do đó, vấn đề thi pháp văn học trung đại trên các quan niệm không gian, thời gian, con người, cái đẹp, không chỉ có ý nghĩa để hiểu sâu thêm văn học trung đại mà còn gián tiếp làm sáng tỏ đặc điểm văn học cổ đại và văn học hiện đại trong thế đối sánh cũng như nguồn mạch tiếp nối sự phát triển văn học Việt Nam./.

Đặng Công Đoãn

Phải chăng Bà Huyện Thanh Quan

đã trau chuốt lại bài thơ «Đèo Ngang» nguyên thủy ?

____________________________________________

Nguyễn Vĩnh-Tráng.

Bà Huyện Thanh Quan và Bà Hồ Xuân Hương là hai nữ sĩ kiệt xuất trong nữ giới của nền Văn Học Việt Nam vào cuốt thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19. Điều đó khó ai phản bác được. Hai nữ sĩ, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi cung cách, nhưng cả hai Bà đều độc đáo.

Rất nhiều nhà phê bình văn học đã cho Bà Hồ Xuân Hương có một văn phong « bình dân », dùng rặt chữ Nôm, còn Bà Huyện Thanh Quan thì có văn phong « bác học », xen Hán tự nhiều trong tác phẩm của mình.

Thật thế, ta thấy rất nhiều thành ngữ chữ Hán trong tác phẩm của Bà Huyện. Theo Wikipedia Tiếng Việt, ngày nay ta chỉ còn 6 bài thơ « thất ngôn bát cú » của Bà, ngoại trừ bài « Cảnh Thu », mà người ta cho rằng có thể là của Bà Hồ Xuân Hương. Trong 6 bài đó có rất nhiều thành ngữ chữ Hán, trừ bài « Qua Đèo Ngang ».

« Thành ngữ chữ Hán » tôi muốn nói ở đây, có nghĩa là ta có thành ngữ chữ Việt (Nam, Nôm) tương đương, như Triêu Mộ 朝 暮 , ta có Sớm Tối; Tuế Nguyệt 歲 月 , ta có Năm Tháng; Đoạn Trường 斷 腸 , ta có Đứt Ruột…

Mặt khác, tôi tìm thấy trong Contes et Légendes du Pays d’Annam của Lê Văn Phát, viết năm 1913, in lần thứ 2, tại Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàigòn 1925, có bài « Le Râle d’eau » . Trong « Le Râle d’eau » lại có bài « Đèo Ngang », vô danh, rặt chữ Nôm, văn phong rất mộc mạc, còn nội dung thì giống hệt nội dung bài « Qua Đèo Ngang » của Bà Huyện Thanh Quan.

Bài « Le Râle d’eau » kể chuyện ngày xưa. Chuyện vua La Hoa (?) nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Môt cận thần tên Quốc đã hết lời can gián và xin hoãn lại cuộc viễn chinh, nhưng nhà vua không nghe. Biết rằng trận chiến này thế nào cũng đem lại thất bại, Quốc xin theo, hầu quyết tâm bảo vệ an toàn cho chúa.

Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa, quá hiếu chiến, quá chủ quan, tiến thẳng đến trận tiền, nên bị trúng tên mà chết. Quá đau đớn, Quốc liều xông ra chém giết giữa muôn tên ngàn giáo để báo thù. Nhưng đơn thương độc mã, nên Quốc đã chết dưới làn sóng của địch quân. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, cứ phảng phất quanh Đèo Ngang để tìm xác chủ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó Quốc tái sinh dưới dạng con chim Cuốc để đêm đêm rít lên những tiếng kêu bi ai của một vị trung thần khóc quốc vương tử trận: «Quốc Quốc, La Hoa », Quốc ở đây, còn La Hoa ở đâu ?

Một văn nhân vô danh, đi qua Đèo Ngang, nhớ lại chuyện xưa, đã làm bài thơ « Đèo Ngang ».

Ông Lê Văn Phát chỉ để lại hai tác phẩn La vie intime d’un Annamite et ses croyances vulgaires, (Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises, Imprimerie F.H Schneider Sàigòn 1907 ), và Contes et Légendes du Pays d’Annam, (Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàigòn 1913), bằng chữ Pháp. Như thế, có thể ông Lê Văn Phát không biết nhiều về các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Những bài của ông Lê Văn Phát viết, toàn là chuyện cổ tích, huyền thoại dân gian cả. Bài « Đèo Ngang » trong Contes et Légendes du Pays d’Annam có thể là một giai thoại dân gian lâu đời, có trước thời Bà Huyện Thanh Quan chăng. Sau đây là bài « Đèo Ngang » theo ông Lê Văn Phát :

Đèo Ngang

Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen ba.

Non cao rải rác tiều vài lão,

Đất rộng lai rai xóm mấy nhà.

Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc, (tên của trung thần Quốc)

Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa. (tên của vua La Hoa)

Dừng chơn ngóng cổ miền non nước,

Một tấm lòng riêng ta với ta.

Vô danh.

Vậy phải chăng Bà Huyện đã lấy bài đó, đã có từ lâu, và trau chuốt lại thành một bài thơ bất hủ như ta đã biết :

Qua đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Ta thử từ từ kiểm xét xem.

Sáu bài thơ của Bà Huyện như sau :

1 – Chùa Trấn Bắc

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu

Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau

Mấy tòa sen tỏa hơi hương ngự

Năm thức mây phong nếp áo chầu

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau

Người xưa cảnh cũ nào đâu tá

Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu.

Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 5 thành ngữ chữ Hán và 1 chữ Hán. Cộng tất cả 11 chữ Hán:

Hành cung 行 宮 ;

cố quốc 故 國 ;

hương ngự 香 御 ;

phong 封 ;

phế hưng 廢 興 ;

kim cổ 今 古 ;

2 – Ðền Trấn Võ

Êm ái chiều xuân tới Trấn đài

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

Ba hồi triêu mộ *, chuông gầm sóng

Một vũng tang thuơng, nước lộn trời

Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn

Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi

Nào nào cực lạc là đâu tá

Cực lạc là đây, chín rõ mười

Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 4 thành ngữ chữ Hán và 4 chữ Hán. Cộng tất cả 12 chữ Hán:

trấn đài 鎮 臺

trần ai 塵 埃

triêu mộ 朝 暮 (sớm tối)*.

tang thương 桑 蒼

ái 愛 ; trùng 重

ân 恩 ; trượng 丈

* Ba hồi triêu mộ là ba hồi chuông sớm tối. Có rất nhiều tác giả, ngay cả các tác giả gốc miền Trung và miền Nam là những người phân biệt rõ ràng hai phụ âm đầu tr và ch đã lầm lẫn viết sai hai chữ chiêu mộ thay cho hai chữ triêu mộ, như trên « Wikipedia Tiếng Việt ».

3 – Cảnh Chiều Hôm

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn

Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 5 câu dùng 8 thành ngữ chữ Hán. Cộng tất cả 16 chữ Hán:

Hoàng hôn 黃 昏 ;

ngư ông 漁 翁 ; viễn phố 遠 鋪 ;

mục tử 牧 子 ; cô thôn 孤 村 ;

chương đài 章 臺 ; lữ thứ 旅 次 ;

hàn ôn 寒 溫 .

4 – Thăng Long thành hoài cổ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường.

Bài nầy đã phá kỷ lục, trong 8 câu, mỗi câu đều có thành ngữ chữ Hán, với 10 thành ngữ. Cộng tất cả là 20 chữ Hán :

tạo hóa 造 化 ; hí trường 戲 場

tinh sương 星 霜 (năm)

thu thảo 秋 草

lâu đài 樓 臺 ; tịch dương 夕 陽

tuế nguyệt 歲 月

tang thương 桑 蒼

kim cổ 今 古

đoạn trường 斷 腸

Chỉ có bài :

5 – Nhớ Nhà

Vàng tỏa non tây, bóng ác tà

Ðầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa

Ngàn mai lác đác, chim về tổ

Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà

Còi mục thét trăng miền khoáng dã

Chài ngư tung gió bãi bình sa

Lòng quê một bước càng ngao ngán

Mấy kẻ tình chung có thấu là

Vỏn vẹn 2 câu với 2 thành ngữ và 2 chữ Hán. Tất cả 6 chữ Hán.

mục 牧 ; khoàng dã 曠 野

ngư 漁 ; bình sa 平 沙

6 – Qua đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bài nầy không có chữ Hán, hay có chăng là 2 chữ rất thông dụng, chữ quốc 國 , chữ gia 家 lập lại 2 lần. Hơn nữa, hai chữ Quốc Quốc, Gia Gia là hai tượng thanh của tiếng kêu của con Cuốc Cuốc (Đỗ Quyên) và con Đa Đa (Gà Gô).

Vậy, phải chăng Bà Huyện Thanh Quan đã lấy bài « Đèo Ngang » đã truyền khẩu trong dân gian từ lâu, rồi trau chuốt lại, chứ không phải Bà làm ra, vì bài « Qua Đèo Ngang », chẳng những không có văn phong « bác học » của các bài khác của Ba Huyện, mà lại « bình dân », tuy đã trau chuốt hơn văn phong rất mộc mạc và rặt tiếng Nam (Nôm) của bài « Đèo Ngang » mà Lê Văn Phát đề cập tới trong Contes et Légendes du Pays d’Annam.

Nguyễn Vĩnh-Tráng

BÀ HUYỆN THANH QUAN TÂN BIÊN CỔ SỰ

___________________________________________

Phi Ngọc Hùng

Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết, người biên khảo đất La Sơn cặm cụi trong thư phòng. Ông xuất thân Sorbonne năm 1936, ngồi ở cái bàn cổ Louis thứ 16 này từ năm 1952. Với gia sản một mẻ chữ Nôm, khủng khỉnh cọ đít nồi nhăm câu đối Hán để hoài nghi chi hồ giả dã rằng một số thơ truyền khẩu trong dân gian của bà Hồ Xuân Hương là giả, là không có thật.

Chuyện là đang vật lộn với bài khảo luận, biên khảo có tựa đề Bà Hồ Xuân Hương tân biên liệt truyện, nhưng ông lại đụng chạm đến bà Huyện Thanh Quan. Số là hai bà cùng làng Nghi Tàm, lại có chung hai bài thơ Chùa Trấn Bắc và Cảnh thu cho đến bây giờ trong văn học sử còn đang tồn nghi. Riêng bà Huyện, những tác phẩm của bà được truyền tụng qua những bài Đường thi như Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Nhớ nhà, Cảnh chiều hôm nhiều thành ngữ chữ Hán hơn bài Qua Đèp Ngang.

Vì vậy ý tại ngôn ngoại của ông là bà Huyện chưa chắc đã đi qua Đèo Ngang?

Ấy là ông ăn vẹt ở mòn cho là vậy, nhưng theo ông chủ quan và suy luận vô căn cứ là hai nguyên nhân dẫn tới sai lầm của nhà biên khảo. Nguyên nhân chính là sự tin tưởng hoàn toàn vào sách cũ, thu mình trong thư viện, do không đánh giá, chọn lọc, không cân nhắc kỹ càng các tài liệu sẽ để lại những sai lầm cho người đi sau.

Thế nên ông nghĩ phải về Hà Nội một chuyến để tìm hiểu cho ra nhẽ về một số nghi vấn văn học. Rõ ra ông muốn cảo mực đề văn, với ông chẳng qua chỉ là văn chương thiên cổ sự, đắc thất thốn nhân tâm mà thôi. Ông trộm cho rằng văn chương là chuyện ngàn đời hay dở tự mình biết. Một công đôi việc, ông muốn tìm kiếm mồ xanh cỏ lục của bà Huyện Thanh Quan nay ở đâu? Là người cẩn trọng, ông phải lần mò cho ra sự thật với bằng chứng cụ thể. Với giác ngoại biệt truyền bất lập văn tự, nếu như gặp bậc thức giả nào đấy văn kiến súc tích, sở kiến cao minh để ông kiến văn sở thị thì hay biết mấy. Vì muốn có một tác phẩm sưu khảo giá trị, người sưu khảo phải có tinh thần trách nhiệm với tác phẩm của mình, thu thập dữ kiện trung thực.

Lắm khi phải khổ công đi tìm hỏi và lắng nghe…đồng cô bóng cậu chẳng hạn. Và trong cơn đồng thiếp, người biên khảo đất La Sơn thiếp đi trên bàn kỷ với đồ tứ bảo đang bày sẵn…

***

Qua giấc hương quan mơ luống mẫn canh dài, tỉnh giấc mơ hoang người biên khảo đất La Sơn bắt gặp mình đang ngồi đồng ở quán nước vối bên đường. Dưới gốc cầy bàng già cỗi là một quán lợp tranh, lơ thơ vài nải chuối ngự, ít bánh đa vừng, dăm cái kẹo lạc. Ông tự hỏi tại sao mình lại có mặt ở nơi chốn này và cớ sự gì đẩy đưa bên kia đường lại có một ngôi đền…!

Nhưng ông không chắc đó là đền Kim Liên thờ chúa Trịnh Giang. Vì cứ theo như ông gối đầu trên giá sách thì bà Hồ Xuân Hương, tiểu thiếp của ông Hiệp trấn Trần Phúc Hiển ở Quảng Yên. Sau khi ông bị tử hình, bà vào chùa tu và sống những ngày cuối đời ở làng Nghi Tàm, bà từ trần khoảng năm 1822 tại Cổ Nguyệt Đường bên Hồ Tây. Mộ phần trong khu nghĩa địa Đồng Táo trước đền Kim Liên, bên cạnh hồ sen. Nay nghĩa địa đã chìm trong lòng nước Hồ Tây, do việc đắp đường Cổ Ngư chia hai Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch, vì mực nước dâng lên một thước.

Nhòm ngôi đền bên kia đường, ông không thấy có hai con rồng, tức chẳng phải thờ ông. Mà là hai con lân, hiểu theo nghĩa là thờ bà, nói dại chứ với tình làng nghĩa xóm, với nghiệp ngão thì dám dưới mái đền kia thờ bà Đoàn Thị Điểm lắm ạ. Số là bà theo chồng vào Nghệ An đến đền Sòng thì bà mất ở đấy. Di hài bà mang về đây, nhưng mộ bà Đoàn Thị Điểm cạnh Tây Hồ đất lở, đất chùi nay chẳng còn dấu tích như mộ chí bà Hồ Xuân hương. Nhưng may quá là may, năm 1982, khi người đạo diễn Trần Văn Thủy quay phim Hà Nội trong mắt ai đã tình cờ để…mắt tìm được mộ bà ở dưới một đống rác làng Nghi Tàm. Và ông nghĩ quẩn rằng đi tìm mộ chí bà Huyện Thanh Quan trong tha ma mộ địa, nào có khác gì lạc nẻo đường trần vào nghĩa trang Père Lachaise ở Paris. Khi không trong đầu ông bật ra cái ý nghĩ bà Huyện cũng mất ở Nghi Tàm.

Thế là ông bước qua đường để hỏi han trong một ngày nắng ong ong, nắng chầy chầy.

Vào đến chính điện nhang thơm đèn thắp, trầm lắng đứng trước mắt ông là một bức tượng nữ lưu mặc áo dài mầu hồng đào. Nhưng khuôn mặt thật thanh thoát chẳng giống…bà Đoàn Thị Điểm cho mấy, dù rằng từ tấm bé đến nhớn, ông chưa thấy mặt bà lần nào. Lại nữa, không có văn chỉ, sắc phong, bài vị hương linh nên ông không biết là ai. Mắt đảo tít như lạc rang, nhìn qua bên trái, va vào mắt ông là một cụ áo lương khăn lượt, tay phe phẩy cái quạt xếp, đang lui cui sắp hoa quả. Ông chắc như bắp luộc là…cụ Từ giữ đền. Ông giả bộ húng hắng ho đánh tiếng, cụ quay lại. Thêm một lần đập chát vào mắt ông là cái thẻ bài ngà đeo trước ngực. Trong đầu ông râm ran, nếu nhằm vào thời một thưở hoàng kim thì ắt hẳn cụ đây là kim tiền thoát xác của một ông quan. Mà là quan…”cà-mèng”. Vì nếu đeo thẻ bài ngọc hay kim khánh mới là quan quả của triều đình, không bộ Lễ, bộ Hình thì cũng…bộ binh.

Ông gật đầu chào cụ, rồi gật gừ hỏi khuê danh bậc nữ lưu đang hòa nhập hương khói trong một cõi đi về. Cụ nhìn người biên khảo đất La Sơn như nhìn người cõi trên bằng nửa con mắt rùa, vung cái quạt ra hiệu cho ông theo cụ ra sau hậu sảnh. Đi theo cụ, thực mục sở thị qua khuôn mặt tiêu dao, nho nhã, tóm lược thần thái cũng đâu ra đấy nên ông cho là tin tưởng được.

Và ông choáng người vì ngoài hậu sảnh, ngay sân sau là tấm mộ bia của bà Huyện Thanh Quan. Ông ngẩn ra, vì hóa ra cũng như cụ Nguyễn Du, mộ bia của bà được tái dựng lại theo tân hình thức, hậu hiện đại. Thế nên thiếu hẳn nho phong sĩ khí với chữ Nho, chữ Nôm lưu danh thiên cổ, mà chỉ là hàng chữ Quốc ngữ: “Phần mộ Bà Huyện Thanh Quan”. Ngày sinh ngày mất còn để trống. Gần đây trong văn học sử cho là bà sinh năm Ất Mùi 1805, mất nằm Mậu Thân 1848. Sự thể này theo ông, là một nhà biên khảo văn học cẩn trọng không khả tín cho lắm.

Ông đạo đạt sự hiểu biết lỗ mỗ lơ ngơ với cụ áo lương khăn lượt đang đứng bên cạnh. Cụ phất phơ suy nghĩ, rồi phẩy cái quạt chỉ về hướng trai phòng. Sau khi thủ lễ và vấn danh, ông thổ lộ tâm can thổ ngơi ông ở Kẻ Trổ, huyện La Sơn. Đường họan lộ không ngoài biên khảo, biên soạn như đếm củ dưa hành đo lu nước mắm vậy thôi. Hay nói cho đúng ra ông chẳng hẳn là hàn nho mãi tự, mà chỉ vì nhân sinh quý thích chí, hiểu theo nghĩa là thích thì làm. Hơn nữa công việc của ông không ngoài thuật nhi bất tác như người Khổng Khâu, là chỉ thuật lại chứ không sáng tác. Chính xác hơn thì ngành biên khảo không có tính cách sáng tạo mà thuộc về học thuật. Cụ gật gù rằng có nghe ông học trường Bưởi, sau qua Alber Sarraut, rồi đi Tây, xưa kia có về nước làm việc với hội Truyên bá chữ quốc ngữ dậy i tờ…rít, với “a” là…quả na này nọ.

Ông mạo muội tham vấn qúy danh cụ. Cụ khủng khẳng là thời buổi này không có danh thì quá…dễ. Nghe lạ! Tiếp, người biên khảo đất La Sơn bộc bạch ông sinh năm 1908, với ý đồ cả hai đồng canh, đồng tuế để dễ bề xưng hô cho phải lễ nho gia. Làm như điếc đặc, cụ hỏi ông như con dế trống đi xa, lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi, rồi ra ông sẽ dế mèn phiêu lưu ký về đâu? Ông chột dạ vì thấy cụ cũng hay chữ…quê mùa quá lắm. Nên ông ngỏ lời là muốn thêm dữ kiện để biên thuật, biên tác về bà Huyện qua…đồng cô bóng cậu. Vì ông nghe đâu đó dưới Cảng Phòng, có một bé con mới lớn đang bì bạch tắm truồng cạnh chum nước, đột nhiên ngã cái bạch, tỉnh dậy biết mọi chuyện thiên cơ bất khả lậu và hóa thân thành…”Cô”. Đại thể ông muốn hỏi cô đồng bài thơ Cảnh thu và Chùa Trấn Bắc phải chăng là của bà Huyện. Nghe xong cụ quơ cái điếu cày, cái bong bóng lợn xẹp lép bỏ vào cái giỏ mây. Xong, ới một chiếc “xe con”.

***

Ngồi trên xe, ông lẩn đẩn rằng hoài bão ông đang muốn gặp một nhà bác học, bác vật, trên thông thiên văn, dưới thuộc lòng địa lý để kiến văn sở thị thì may quá lại gặp cụ. Nếu như cụ đây là…cụ Từ thật, thì ông cũng ăn mày chữ nghĩa cụ ít nhiều về gia thế, gia cang bà Huyện. Nhưng chả may gì, vì thay đi Hải Phòng cụ nói bác tài ghé đền bà Chúa Liễu, và nhúm một cô đồng. Rồi xuống bãi Phúc Xà bên sông Hồng và…xuống thuyền. Ông chột dạ sao xuống Hải Phòng mà lại đi bằng thuyền! Lại mang cái bong bóng lợn xẹp lép theo? Bỗng cụ quay sang hỏi phải chăng ông là người Hà Tĩnh? Khi không ông đâm ra lo lo, vì đi biển mà cụ đây…lú lẫn thì mất vui.

Thuyền ra cửa biển xuôi nam…Để thăm chừng, ông dọ dẫm cụ về học thuật của ngành biên khảo, vì là nhà biên khảo đúng nghĩa phải có kiến thức rộng rãi, vốn sống, tránh cảm tính hoặc duy lý. Là nhà biên khảo như ông phải biết lý luận và luận giải rằng trong sách vở không nói bà Huyện vào kinh nhận chức Cung trung giáo tập bằng phương tiện nào? Nhưng theo ông thì bà đi bằng thuyền. Nhưng ông chưa có bằng chứng đích xác, chỉ là phỏng đoán.

Cụ rất tâm đắc với ông vì bà Huyện đi bộ hay thuyền thì cũng tới…Huế.

Sau đấy ông bị say sóng, nằm bẹp dí bao lâu chẳng biết nữa. Tỉnh dậy đã tới Nghệ An, mượn nỗi nhớ…Paris đèn vàng. Ông buồn môi ngứa miệng với bài Chiều hôm nhớ nhà không ngoài ý đồ dò la cụ Từ về nỗi hàn ôn, lữ thứ của bà Huyện, về văn khảo, văn học này kia, kia nọ:

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn

Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Ông bình thơ luận phú với cụ là trong 8 câu bài này có 5 câu dùng từ Hán. Theo ông chỉ một vốc chữ Hán không thôi nhưng có hồn, có cốt, có tráng qua chút văn chương chữ nghĩa như thế đấy. Nghe xong, cụ ậm ừ: “Ông giáo dậy i tờ…rít…sao tôi nghe vậy”. Rồi thôi. Thôi thế nào được, ông trộm nghĩ cụ đây chữ nghĩa ăn đong nên…đong không đầy lọ mực. Ông bèn gọt cốt vừa giầy với “Ốc: tù và làm bằng vỏ ốc lớn. Viễn phố: bến xa. Cô thôn: xóm vắng. Ngàn mai: rừng mai. Dặm liễu: dặm đường có trồng liễu, ý nói đường xa. Kẻ chốn Chương Đài: người vợ đang ở nhà. Lữ thứ: người đang ở xa quê. Hàn ôn: lạnh ấm; nỗi hàn ôn là chuyện tâm tình.

Tâm ý ông muốn nhắc khéo cụ là thời trước thế ấy, thời này thế đó, nào có khác gì như cái thời cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân của ông ở bên Tây! Chưa hết, ông tính kể lể cho cụ nghe các nhà học giả, học thật quái ác với râu ông này cắm cằm bà kia (1). Như bài “Chiều hôm nhớ nhà”có tựa đề Cảnh chiều hôm. Bài “Cảnh chiều hôm” lại mang tựa Chiều hôm nhớ nhà. Nhưng nghĩ sao lại thôi, vì Cảnh chiều hôm như là một dị bản của Chiều hôm nhớ nhà nói ra chỉ tổ làm cụ rối như canh hẹ thêm. Thêm nữa, cụ Từ thì biết quái gì về thơ phú với bút khảo. Vớ vẩn cụ lại học thói nho gia như…ông rằng lập thân tối…”dạ” thị văn chương thì cũng rõ khổ.

Khổ đâu chưa thấy đã thấy cụ nhúc nhắc ông muốn hỏi thơ tả cảnh buổi chiều, hay…buổi sáng thì hỏi cô đồng. Thế là cả ba ngồi xuống chiếu. Ông bèn hỏi cô đồng phải chăng bài Cảnh thu là của bà Huyện Thanh Quan? Hỏi rồi, ông ngáo ệch nhòm vì trước mặt cô là cái đĩa có cái chân gà khô queo khô quắt và hai đồng trinh. Cô loáy nhoáy thắp hương, cúi mặt xuống chiếu khấn âm dương một hồi lâu. Trong tĩnh lặng, cô cúi đầu xuống lạy cái chân gà quắt queo ba lạy như tế sống…ông. Ông thuỗn mặt ra vì chả hiểu “đồng cô bóng cậu” này thuộc Tam phủ, Tứ phủ của Đền Phủ Giầy thờ Mẫu địa hay Đền Quốc Oai thờ Mẫu thiên đây?

Xong lễ bộ, đầu lắc lư như…lên đồng. Cô mở mắt nhìn trừng trừng ông và mở miệng ca trù, cung văn “Cậu bắn súng lục, Cô bơi thuyền rồng” với bài Cảnh Thu như thế này đây:

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,

Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ

Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,

Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Múa may hát hỏng một hồi xong, cô hầu bóng: Lạy bà! Bà ở trên ngàn – Thương con đệ tử trần gian bà về và cô dẫn dụ rằng: Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương vào chùa lạy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa. Ngó lên xem thấy xanh om cổ thụ tròn xoe tán, nên…ngẩn ngơ làm bài thơ trên.

Cô liu điu thêm riêng bản Đông châu 1917 thì lại khác:

Lạy thánh mớ bái hai bác chứ. Chứ chuyện là một ngày kia đang qua thu, giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi Xuân Hương ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời, đương khi chén quỳnh đầy vơi, chiều thu hiu hắt, Xuân Hương tức cảnh với thơ rằng thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa…

Cô luận giải là theo văn bản của Antony Landes năm 1892 (2), bài thơ không có đầu đề. Câu thứ hai Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ bị đổi ra là Đố ai vẽ được cảnh tiếu sơ. Rồi “cô hay cậu” gật gừ: Thế thì bài này không phải của bà chúa thơ Nôm, cũng chẳng phải của bà Huyện.

Nghe thủng xong, ông đực ra như ngỗng đực vì sao cô này biết tiếng Tây tiếng u như ông. Chạy trời không khỏi nắng là đồng thiếp nhập vào cô chẳng sai chạy. Vì vậy ông hắng giọng hỏi về bài thơ Chùa Trấn Bắc. Cô nhướng mắt, vẫn giọng ái nam ái nữ: Xá lầm, xá lú, xá mê – Trần gian bà về, bát nhã thuyền huê và cô đắp chữ vá câu:

Bài Chùa Trấn Bắc mà Landes gán ghép cho bà Hồ Xuân Hương thì câu đầu Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu bị sửa thành Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu.Ấy đấy, gì mà dính dáng đến bà chúa thơ Nôm đều bị đảo ngữ lộn tùng phèo hết. Thêm nữa, chùa Trấn Quốc, năm 1884 vua Thiệu Trị mới đổi ra là chùa Trấn Bắc. Trong khi bà mất năm 1822. Vẫn chưa hết, cứ theo như nhà biên khảo Cao Xuân Huy thì bài thơ có tựa đề Trấn Quốc Tự chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt Thi (3). Lạy thánh mớ bái hai bác chứ. Chứ “Cô” đây cũng hết biết luôn.

Thế nhưng ông chắc như cua gạch một nhẽ với câu chót của bài Chùa Trấn Bắc Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu thì chắc chắn không phải là văn phong của bà Huyện. Thêm nữa, vào năm 1813, trên đường đi sứ Trung Hoa, qua Thăng Long, chứng kiến những đổi thay nơi mình đã từng sống suốt tuổi hoa niên, cụ Nguyễn Du cảm khái: “Thiên niên cự thất thành quan đạo – Nhất phiến tân thành một cố cung” tạm diễn nôm là nhà lớn nghìn năm thành đường cái, một mảnh tân thành mất cung xưa. Cũng vậy, bà Huyện Thanh Quan là người Thăng Long (4)chính gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít thở cái tâm thức chung ấy của thời đại, hẳn cũng không tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê. Một lần qua chùa Trấn Vũ, bà cảm tác Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng – Một vũng tang thương, nước lộn trời. Vì vậy ông trộm nghĩ bài thơ của bà Huyện Thanh Quan phải là bài Đền Trấn Vũ như ở trên, chứ không là bài Chùa Trấn Bắc như lâu nay thiên hạ sự truyền tụng. Ông ậm ừ với “Cô” là bà Hồ Xuân Hương khi qua đèo Ngang có câu đối Chơi Đèo Ngang như sau: “Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người đế bá – Trách con tạo lừa cơ tem hẻm, chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim”.

Nghe ông hầu cô bóng cậu xong, cô chầu văn: Bà về bát nhã thuyền huê – Con cõng đệ tử ngồi kề hai bên. Biết ý, ông và cụ Từ ngồi hai bên cô đồng. Và cô tiếp: Bà về để thấy cái nhà bác này khéo dệt chuyện. Vì bà chúa Nôm chỉ theo chồng là ông Hiệp trấn Trần Phúc Hiển cáng võng tới Quảng Yên là hết đất. Có ăn gan giời trứng trâu, thân gái dặm trường cũng chả dám hẻo lánh tới đèo Ngang. Rồi mặt cô đồng như một thánh nữ hiển hiện trên chín tầng trời với hư trúc niết bàn chẳng đâu xa, vái sống ông hai lạy, quay về hướng núi lạy bốn lạy và…thăng. Cô thăng tới…đuôi thuyền vẫn còn đồng bóng tiếp: Lạy bà! Bà đẹp chín nghìn – Trăng còn thua sáng, hoa nhìn kém tươi. Ông hiểu ra bà đây là bà chúa thơ Nôm.

***

Thuyền vượt sóng qua đất Nghi Xuân của cụ Nguyễn Du thì cũng vừa hết chuyện cụ Tiên Điền với bà Huyện Thanh Quan. Thuyền vừa vào địa phận Hà Tĩnh, đất quê của ông và cũng là quê nội bà Hồ Xuân Hương. Thế là ông được thể lân la qua…Qua Đèo Ngang:

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Buồn tình ông thêm dấm thêm tương rằng bà Huyện Thanh Quan chân cứ thung thăng mà bước mà không bị vướng vào câu. Tay cứ tự do vung vẩy mà không ngại bị va vào chữ. Tâm viên ý mã ông muốn lươn khươn với cụ là bà Huyện tới đèo Ngang thì…đi bằng thuyền. Như vua Lê Thánh Tông chả hạn, chả là mùa xuân năm Canh Dần (1471), quốc vương Chiêm Thành là Trà Toàn đem 10 vạn thủy quân đánh úp Châu Hóa. Ngày 16, vua Lê Thánh Tông thống lãnh thủy quân đi đánh Chiêm Thành, trên đường đi gặp mưa, vua có câu thơ răng: “Trăm vạn quân đi đánh cõi xa � Mui thuyền mưu đội thấm quân ta”. Ngày 28, vua bắt sống Trà Toàn ở Chà Bàn. Tháng Tư năm ấy, trên đi về thì gặp lúc hoàng hậu và thái tử đi thuyền nhẹ tới Nghệ An đón vua. Vua đưa hoàng hậu ngược về Hà Tĩnh và rong thuyền ở đây cả một mùa hạ.

Ngại cụ nông choèn, ông muốn cụ thông hanh câu của người xưa rằng nhân bất học bất tri lý, nôm na là người ít chữ chẳng hiểu lẽ hay là…hay. Hay hơn hết, ông câu đọng chữ thừa về bài thơ Qua Đèo Ngang của vua Lê mà ông cho là vua làm khi ghé Hà Tĩnh để cụ tường:

Bãi thẳm ngàn xa cảnh vắng teo

Đèo Ngang lợi bể nước trong veo.

Thà là cúi xuống cây đòi sụt,

Xô xác trông lên, sóng muốn trèo.

Lảnh chẳng đầu mầm chim vững tổ,

Lanh chanh cuối nũng cá ngong triều.

Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả,

Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu.

Ông định hỏi han cụ về hồn phách thơ vua Lê với bà Huyện ra sao. Cụ bỏ ra mũi thuyền đứng, văng vẳng tiếng cụ Từ rơi rớt lại thì bài thơ của vua Lê chả hay ho gì. Chỉ giống nhau…cái tên thôi. Thuyền rẽ mũi vào một eo biển sâu vào đất liền cả mấy cây số. Bên bờ có bãi đất rộng, có làng làm nghề chài cá. Ông men lại, cụ chỉ trỏ rằng trước kia nơi đây thuyền chài tránh bão, sau hải thuyền nhà Nguyễn làm nơi trú quân vì vậy mới có chợ Đồn. Chẳng phải đợi cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, là nhà biên khảo phải có cái nhìn tinh tế, vốn sống, không nên thờ ơ, phải biết lắng nghe. Nghe xong, ông chắc như bắp luộc với cụ là vua Lê đi thuyền đến đây đã thấy bãi thẳm ngàn xa cảnh vắng teo, đèo Ngang lợi bể nước trong veo.

Thêm nữa, nhà biên khảo phải biết dựa dẫm và suy luận. Vì nhẽ dễ hiểu di hài bà Đoàn Thị Điểm từ Nghệ An đưa về Nghi Tàm cũng bằng…thuyền.Thếnên ông càng chắc đinh đóng…thuyền là bà Huyện cũng đi bằng…thuyền như bà Đoàn Thị Điểm. Vì chả nhẽ bà Huyện …đi bộ, còn chỗ ăn chỗ ở, nhiêu khê lắm chứ đâu có đùa. Ngay cả các thầy đồ xưa khi vào kinh ứng thí, còn phải mang cá gỗ để giả đò chấm với nước mắm nữa là. Vì vậy dân gian mới có câu “Bắc Kỳ ăn cá rô cây” là thế. Thế nên bà Huyện cũng như vua Lê thấy thà là cúi xuống cây đòi sụt, xô xác trông lên, sóng muốn trèolà…là bà Huyện trèo lên đèo Ngang ngắm cảnh đấy thôi.

Ghé chợ Đồn, cụ Từ sắm sửa ít đồ nhắm và mua rượu Kim Long san vào cái bong bóng lợn. Xô xác trông lên rồi, rồi cụ rủ cả hai leo lên đỉnh Đèo Ngang ngắm cảnh trời trăng mây nước như vua Lê, bà Huyện xưa kia cả mấy trăm năm trước. Nhưng đồng cô bóng cậu núm xúm trông lên chả muốn…sóng muốn trèo nên lắc đầu nguây nguẩy vì “Cô” đâu phải là…sóng, hay là bà Huyện Thanh Quan mà dám leo lên cái dốc thẳng đứng thế kia.

Leo lên lưng chừng dốc, cả hai phải tạt vào vệ cỏ của một thẻo đất trống hình cánh quạt để nhường chỗ cho đàn trâu mươi con đi qua, trên cổ con to nhất đeo “cái mõ”, theo mỗi bước chân trâu, “chiếc mõ” đong đưa, phát ra tiếng leng keng…leng keng….Ông ngớ ra sao mõ lại kêu “leng keng”. Bèn hỏi. Thì được cụ cho hay đó là âm thanh của dùi sắt gỏ vào vỏ quả bom, ấy là dụng cụ tạo âm thanh thông dụng của làng quê thời chiến tranh với Mỹ. Nom ròm theo chân đàn trâu từ thẻo đất đi xuống triền dốc thoai thoải đầy ổ gà, ổ voi, sống trâu. Ông bắt gặp cái làng nằm dưới chân đèo Ngang, có con sông nhỏ uốn lượn quanh, trên dòng sông đó đây có vài ba con thuyền nan, mui cong bằng phên tre, nứa, có ông già ngồi buông cần câu cá. Cạnh bến sông là chợ Đồn, chợ chiều nằm trên khu đất rộng, mấy túp lều tranh nghiêng ngả, xơ xác…

Khi không người biên khảo đất La Sơn bám như cua cắp với cụ rằng bài Qua Đèo Ngang của bà Huyện với “quốc quốc” và “gia gia”. Thì có thể khởi đầu từ Trần Danh An, một di thần nhà Hậu Lê vay mượn hai câu chữ Hán: “Dạ thính đỗ quyên minh cuốc cuốc – Nhật văn cô điểu khiếu gia gia”, tạm hiểu nghiã là đêm nghe đỗ vũ kêu cuốc cuốc, ngày lắng gà rừng gọi gia gia.

Và người di thần họ Trần gói ghém tâm sự mình trong thơ:

Giá cô tại giang Nam

Đỗ quyên tại giang Bắc

Giá cô minh gia gia

Đỗ quyên minh cuốc cuốc

Vi cầm do hữu quốc gia thanh

Cô thần đối thử tình vô cực

Diễn nghĩa là:

Chim giá cô ở bờ sông Nam,

Chim Đỗ quyên ở bờ sông Bắc,

Giá cô kêu gia gia,

Đỗ quyên kêu cuốc cuốc

Chim nhỏ kêu tiếng nước nhà

Cô thần đối cảnh tình man mác

Ông luận giải từ con đỗ vũ kêu cuốc cuốc, chim giá cô hay cô điểu tức gà rừng hoặc gà gô gọi gia gia, chỉ là hai chữ đối cảnh trong nỗi nhớ nhà. Cụ lại vẫn cái mửng cũ rằng: Chữ nghĩa cụ lờ đờ như gà ban hôm nên đâu có biết…con giá cô, con gà gô nó kêu ra làm sao? Và cứ theo nhẽ cụ thì nhẽ ra hai câu thơ của bà Huyện: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia” phải là: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia” mới hợp tình hợp cảnh theo nhẽ bình thường.

Rồi cụ lựng bựng hỏi ông là vào thời bà Huyện có hai chữ “quốc gia” không?

Nghe vậy, ông phân bua với cụ qua câu nhớ nước đau lòng con quốc quốc thì: “nước” đối với “quốc”. Vì Hán tự thì quốc đây là thổ địa, là một nước. Và câu thương nhà mỏi miệng cái gia giathì: “nhà” đối với “gia”. VìHán tự vớigia đây là nhà, để thành “nước nhà”.Còn “con” ở câu trên đi với “cái”ở câu dưới cũng chỉ là đối chữ thôi. Đó là thể đối thơ thất ngôn có tên “Gối hạc” như Cao Bá Quát với một chiếc cùm lim chân có đế, ba vòng xích sắt bước thì vương.

Tiếp đến, trong cái đầu đất của ông ăn xó mó niêu với bức thư của giám mục Pugunier đề ngày mùng 4 tháng Tư năm 1887 có đoạn sau đây: “…tiếng Việt-nam ghi bằng mẫu tự Âu Châu, kêu là: cuốc ngữ”. Ấy là từ “cuốc ngữ” xuất hiện lần đầu tiên vì thời đó chữ Việt theo chữ La-tin chưa có chữ “q”. Mãi đến năm 1838, J.L Taberd trong Nam Việt dương hợp tự điển mới có một số chữ “q” thay cho một số “c” để có “quốc ngữ” hay “quốc gia”. Cụ Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc ngữ khảo cho biết thêm: “Trong thời xưa, “chữ ta” hay là “chữ An nam” chỉ chữ Nho. Hồi đầu thế kỷ nầy, dân tộc ta nhận ra lần thứ nhứt rằng có một thứ chữ viết riêng cho tiếng nói của ta, đó là chữ Quốc ngữ. Đối với chúng ta, Quốc ngữ là tiếng nói của nước nhà.

Với bà Huyện Thanh Quan, qua chữ nghĩa văn học bà chỉ được biết đến mới đây khoảng giữa thập niên 30 và 40 (4) . Thế nên từ bài thơ chữ Nôm “Qua Đèo Ngang” theo thể Đường luật thất ngôn, bát cú được một người nào đó vì nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc dịch nghĩa ra con …quốc quốc chăng? Nói cho ngay, chính người biên khảo đất La Sơn cũng không hay biết!

Ấy là chưa kể tận tín thư bất như vô thư với ông Lê Văn Phát qua tác phẩm Contes et Légendes du Pays d’Annam bằng chữ Pháp có văn bản Le Râle d’eau trong đó cũng có bài thơ Đèo Ngang rặt chữ Nôm, giống hệt bài Qua Đèo Ngang của bà Huyện. Le Râle d’eau kể chuyện vua La Hoa nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Một cận thần tên Quốc hết lời can gián nhưng vua không nghe. Quốc xin theo để bảo vệ vua. Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa trúng tên chết. Quốc xông ra lấy xác cũng bị chết theo. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, vất vưởng quanh Đèo Ngang để tìm xác chủ. Sau Quốc tái sinh là con chim cuốc cất những tiếng kêu bi ai: “Quốc Quốc, La Hoa, Quốc ở đây, còn La Hoa ở đâu?”.

Ông tính kể cho cụ Từ nghe nhưng lại thôi vì cụ đâu có biết bài Đèo Ngang in ấn năm 1907, từ chuyện dân gian trong thời Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ, ắt hẳn là trước năm Canh Dần (1471) thời vua Lê Thánh Tông đánh Trà Toàn. Vì vậy bài Đèo Ngang này có trước hai bài trùng tên là Qua Đèo Ngang của vua Lê và bà Huyện Thanh Quan.

Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen ba.

Non cao rải rác tiều vài lão,

Đất rộng lai rai xóm mấy nhà.

Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc,

Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa.

Dừng chơn ngóng cổ miền non nước,

Một tấm lòng riêng ta với ta.

Nhìn lên đèo Ngang cao ngất trời, ông lắc đầu ngao ngán vì gì mà cao quá thể vậy trời. Đang ì ạch leo lên, bỗng cụ Từ hỏi ông sao lại gọi là đèo Ngang, nghe…ngang như cua ấy. Ông cũng chẳng hơn gì, cái đầu biên khảo lắm chữ của ông cũng đang bí ngô bí khoai và tự hỏi cớ sự gì chẳng ai bảo ai, từ vua Lê Thánh Tông, di thần Trần Danh An, dân Chàm mất nước, đến bà Huyện đều làm thơ cái đèo…ngang ngang chân núi không một áng mây bay để…rách chuyện cho những nhà biên khảo. Gần tới đỉnh đèo, ông vừa thở ra khói, vừa nghĩ quẩn là bà Huyện đi thuyền qua đây, nghe giai thoại dân gian Chàm với hai câu thơ nguyên thủy: Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc – Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa, rồi đi luôn một mạch tới Huế. Tới kinh đô, bà trau chuốt lại bài Đèo Ngang để có bài Qua Đèo Ngang thành bài thơ của mình chăng? Ai biết đó là đâu, có thể lắm ạ. Và với cảm tính của người biên khảo đất La Sơn là vậy.

***

Vậy mà tới đỉnh đèo…Giời ạ, chọc vào mắt ông là cái Cổng Giời.

Ai mà chẳng hay nhà biên khảo phải có kiến thức và quan sát. Thế nên người biên khảo đất La Sơn biết ngay cổng này do vua Minh Mạng xây năm 1833. Trong khi ấy cụ Từ lôi đồ ăn thức uống ra bày ra ở ngay dười gốc cây cạnh đường. Cụ làm một hơi rượu Kim Long, bắn vài bi thuốc lào, giọng cụ âm ỉ hoài đồng vọng về một thời xưa cũ: “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước…”. Hóa ra cụ đồng cảm với ông, nhòm Cổng Giời cổ kínhcó tự trăm năm kiến trúc kiểu Hy-La Gothic, ông cũng u mặc, u mê đến…Arch Triump ở đại lộ Champs Élysées nữa là…

Là trong một ngày tàn, người biên khảo đất La Sơn nhìn xuống chợ Đồn phía dưới để đi tìm lại hình bóng ngôi làng nằm dưới chân đèo Ngang lúc nãy có con sông uốn lượn quanh. Và ông chỉ thấy trên giải nước mờ nhân ảo vài ba con thuyền đánh cá bé tẻo teo như…cụ Nguyễn Tuân đun nước sôi sủi đầu tăm, mắt cá. Ông đảo mắt xuống cạnh bến sông, quán chợ dăm mái nhà tranh nghèo nàn và bé cỏn còn con như mắt muỗi nên nhòm không ra. Ông lẩn thẩn tự hỏi ông nhòm không ra thì từ trên cao xa đất gần giời như thế này mà bà Huyện Thanh Quan làm sao mà…lom ròm thấy “Lom khom dưới núi, tiều vài chú – Lác đác bên sông, chợ (rợ) mấy nhà”.

Cạn chén hạt mít, cụ Từ nén viên thuốc lào nhét vào ống điếu, châm lửa, thổi ra khói. Nhìn xuống chân đèo, cụ râm ran qua khói thuốc, qua luống đoạn trường: “Một mảnh tình riêng, ta với ta…”. Ông lại lan man ai chẳng một lần trong đời với những tiếc nuối. Cụ cũng thế, thế nhưng ông nhủ thầm: Một mảnh tình riêng nào đây? Nhưng không tiện hỏi…

Hướng theo ánh mắt cụ nhìn xuống chân đèo thoai thoải dốc. Ông không nhìn thấy cỏ cây chen đá, lá chen hoa, mà chỉ thấy lá cây đang đổi dần từ xanh tươi sang xanh thâm…Hoa, hoàn toàn không có, thêm một lần ông cũng chẳng gặp lại…tiều vài chú, mà là những người gánh củi như những cái bóng nhập nhòa từ trên rừng về thôn xóm. Đâu đó có tiếng chim kêu xao xác…như bìm bịp kêu nghe mệt mỏi, não nề. Đứng trên đỉnh đèo, giữa đất và trời, ông làm như nghe tiếng cuốc kêu mà hoang tưởng mình là bà Huyện nghe chim da da…kêu như cuốc gọi hồn với nỗi niềm thương nhà nhớ nước. Niềm hoài cổ đang chầu chực sẵn với thân phận lưu vong của ông, gần nửa đời người ông mới có mặt ở nơi chốn này, vậy mà không như bà Huyện Thanh Quan. Người biên khảo đất La Sơn nghe cuốc kêu chỉ nghe ra là: ” dà dà…bát cát quả cà…bắt cô trói cột…, dà dà…bát cát quả cà…bắt cô trói cột…”.

Như đi guốc vào bụng ông, cụ Từ chép miệng cái bép là thổ ngơi ông ở Hà Tĩnh, ở Tây lâu quen thói nên đụt ra, đâu có hay chim da da hay đa đa còn gọi là “gà cơm cát” vì tiếng gáy của nó nghe: “chát cha chát… chát cha…cha”. Còn chim cuốc hoặc chim giẽ chúng sinh sống dưới ruộng nước, đầm ao… chứ ở đèo Ngang với núi rừng khô không khốc đây làm gì có. Cái giống chim này cứ đến mùa hè kêu cả đêm rồi chết rạc, người Bắc gọi là chim cuốc. Người Trung kêu…chuốc chuốc. Rồi người sau đổ vấy cho bà Huyện cải biên nhớ nước đau lòng con chuốc chuốc, thành…con cuốc cuốc, sau với tiếng Quốc ngữ hóa thân là…con quốc quốc!

Qua lời cụ Từ, ông biết để đó là đèo Ngang không…chim cuốc. Và ý tại ngôn ngoại của ông là bà Huyện chưa đi qua đèo Ngang để…nhớ nước đau lòng con quốc quốclà đúng quá rồi.

Tuy nhiên ngồi dưới gốc cây, ông cũng thầm mến mộ bà Huyện Thanh Quan trong niềm hoài cảm với khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, xanh um cổ thụ tròn xoe tán. Ông tức cảnh sinh tình với trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ, bầu dốc giang sơn, say chấp rượu. Ông làm nhẵn một chấp rượu, vân vo bi thuốc lào như hạt thóc lép và rít một hơi. Ấy vậy mà say đứ đừ. Đầu óc ông cứ váng vất về kẻ chốn chương đài, người lữ thứ, lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Thế nên ông hàn ôn với cụ rằng:

– Cứ theo sở học bấy lâu qua những học giả, biên tác thì bà là một nữ sĩ thời Nguyễn Sơ, người phường Nghi Tàm, huyện Thọ Xương gần Tây Hồ. Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), cụ là tiến sĩ đời nhà Lê và cũng là bạn thân của thi hào Nguyễn Du. Bà là vợ ông Lưu Nghị, người Huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Ông đỗ cử nhân thời Minh Mạng, là tri huyện Thanh Quan, nên người đời gọi bà là bà huyện Thanh Quan. Sau bà được vua Tự Đức vời vào kinh dậy học. Mới vào kinh một tháng thì ông Lưu Nghị mất khi 43 tuổi.

Cầm ly rượu và để đó, cụ tư lự, đăm chiêu:

– Tôi nghe hơi nồi chõ là bà Huyện cùng làng Nghi Tàm với bà Hồ Xuân Hương nhưng nhỏ tuổi hơn. Khi thân phụ bà chúa thơ Nôm dậy học ở Nghi Tàm rồi mất, bà tiếp tục dậy học và bà Huyện là học trò bà Hồ Xuân Hương, thưa Thầy.

Người biên khảo đất La Sơn như muốn nhẩy nhổm lên:

– Thì sách vở ghi chép rành rành bà Huyện là học trò của cụ Phạm Quý Thích mà, thưa cụ.

Cụ Từ đong đưa chén rượu theo từng chữ từng câu:

– Thôi thì Thầy hãy để tôi hầu chuyện giai thoại Sâm cầm của cho Thầy nghe nhá. Sâm cầm là một loại chim quý, rất hiếm, chỉ sống ở vùng ven Hồ Tây. Vì vậy lệ quy định nhà Nguyễn rằng mỗi năm phải nộp năm chim sâm cầm, thiếu một con chim phải phạt vạ. Dân làng Nghi Tàm khốn khổ vì tiệc “tiến” sâm cầm. Nhưng nhờ bà Huyện đang ở kinh đô dâng đơn lên vua bỏ lệ này. Việc thành, làng ghi tên bà Huyện vào Ngọc Phả trong đền thờ bà Đoàn Thị Điểm, ngay trang đầu có tên bà. Lúc bà về làng, quan trên ra lệnh tìm người viết đơn. Nhưng chắt ngoại của cụ Phạm Quý Thích, cụ Phạm đây là thày dạy thân phụ bà là cụ Nguyễn Lý. Người chắt làm tri huyện Hoàn Long đương thời, vì trọng cụ Nguyễn Lý, nên đã ỉm chuyện này đi.

Nhiễu chuyện nữa là cụ Phạm Quý Thích lại là người tình của bà chúa thơ Nôm. Cụ Tam Nguyên Trần Bích San khi viết Xuân Đường Đàm thoại về cụ Nguyễn Du…”sống lại 49 năm sau” cùng Tiến sĩ Phạm Quý Thích, mỗi người làm một bài phúng Hồ Xuân Hương và luận bàn về chữ tình, tài, mệnh, giai nhân. Cả hai đều là người tình của bà Hồ Xuân Hương, thưa Thầy.

Ông ớ ra vì cụ đây là người thông tỏ mọi chuyện, biết cả giai thoại của bà Huyện. Hay cụ là cụ Từ…thật cũng nên. Thế nên những canh cánh bấy lâu, ông mang ra…bắt cua bỏ rọ:

– Vậy chứ giai thoại Phú cho Nguyễn Thị Đào là của bà chúa thơ Nôm hay bà Huyện đây?

Cụ Từ ngần ngừ, rồi lẫm đẫm:

– Nói là giai thọai là của bà chúa thơ Nôm thì chỉ mới có năm 1963, khi người sau tìm ra tập Lưu Hương ký của bà vì bà là thiếp của Trần Phúc Hiển làm quan ở Quảng Yên. Vì bận việc quan, thỉnh thoảng ông ủy thác cho bà chuyện công văn sổ bộ quan nha. Còn giai thoại về bà Huyện thì có từ thưở tám hoánh nào rồi. Không những thế còn nhiều hơn nữa. Như giai thoại “Làm…trâu” chẳng hạn. Chuyện quan Huyện đi vắng, bà ấy thay chồng đăng đường. Một ông hương cống tới xin mổ trâu để giỗ bố. Bấy giờ mùa màng thất bát, triều đình hạn chế mổ trâu trong dịp tế lễ khao vọng để giữ trâu canh tác. Bà ấy ngại ngùng, nhưng trước sự năn nỉ của ông Cống, và cảm động trước hiếu hạnh của ông. Bà hóm hỉnh cầm bút phê vào đơn: “Người ta thì chẳng được đâu – “ƯØ ” thì ông Cống…làm trâu thì làm”. Biết bà Huyện chơi chữ để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông Cống cũng vui vẻ ra về.

Còn giai thoại Phú cho Nguyễn Thị Đào thì nhân một hôm ông Huyện lại đi vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên Nguyễn Thị Đào đến cửa quan kiện người chồng phế bỏ việc gia đình, hắt hủi vợ nhà, nên xin quan trên cho mình được bỏ chồng. Nhận thấy lá đơn lời lẽ rất cảm động, thương cho người thiếu phụ chịu lỡ dở, bỏ cả xuân xanh trong cảnh cô đơn, vì thương cảm…Bà ấy đã thay chồng phê vào lá đơn bốn câu thơ:

Phó cho con Nguyễn Thị Đào

Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?

Chữ rằng: Xuân bất tái lai

Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Hay chuyện, chồng cô Đào kiện lên quan trên, ông Huyện bị cách chức. Nhưng sao đó ông lại được phục hồi, và thuyên chuyển về Bộ Hình thăng chức Lang trung. Cứ theo mấy nhà học giả, học thuật như Thầy…thuật lại thì nhờ có tài văn chương lỗi lạc. Bà ấy được vua Minh Mạng vời vào cung phong chức Cung trung giáo tập. Ấy tôi chỉ biết thế thôi:

Tôi chỉ…”biết” là cái năm bà ấy vào cung để dạy phi tần, công chúa thì vua Minh Mạng đã…chết từ thưở tám kiếp nào rồi, thưa Thầy.

Người biên khảo đất La Sơn lựng khựng trông thấy vì cụ Từ già rồi nên đốc chứng hay sao ấy, lúc này cứ gọi bà Huyện là “bà ấy”. Chưa kịp hỏi cho ra nhẽ thì hốt nhiên cụ cười nhẹ.

Cụ cười thật ấm áp và giọng cũng đầm ấm chẳng kém:

– Thôi thì trăm sự cũng chẳng dấu gì Thầy…

Ngừng lại một chút, cụ vỗ vai ông thân mật:

– Tôi là ông huyện Thanh Quan đây.

Người biên khảo đất La Sơn đang ngớ ra, đang chộn rộn chàng ràng thì…cụ Từ. Ấy quên, thì…quan Huyện làm như khó nghĩ lắm rồi từ tốn:

– Thầy không dậy tôi cũng biết làm biên khảo phải đọc sử ký, địa lý để tìm ra sự thật, chứ không phải là làm cho rối rắm thêm. Nhưng tôi phải đưa ra dữ kiện để Thầy hiệu đính dùm là cứ theo các nhà học giả, học thật thì tiện nội tôi ở kinh một tháng. Trong khi tiện nội tôi rời Nghi Tàm đúng…một tháng sau thì tôi mất.

Vì vậy tôi cũng không biết tiện nội tôi có đi ngang qua Đèo Ngang hay không? Thưa Thầy.

Như có gì suy nghĩ lung lắm, quan Huyện chậm rãi:

– Thầy cứ xem lại Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 1884 của nhà Nguyễn viết toàn bộ lịch sử nước nhà tới đời Lê. Sử thi ghi chép cả chuyện bà Nguyễn Thị Lộ, tiểu thiếp của cụ Nguyễn Trãi được vời vào cung làm Lễ nghi học sĩ. Hoặc giả nhưĐại Nam Thực Lục, ngay cả Quốc Sử Di Biên được vua Tự Đức phụ đính và phê chuẩn năm 1851. Thám hoa Phan Túc Trực còn viết đôi chút tiểu sử về bà Hồ Xuân Hương. Vậy mà không sử sách nhà Nguyễn nào đề cập đến tiện nội tôi? Thế mà những nhà biên khảo đồng nghiệp với Thầy đã ngụp lặn với chữ nghĩa là: “…Nhờ có tài văn chương lỗi lạc, bà Huyện Thanh Quan được vua Tự Đức vời vào cung và phong chức Cung trung Giáo tập để dạy phi tần, công chúa…”.

Quan Huyện chép miệng một cái tách:

– Thì như Thầy đã biết đấy, muốn là nhà biên khảo đúng nghĩa…như Thầy đây thì phải có tâm hồn nhậy cảm, tránh duy lý, không dễ dãi với những dữ kiện, phải cân nhắc kỹ càng những tài liệu chính xác hay không để người sau không bị lầm lẫn?

Quan Huyện thở ra:

– Mà vua Tự Đức nào có…con cái đâu! Thưa Thầy.

Dặn dò xong, quan Huyện đứng dậy, đi qua Cổng Giời, thăng về giời trong u u minh minh…

***

Phần viết thêm:

Loạy nhoạy đến một tháng, người biên khảo đất La Sơn mới trở lại Paris. Trong thư phòng, nay trên tường có treo cái điếu cày và cái bong bóng lợn. Trên cái bàn cổ Louis thứ 16, sáng trưa chiều tối ông ngồi rị mọ với thiên cổ kỳ bút về bà Huyện Thanh Quan. Xuân sinh, hạ trưởng và chẳng đợi đến thu liễn, đông tận, vào một ngày nắng hạ với sinh có hạn, tử bất kỳ… Vừa lúc viết đến đoạn: Dặn dò xong…quan Huyện đứng dậy… thì người biên khảo đất La Sơn thiếp đi và cũng …thăng theo quan Huyện trong một ngày ít nắng nhiều mây.

Bữa ấy nhằm vào tháng 3 năm 1966.

Chót chét cho rằng ông không quay quả về chốn nhân gian này nữa. Rồi lớ quớ thế nào không hay, ông rơi tõm vào lỗ hổng của thời gian…Trở về cõi thế tục trong một ngày nắng chầy chầy, ngỡ rằng đã xong cái nợ chữ nghĩa, người biên khảo đất La Sơn thanh thản bước từng bước trên lối mòn xưa cũ. Cũng mấy hôm rày bên Tây Hồ, dưới gốc cầy bàng là một quán lợp tranh, có ít bánh đa vừng, dăm cái kẹo lạc. Ở đấy có hai người: Một đồng cô bóng cậu, một cụ áo lương khăn lượt. Họ thầm thì bảo nhau rằng Kinh thi có câu bách quế quy vu kỳ thất, rằng trăm năm rồi cũng về nhà. Thế nên họ đang ngồi đợi ông, nếu ngày mai không mưa thì nắng…thì họ và ông sẽ mầy mò chuyện cụ Nguyễn Du viết Truyện Kiều vì bà Hồ Xuân Hương.

Nghe vậy, ông bước đến gần, ngồi xuống và rì rầm bảo họ ông đang theo chân cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khiêng văn lên bán chợ giời, ngoài cái điếu cày, cái bong bóng lợn xách đến đây để làm vài cữ. Ông còn khuân theo bài biên soạn, biên chép có tựa đề dài ngoằng ngoẵng:

Bà Hồ Xuân Hương tân biên liệt truyện.

Thạch trúc gia trang

Hạ chí, Quý Tỵ 2013

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Nguồn: Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Đức Cung, Trần Đăng Khoa

Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Vĩnh Tráng, Lê Xuân Quang.

***

Chú thích:

Xưa văn nhân làm thơ truyền tay nhau thường không có tựa đề, những nữ lưu trong văn học không lấy bút hiệu và họ thường được gọi bằng tên tục. Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Chữ Hán “Hinh” là “Hương” để thành tên. Bà Hồ Xuân Hương qua tập Lưu Hương ký thì Hương là tên gọi và trong bài Mời trầu, bà tự ví “Này của Xuân Hương đã quệt rồi”.

Vì vậy lâu nay những uẩn khúc thi phẩm của hai bà (1) phải chăng có thể vì tên “Hương”?

Ngoài ra người sau hay đổi tựa đề thơ của hai bà.

Như trong tậpHương Đình Cổ Nguyệt Thi của bà Huyện Thanh Quan có bài thơ tựa đề Trấn Quốc Tự. Trong khi bài thơ nôm cũ nhất Chùa Trấn Bắc mà Antony Landes (2) trích lục từ nguồn nào chẳng ai hay lại gán ghép cho bà Hồ Xuân Hương. Vào cuối thế kỷ 19, Antony Landes người Pháp sang nước ta thời họ chiếm Nam kỳ. Ông học tiếng Việt ở trường Thông Ngôn nên giỏi tiếng Việt, ông dịch cả Nhị độ mai. Khoảng năm 1892, ông được bổ làm đốc lý ở Hà Nội. Có thể ông là người Pháp đầu tiên ra Bắc tìm kiếm các tác phẩm của người Việt, rồi thuê hai ba người chép lại. Những gì ông gom góp do con cháu ông Landes cho Société Asiatique lưu trữ lại. Gốc tích đầu tiên về văn học mà sau này được in ra và được gọi là thơ Hồ Xuân Hương là ở trong ấy!

Riêng bài thơ về Thăng Long (4) có hai tên Thăng Long thành hoài cổ và Thăng Long hoài cổ. Bài này dựa theo Hương Đình Cổ Nguyệt Thi lúc đầu có tên “Quá phu quân cố lỵ cảm tác” diễn nghĩa là qua chốn chồng làm quan cũ. Có nguồn cho rằng bài Quá phu quân cố lỵ cảm tác là bà Huyện hoài Lê qua cố đô Thăng Long, qua hình ảnh ông Huyện Thanh Quan. Vì Gia Long (1802) đổi tên là Bắc Thành (bà Hồ Xuân Hương thuộc thời Gia Long), sau Minh Mạng (1831) đổi là Hà Nội (bà Huyện Thanh Quan thời Minh Mạng).Vì Thăng Long là cố đô, nên bà không cho là “thành” như Bắc Thành. Nên với bà Huyện Thanh Quan phải là: Thăng Long hoài cổ…

Với sách vở tam sao thất bản thì: Bà Hồ Xuân Hương, sớm nhất có Xuân Hương thi tập thời Minh Mạng. Sau này còn có nhiều bản chép tay như Quốc Văn Tùng Ký soạn vào thời Tự Đức, đến đầu Duy Tân thêm Xuân Hương thi sao, Tạp thảo tập, Quế Sơn thi tập, Xuân Hương thi vịnh, Liệt truyện thi ngâm, Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập và…Hương Đình Cổ Nguyệt Thi. Uẩn khúc ở chỗ, khi những nhà sưu tầm làm công việc sưu tập thơ bà chúa thơ Nôm thì Hương Đình Cổ Nguyệt Thi (3) của bà Huyện Thanh Quan lại nằm trong danh mục trên.

Ấy là chưa kể tất cả chỉ có tên của thi tập chứ không có nguyên bản của thi phẩm trong ấy. Lại nữa, những người đi sau cho thêm vào những bài thơ không rõ xuất sứ của ai đó theo ý của mình. Trừ Lưu hương ký với 52 bài thơ gồm 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm, nhưng cho đến nay chỉ một số bài được dịch ra chữ Quốc ngữ vì Lưu Hương ký bị thất lạc. Văn bản thơ Nôm thất truyền của bà Hồ Xuân Hương trong kho sách Hán Nôm ở Hà Nội cũng chỉ còn được 3 bản khắc ván in và nhiều bản chép tay khác nhau, tổng cộng khoảng trên dưới 20 văn bản Nôm.

Cho đến nay, theo các nhà làm văn học hay biên khảo thì bà Hồ Xuân Hương có từ 84 đến 213 bài. Và bà Huyện Thanh Quan có từ 5 đến 8 bài. Phải chăng vì ít thi phẩm, nên bà Huyện chỉ được biết đến vào khoảng thập niên 30 qua Cao Xuân Huy, con của Cao Xuân Hạo, nhờ tìm được trong thư tịch củaCao Xuân Dục (1842-1923), chánh chủ khảo trường thi Nam Định 1897 thời Đồng Khánh (Trần Tế Xương là ông tú “rốt bảng” trong khoa thì này). Cao Xuân Dục đã tìm thấy trong tủ sách gia đình Trần Xuân Hảo ở Nam Định tập Hương Đình Cổ Nguyệt Thi (3).

Vì thế bà Huyện Thanh Quan cũng mới chỉ biết đến sơ sài qua Dương Quảng Hàm qua Việt văn giáo khoa thư vào năm 1940(4). Theo những bài viết của những nhà biên khảo thì bà Huyện Thanh Quan chỉ để lại 7 bài thơ Nôm, viết theo thể Đường luật thất ngôn, bát cú. Một số nhà biên khảo khác lại cho rằng bà Huyện Thanh Quan chỉ có 3 bài: Thăng Long Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang còn những bài khác được xếp vào diện tồn nghi.

Bà Huyện Thanh Quan, một hồn thơ hoài nhớ

____________________________________________________

VIỄN CHI

Bà Huyện Thanh Quan đến với thơ như một cuộc “dạo chơi”. Dường như bà không chuyên tâm sáng tác. Số lượng tác phẩm công bố khá khiêm tốn. Đến nay mới tìm ra gần chục bài thơ Nôm thể thất ngôn bát cú. Thân thế sự nghiệp của bà được ghi chép cũng khá sơ sài. Năm sinh năm mất của bà ngày nay cũng chưa tìm ra… Tuy vậy, những áng thơ bà để lại đều thuộc loại kiệt tác được thoát thai từ sự hứng khởi xuất thần. Khác với Hồ Xuân Hương sắc sảo, đanh đá và thô mộc, câu chữ của Bà Huyện Thanh Quan sang trọng, khúc triết, bảng lảng nỗi buồn hoài cổ.

Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, thuộc phường Quảng An, Tây Hồ ngày nay. Xuất thân trong một gia đình hay chữ, bà được học hành chu đáo và nổi tiếng là người giỏi chữ Nôm. Đến tuổi trưởng thành bà Nguyễn Thị Hinh kết duyên với ông Lưu Nghi, thường gọi là Lưu Nguyên Uẩn, đỗ cử nhân dưới triều Minh Mệnh 1828. Ông Uẩn được bổ làm quan tri huyện Thanh Quan (Nay là huyện Thái Thụy) Thái Bình. Bà theo chồng về nơi nhậm chức và cái tên Bà Huyện Thanh Quan xuất hiện từ đó, sau này trở thành bút danh gắn với những bài thơ nổi tiếng của bà. Sống trong thời kỳ nhà Nguyễn lên ngôi, vua Gia Long – Nguyễn Ánh quyết định bỏ kinh thành Thăng Long, chọn Huế làm nơi định đô. Tiếp đến Minh Mạng lại đổi tên kinh thành Thăng Long thành tỉnh Hà Nội, chỉ trong một thời gian ngắn, kinh đô với vị thế huy hoàng gần nghìn năm tuổi trở thành phế đô, không riêng bà Huyện Thanh Quan mà rất nhiều bậc trí thức, lớp sĩ phu Bắc Hà mang trong lòng nỗi xót xa, hoài niệm khôn nguôi. Tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan phản ánh tâm trạng này là một loạt bài như: Chùa Trấn Bắc, Đền Trấn Vũ, Nhớ nhà… Đặc biệt là bài: Thăng Long thành hoài cổ: Tạo hóa gây chi cuộc hí trường/ Đến nay thấm thoát mấy tinh sương/ Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương/ Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt/ Nước còn cau mặt với tang thương/ Ngàn năm gương cũ soi kim cổ/ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Đứng trước cảnh đìu hiu của chùa Trấn Bắc, bà thốt lên: Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu/ Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau/ Một tòa sen rớt hơi hương ngự/ Năm thức mây phong nếp áo chầu/ Sóng lớp phế hưng coi như rộn/ Chuông hồi kim cổ lắng càng mau/ Người xưa cảnh cũ nào đâu tá/ Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu.

Tuy chỉ là phận nữ nhi theo chồng nhưng giai thoại gắn với cuộc đời bà những ngày ông Lưu Nguyên Uẩn làm quan ở huyện Thanh Quan thì khá nhiều. Nổi tiếng nhất là việc bà thay chồng xử kiện mỗi khi chồng không có mặt ở phủ. Chuyện kể rằng có một ông hương cống vừa thi đỗ, nay muốn tổ chức khao để trả nợ miệng thiên hạ. Ông cống làm đơn lên quan huyện xin được mổ trâu giữa lúc mùa màng đang vào vụ làm đất. Hôm ấy quan huyện vắng nhà, nhận đơn bà huyện Nguyễn Thị Hinh thấy ông cống là nho sinh, có chút vì nể lại sẵn tính hóm hỉnh, hay chơi chữ bà liền phê vào tờ đơn hai câu: Người ta thì chẳng được đâu/ Ừ thì ông cống làm trâu thì làm. Ông cống đọc xong, mặt đỏ rần vì cái ý đùa lỡm của bà huyện, nhưng thấy được việc nên cầm đơn ra về. Một hôm khác thấy lá đơn xin ly dị chồng của một người đàn bà với lý do chồng vũ phu, bỏ bê việc nhà… Nội dung lá đơn kể hoàn cảnh của người chủ đơn là Nguyễn Thị Đào rất đáng thương. Ông huyện xếp vào loại không chấp thuận. Bà huyện thì nhìn thấy viễn cảnh tăm tối của cái gia đình ấy nếu không thuận tình cho ly hôn. Tiện tay bà phê vào đơn 4 câu: Phó cho con Nguyễn Thị Đào/ Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai/ Chữ rằng: Xuân bất tái lai/ Cho về kiếm chút, chẳng mai nữa già. Dân gian truyền rằng chính vì chuyện chấp thuận cho ông cống mổ trâu trong lúc thời vụ cần sức kéo, xưa nay vẫn bị cấm, rồi chồng người đàn bà tên Đào kiện chuyện cho vợ mình bỏ chồng bằng mấy câu thơ ấy mà ông huyện Uẩn bị triều đình hạch tội. Ông bị điều về triều đình giữ chức bát phẩm thơ lại ở bộ Hình. Nhưng thời gian sau ông lại được thăng lên Viên ngoại lang và vào Huế nhậm chức. Vua Minh Mạng biết tiếng bà Huyện Thanh Quan hay chữ nên triệu vào nhận chức Cung trung tập giáo. Cuộc ra đi này khiến bà Huyện Thanh Quan càng nhớ quê da diết. Thăng Long vừa là quê hương vừa là kinh đô đã trải biết bao thăng trầm, trở thành nơi neo giữ tâm hồn bao lớp người. Bà ví mình như khách lữ hành không chốn nương thân: Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn/ Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn/ Gác mái ngư ông về viễn phố/ Gõ sừng mục tử lại cô thôn/ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/ Dậm liễu sương sa khách bước dồn/ Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ/ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn. Bà như một kẻ bơ vơ trong cuộc hành trình dằng dặc. Một ngư ông dẫu phải về phố xa (viễn phố), một mục đồng dẫu phải về một thôn nghèo cô quạnh… (cô thôn) vẫn có chốn để về. Nhưng người lữ khách như bà biết về đâu, lấy ai để hàn huyên nỗi lòng giá lạnh… Cũng trong tâm trạng ấy, khi đến đèo Ngang, bà đã xuất thần sáng tác bài thơ “Qua đèo Ngang” và trở thành tuyệt phẩm trong văn học Việt Nam: Bước tới đèo Ngang bóng xế tà/ Cỏ cây chen lá, đá chen hoa/ Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà/ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia/ Dừng chân đứng lại : trời non nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảm hứng chủ đạo trong thơ Bà Huyện Thanh quan là nỗi niềm hoài cổ, thương tiếc nhà Lê. Tâm trạng ấy khiến hầu hết số bài thơ ít ỏi của bà chọn thời điểm mô tả mùa thu và ánh chiều tà. Và có lẽ không ở đâu tiết thu lại đẹp lại buồn, cô liêu như cảnh thu Hà Nội. Trong 7 bài thơ còn lại, có đến 4 bài bà tả cảnh hoàng hôn: Vàng tỏa non tây bóng ác tà (nhớ nhà); Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Thăng Long thành hoài cổ); Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn (chiều hôm nhớ nhà); Bước tới đèo Ngang bóng xế tà (Qua đèo Ngang)…Là người giỏi sử dụng ngôn ngữ và chắc tay trong sáng tác thơ Đường luật, Bà Huyện Thanh Quan đã đóng vào thi đàn Việt Nam những mốc son chói ngời. Thơ của bà là tiếng lòng của một thế hệ người Việt trong giai đoạn đầu thế kỷ XIX. Một quốc gia vừa tái lập sau những năm dài “đàng trong, đàng ngoài” giữa lúc chấm hết của một nhà Lê già cỗi, suy vi, một vầng hào quang mới nhà Tây Sơn vừa lên đã sớm tắt, một triều đại nhà Nguyễn lên cầm quyền với biết bao đổi thay khiến lòng người xao xác…Bà Huyện nói thay tiếng nói của thời đại đó xen những tiếng thở dài nhung nhớ một cuộc sống xưa, một kinh thành xưa huy hoàng đã nằm sâu trong tâm khảm biết bao người khiến cái tình cái ý trong thơ bà vượt khỏi sự hoài cảm về một thời đại cụ thể mà là tiếng lòng đồng điệu của con người ở bất cứ giai đoạn nào khi xa nước, xa quê, lúc khói lam chiều cất lên hay đứng trước một cảnh thu hoang hoải, thoáng buồn. Nét đặc sắc trong thơ bà Huyện Thanh Quan là thế và sẽ sống mãi cùng tâm trạng con người.

Viễn Chi

Giá trị từ Hán Việt trong hai bài thơ Chiều hôm nhớ nhà và Thăng Long thành hoài cổ

của Bà Huyện Thanh Quan

________________________________________________________________

Lê Thị Thuý Hiền

Chiều hôm nhớ nhà và Thăng Long thành hoài cổ là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan – một phong cách trang nhã, lịch lãm và sâu lắng. Đây cũng là những bài thơ hay về đề tài hoài cảm – hoài cổ trong thơ ca Việt Nam Trung đại. Điều làm nên giá trị nổi bật trong thi phẩm của bà được kết tinh bởi nhiều yếu tố mà trong đó phần quan trọng là sự sáng tạo của nhà thơ trong việc sử dụng và kết hợp một cách tài tình hệ thống từ Hán Việt. Thực vậy, yếu tố từ Hán Việt trong hai bài thơ đã thực sự mang lại cho người đọc một sự cảm nhận tinh tế về tình cảm, nỗi niềm, tài năng và nhân cách của bà Huyện Thanh Quan. Điều đáng nói ở đây không phải là sự xuất hiện ít hay nhiều từ Hán Việt trong mỗi bài thơ, mà là cách sử dụng điêu luyện của nhà thơ đã làm nên giá trị nghệ thuật đích thực cho toàn thi phẩm.Giá trị từ Hán Việt trong hai bài thơ Chiều hôm nhớ nhà và Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố.

Gõ sừng mục từ lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ.

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Chiều hôm nhớ nhà là một đề tài quen thuộc, được nói đến trong nhiều bài thơ nổi tiếng như Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, Ngắm cảnh chiều ở Hán Dương của Nguyễn Du. Nhưng với Bà Huyện Thanh Quan, chủ đề đó đã được ghi dấu ấn đậm nét bằng một phong cách sử dụng từ Hán Việt.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ lựa chọn những tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng của thời gian chiều tà: hoàng hôn của thiên nhiên và hoàng hôn của cuộc sống con người. Từ hoàng hôn không chỉ để thông báo khoảng thời gian chen lấn giữa đêm và ngày mà nó còn tạo nên cảm giác về một thiên nhiên vắng vẻ và buồn. Cuộc sống của con người được tác giả ghi lại bằng hai chi tiết của cảnh chiều:

Gác mái ngư ông về viễn phố.

Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

Nhạc điệu câu thơ chậm rãi, ngắt thành 3 nhịp: Gác mái/ ngư ông/ về viễn phố – Gõ sừng/mục tử/ lại cô thôn. Sự đối xứng giữa các từ ngữ, hình ảnh làm cho cảnh sinh hoạt ở đây có sự vận động nhưng vẫn man mác buồn. Cái hay của bài thơ là ở chỗ từ hình ảnh quen thuộc của ông lão đánh cá và trẻ chăn trâu, nơi bến xa, thôn vắng đã được tác giả sử dụng bằng những từ Hán Việt trang trọng: ngư ông, viễn phố, cô thôn, tạo nên không khí tĩnh lặng, cảnh chiều thêm tĩnh mịch và ẩn chứa một nỗi niềm man mác, bâng khuâng của lòng người. Trong cảnh thiên nhiên buồn vắng đó xuất hiện hình ảnh của con người:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Những cánh chim vội vã cố gắng bay về rừng tìm chốn ngủ, khách bộ hành cũng bước gấp về nơi trú ngụ. Hai câu thơ cũng đối rất tề chỉnh: ngàn mai/ dặm liễu, gió cuốn/ sương sa. Sự đối xứng này làm nổi bật lên nỗi mệt nhọc và sự cố gắng trong cảnh chiều lặng lẽ của khách đường xa. Thông thường cảnh chiều gợi lên hình ảnh hứa hẹn sự sum họp, đầm ấm, nhưng trong bài thơ, tác giả sử dụng các từ Hán Việt ngàn mai, dặm liễu gợi lên cảm xúc xa xôi, buồn vắng, đơn chiếc. Trong hoàn cảnh đó, tâm trạng con người bộc lộ một cách rõ rệt:

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ.

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Kẻ và người đều là những đại từ phiếm chỉ, chủ thể trữ tình được ẩn chứa đằng sau nó. Tuy nhiên, qua đây ta có thể nhận thức được về chủ thể trữ tình – nhà thơ đang trong cảnh sinh ly, bao trùm tất cả là nỗi buồn sinh ly. Và nỗi buồn sinh ly đó được tạo nên bởi từ Hán Việt lữ thứ. Chỉ có những người đi xa sống nơi đất khách quê người mới rơi vào tâm trạng cô đơn buồn vắng như vậy. Kết thúc bài thơ là câu thơ thể hiện nỗi khao khát được tâm sự, giải bày. Biết ai hiểu cho nỗi lạnh ấm của lòng người, của nhân tình thế thái. Bài thơ tả cảnh ngụ tình, từ việc tả cảnh chiều muộn ở nơi xa, tác giả thể hiện nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm trắc ẩn trước nhân tình thế thái, không người tri âm tri kỷ. Tất cả được giãi bày qua những vần thơ trữ tình buồn man mác. Cái độc đáo của bài thơ là nữ thi sĩ đã sử dụng rất thành công hệ thống các từ Hán Việt, làm cho bài thơ trở nên trang nhã, thanh tao mà sâu lắng.

Nhà phê bình Phan Ngọc nhận xét: “… Bà Huyện Thanh Quan trong bài Chiều hôm nhớ nhà đã đẩy lùi bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, của ý niệm… Các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những kẻ chăn châu, những bến xa, những người ở đài cao, những người khách trọ, cảnh lạnh ấm của cuộc đời. Làm gì có những ngư ông, những viễn phố, những mục tử, những cô thôn? Làm gì có trang đài, người lữ thứ, nỗi hàn ôn? Không những thế, các từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định giá trị câu thơ: câu cuối vần để gây tiếng vọng trong tâm hồn ta. Cuối nhịp ở âm tiết 4 để bắt người ta dừng lại ở đây… Nghệ thuật là sự lựa chọn cực kỳ công phu. Bằng cách này, bà Huyện Thanh Quan kéo ta về với cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u hoài của nhà thơ, của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại, không có sự cách biệt giữa tôi và anh…” (Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt – NXB Đà Nẵng 1991, trang 52,53.)

Đề tài hoài cổ, cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã đi qua đã được bà Huyện Thanh Quan thể hiện qua bài Thăng Long thành hoài cổ với thơ thất ngôn – một trình độ ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện, chuẩn xác để miêu tả sự vật, biểu hiện tâm tư.

Bài thơ một lần nữa khẳng định phong cách thơ thanh nhã, trang trọng của bà khi tác giả sử dụng thành công một hệ thống từ Hán Việt. Cũng như ở bài thơ Chiều hôm nhớ nhà, ở bài thơ này phần lớn các từ Hán Việt được đặt vào vị trí quyết định giá trị của câu thơ: từ cuối câu, để lại những dư âm thấm vào tâm hồn người đọc:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ nêu lên một quan niệm về thế lực siêu nhiên vạn năng. Để thể hiện sự quan trọng đó, tác giả không dùng từ ông trời mà dùng từ tạo hóa. Tạo hóa chi phối nhân sinh thế sự, xoay vần cuộc sống xã hội và số phận con người. Tất cả như luôn biến đổi, luôn bị thay thế như một sân khấu diễn trò, lớp này kế tiếp lớp khác và từ Hán Việt hí trường như khắc đậm thêm điều đó. Thực vậy, thời đại lịch sử mà bà Huyện Thanh Quan sống là thời khủng hoảng suy tàn của chế độ phong kiến. Có thể nói đây là nguyên nhân tạo nguồn cảm hứng hoài cổ nơi bà. Tuy nhiên sự gắn bó của bà với triều đại cũ không sâu sắc và mật thiết như Nguyễn Gia Thiều hay Phạm Thái nên thái độ hoài cổ của bà nhẹ nhàng, thanh thoát hơn. Mặc dù vậy, hai câu mở đầu vừa là câu hỏi vừa là câu tán thán với cách sử dụng thành công từ Hán Việt đã ẩn chứa một nỗi niềm luyến tiếc kín đáo của nhà thơ.

Ở hai câu thực, nhà thơ thể hiện tài nghệ điêu luyện của mình trong việc lựa chọn từ ngữ kết hợp tài tình từ thuần Việt và Hán Việt trong một hệ thống niêm luật chặt chẽ. Nhà thơ đã khéo léo chọn hai hình tượng không gian, cảnh vật có tính cách đối lập.

a. Lối xưa xe ngựa / Nền cũ lâu đài

b. Hồn thu thảo / Bóng tịch dương

Hệ thống a. là hình ảnh của không gian nhân tạo, hệ thống b. là hình ảnh của không gian thiên tạo. Không gian nhân tạo không chống chọi nỗi thời gian và đã thuộc về thời gian quá khứ. Những hình ảnh còn lại chỉ là những tàn dư của một quá khứ hoàng kim. Dưới bước đi mạnh mẽ của thời gian, dường như chỉ có cảnh vật thiên nhiên là có khả năng tồn tại, nhưng đó cũng là sự tồn tại trong tàn tạ bởi trong câu thơ gợi hình ảnh của ngọn cỏ thu và ánh mặt trời. Cỏ thu đã trở thành hồn thu thảo và mặt trời chỉ là bóng tịch dương. Dường như ở các câu thơ này, từ Hán Việt là những nốt nhấn cho ý đồ nghệ thuật của các giả. Các cụm từ Hán Việt đã tạo nên những hình bóng không gian mang màu sắc cô liêu tàn tạ. Sự lựa chọn và kết hợp từ độc đáo trên đã tạo nên sự “hòa âm” giữa quá khứ và hiện tại.

Ở hai câu luận, tác giải tiếp tục diễn đạt nỗi niềm hoài cổ trước sự đổi thay qua hình tượng đá trơ gan, nước cau mặt. Đá, nước là biểu tượng của dòng chảy bất tận của vũ trụ và nhân sinh, nhưng ở đây lại mang ý nghĩa phúng dụ cho tâm trạng phủ nhận, chống chọi lại sự đổi thay. Ở hai câu thơ này, nhà thơ lại sử dụng tuế nguyệt, tang thương mang ý nghĩa khái quát rất cao, tạo nên sức gợi cảm cho bài thơ.

Kết thúc bài thơ là một tiếng thở dài tuy nhẹ nhàng nhưng xuất phát từ tâm can:

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Trong bài Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du cũng từng viết:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Để nói về những sự phi lý ở đời như là một quy luật, thì ở trong bài thơ này, với từ Hán Việt kim cổ nhà thơ cũng khái quát lên chuyện hưng phế như là một chân lý ngàn đời không thể thay đổi được. Vì thế, kết thúc bài thơ là một nỗi đau, nỗi bi thương và luyến tiếc về một thời xưa cũ. Đoạn trường là một từ Hán Việt được nhà thơ dùng rất đắt để kết tụ lại nỗi đau đó.

Như vậy, Thăng Long thành hoài cổ là một mẫu mực về nhiều phương diện trong tác phẩm văn học về đề tài hoài cổ. Đặc biệt đề tài hoài cổ cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đi qua nói trên đã được thể hiện qua một bài thơ thất ngôn ngắn gọn, nhẹ nhàng mà tha thiết. Bài thơ càng trở nên trang trọng hơn khi bà khéo léo kết hợp hệ thống từ Hán Việt ở mỗi dòng thơ để tạo nên âm vang của bài thơ. Nhận xét về bài thơ trên, Tiến sĩ Ngôn ngữ học Hoàng Tất Thắng đã viết: “Thăng Long thành hoài cổ là sự hoài cảm về quá khứ, về một thời vàng son đã qua. Hình ảnh trong bài thơ là hình ảnh của ký ức, của tâm tưởng, của những âm vang Hán tự…”.

Với những thành công trên Thăng Long thành hoài cổ xứng đáng là một bài thơ hay của thơ ca thời Trung đại Việt Nam.

Có thể nói rằng, Chiều hôm nhớ nhà và Thăng Long thành hoài cổ là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan – một phong cách trang nhã, lịch lãm và sâu lắng. Đây cũng là những bài thơ hay về đề tài hoài cảm – hoài cổ trong thơ ca Việt Nam Trung đại. Điều làm nên giá trị nổi bật trong thi phẩm của bà được kết tinh bởi nhiều yếu tố mà trong đó phần quan trọng là sự sáng tạo của nhà thơ trong việc sử dụng và kết hợp một cách tài tình hệ thống từ Hán Việt. Thực vậy, yếu tố từ Hán Việt trong hai bài thơ đã thực sự mang lại cho người đọc một sự cảm nhận tinh tế về tình cảm, nỗi niềm, tài năng và nhân cách của bà Huyện Thanh Quan. Điều đáng nói ở đây không phải là sự xuất hiện ít hay nhiều từ Hán Việt trong mỗi bài thơ, mà là cách sử dụng điêu luyện của nhà thơ đã làm nên giá trị nghệ thuật đích thực cho toàn thi phẩm.

Hơn hai trăm năm đã trôi qua, vạn vật và con người có biết bao sự đổi thay, nhưng những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn còn nguyên vẻ đẹp với sức lay động trong mỗi chúng ta nhờ việc sử dụng lớp từ Hán Việt một cách khéo léo, tài tình mà không phải nhà thơ nào cũng làm được.

Lê Thị Thúy Hiền

Bà Huyện Thanh Quan khiến vua Minh Mạng ngơ ngác.

______________________________________

VĨNH KHANG

Trong thời kỳ làm Cung Trung Giáo tập, bà Thanh Quan do tài làm thơ và đức độ dạy học, rất được hoàng đế Minh Mạng tin dùng, quí mến. Vì thế, bà thường được nhà vua đàm luận thơ văn.

“Hóm hỉnh” chê chữ viết của vua

Theo Gia thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách, một hôm nhân dịp chúc mừng một vị quan lớn của triều đình, vua Minh Mạng ban ơn bằng cách viết tặng hai chữ đại tự theo nghệ thuật thư họa. Viết xong, nhà vua đưa cho bà huyện Thanh Quan và hỏi: “Được không?”.

Ngắm nét chữ “rồng bay phượng múa” của nhà vua, bà Huyện Thanh Quan trả lời: Tâu bệ hạ, phúc tối hậu, thọ tối trường (nghĩa là phúc rất dày, thọ rất dài).

Ban đầu, vua hơi ngơ ngác vì không hiểu ý; sau nhìn kỹ lại, ông bèn mĩm cười gật đầu. Thì ra nhà vua đã viết chữ Phúc béo phục phịch và chữ Thọ dài lêu đêu. Bà Huyện Thanh Quan tuy ngầm ý chê chữ viết của Minh Mạng nhưng lời chê thật khéo léo và văn vẻ.

Bà huyện Thanh Quan “hóm hỉnh” chê chữ viết của vua. Ảnh minh họa

Lại nói cùng hôm đó, theo Kể chuyện các vua Nguyễn, hoàng đế Minh Mạng có bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt Nam và có đề thơ nôm cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó, nên vua đưa khoe với những người chung quanh.

Mọi người đã yêu cầu bà huyện Thanh Quan làm một bài thơ chữ Nôm. Bà làm ngay hai câu thơ rằng: Như in thảo mộc trời Nam lại/ Đem cả sơn hà đất Bắc sang. Vua Minh Mạng đã rất thích thú!

Ngoài ra, trong sách Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam, còn có thêm vài cuộc đối đáp, đàm luận thi phú giữa bà huyện Thanh Quan với vua Minh Mạng.

Những giai thoại lý thú

Chuyện kể rằng, lúc ông huyện Thanh Quan (Lưu Nghi) đi vắng, có một cô gái tên là Nguyễn Thị Đào đã đệ đơn lên trình bày rằng chồng đã ruồng bỏ cô để xin được ly dị, lấy chồng khác. Vì thương cảm, bà buyện Thanh Quan đã thay chồng phê đơn bằng mấy câu thơ: Phó cho con Nguyễn Thị Đào/ Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?/ Chữ rằng: Xuân bất tái lai/ Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Hay chuyện, chồng cô Đào kiện quan trên. Quan trên ăn của đút, giáng chức ông huyện Thanh Quan.

Vẫn chuyện “xử án”, một ông đỗ hương cống tới xin mổ trâu để giỗ bố. Lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông này mà chồng thì đi vắng, Bà Huyện Thanh Quan đã cầm bút phê vào đơn câu thơ: Người ta thì chẳng được đâu/ “Ừ ” thì ông Cống làm trâu thì làm.

Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông cũng vui vẻ ra về.

Bà huyện có hoài cổ?

Xét về thơ, nhiều nhà phê bình văn học đã xếp thơ của bà huyện Thanh Quan vào khuynh hướng hoài cổ, vì bà có những bài Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc nói lên lòng luyến tiếc nhà Lê với quá khứ vàng son đã qua, một quá khứ huy hoàng của đất Bắc. Tuy nhiên, vào thời gian gần đây, một số nhà phê bình mới đã bác bỏ quan điểm này.

Theo những người này, bà huyện Thanh Quan đã sống khoảng 6-7 thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, dưới triều các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là lúc triều Nguyễn đã đi vào quy củ vững vàng, đã tự khẳng định như một vương triều chính thống. Chưa kể, chồng bà là quan nhà Nguyễn, không hề ăn lộc vua Lê, chúa Trịnh, nên chắc chắn không thể có thái độ hoài. Minh chứng là trong 6 bài thơ của bà đã có 4 bài thơ buồn, tất cả đều chứa đầy tâm sự mà không tìm được người san sẻ…

Theo Dư địa chí Thừa Thiên Huế, bà Huyện Thanh Quan (Ất Mùi 1805 – Mậu Thân 1848) tên thật là Ngô Thị Hinh (các tài liệu trước đây ghi là Nguyễn Thị Hinh), quê làng Nghi Tàm, huyện Từ Liêm, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội.

Bà thắm duyên với ông Lưu Nguyên Ôn (Lưu Nghi), người làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, làm Tri huyện Thanh Quan (Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) thời vua Nguyễn, nên bà thường được gọi theo chức vụ của chồng là bà huyện Thanh Quan.

Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ nổi tiếng; thơ bà điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật, hàm súc giàu nhạc điệu. Nhờ vậy, thời kỳ bà theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung Trung giáo tập để dạy công chúa và các cung nhân học. Ở Huế, bà giao thiệp và để lại ấn tượng sâu sắc với nhiều kẻ sĩ. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm, năm sau thì qua đời, hưởng dương 43 tuổi.

Bà huyện Thanh Quan đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, trong đó có Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Chiều hôm nhớ nhà… biểu thị lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự. Ngoài ra, còn một bài thơ Cảnh Thu hiện chưa rõ là của bà hay của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Vĩnh Khang

Bà Huyện Thanh Quan, nhà thơ hoài cổ

__________________________________________________________________________

LÊ GIA LỘC

         Bà Huyện Thanh Quan được biết đến với hai câu thơ hoài cổ nổi tiếng

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

       Bà Huyện Thanh Quan (1805 – 1848) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Cha bà đỗ thủ khoa năm 1783, là một cựu thần nhà Lê. Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích – một tiến sĩ đời nhà Lê và là bạn thân của thi hào Nguyễn Du.

        Bà được gọi là Bà Huyện Thanh Quan vì chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình). Ông này tên là Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội); đỗ cử nhân năm Minh Mệnh thứ hai (1821). Làm tri huyện một thời gian, vì can án nên ông bị cách chức, sau lại được làm Bát phẩm Thư lại Bộ Hình, sau cùng được thăng lên chức Viên Ngoại lang.

        Tương truyền, khi chồng bà đang tại chức, có một ông đỗ hương cống tới đệ đơn xin mổ trâu để giỗ bố. Lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông Cống, gặp lúc quan huyện đi vắng, bà phê vào đơn: Người ta thì chẳng được đâu/ Ừ, thì ông Cống làm trâu thì làm. Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông Cống cũng vui vẻ ra về.

         Lần khác, có một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Đào đệ đơn thưa rằng mình bị chồng ruồng bỏ nên xin được ly dị, lấy chồng khác. Bà thay chồng phê đơn thương cảm người phụ nữ bằng mấy câu thơ: Phó cho con Nguyễn Thị Đào/ Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?/ Chữ rằng: Xuân bất tái lai/ Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già! Chồng cô Đào hay chuyện, kiện lên quan trên. Quan trên ăn của đút, cách chức ông huyện Thanh Quan.

         Bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng về tài làm thơ, thơ bà điêu luyện về niêm luật, hàm súc về nhạc điệu. Nhờ vậy, thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho công chúa và các cung nhân. Tại đây, bà giao thiệp và để lại ấn tượng sâu sắc với nhiều kẻ sĩ. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê nghỉ hưu và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm.

          Bà đã để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như: Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc,… Qua những bài thơ chạnh lòng thương tiếc trước cảnh bể dâu với quá khứ vàng son của triều nhà Lê đã đi qua này, nhiều nhà phê bình văn học đã xếp thơ của bà vào khuynh hướng hoài cổ.

        GS. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên – quyển Hai (Quốc học Tùng thư xuất bản, không ghi năm xuất bản) nhận xét về bà: “Bà hướng về một quá khứ mà có lẽ bà cũng không tường tận lắm, và bà cũng chưa thọ hưởng được ân huệ gì; nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia đình… Vì thế thái độ hoài Lê của bà cũng như nhiều nho sĩ đồng thời không có tính cách chính trị, mà chỉ có tính cách tâm tình…”.

         Tác giả Nguyễn Lộc trong Từ điển Văn học (bộ mới) (NXB Thế giới, 2004, tr. 75) cũng đồng cảm như thế: “… nói cho đúng thì cảnh trong thơ bà thực tế cũng không phải là cảnh, mà là tình. Tình cảm của bà thường là sự nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Do vậy, người ta gọi bà là nhà thơ hoài cổ”.

         Bà Huyện Thanh Quan – Nguyễn Thị Hinh quả là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam, như lời ngợi khen của GS. Phạm Thế Ngũ: “Thơ Đường trước bà người ta đã làm vô số, sau bà người ta cũng còn làm vô số. Nhưng trước cũng như sau, có lẽ không ai vượt được Nữ Sĩ Thanh Quan”.

Lê Gia Lộc

 

Nữ tính trong thơ Bà huyện Thanh Quan

___________________________________________

Đặng Tiến

Bà huyện Thanh Quan là một nữ sĩ thời Nguyễn sơ. Về tiểu sử của bà không được đầy đủ lắm. Người ta chỉ biết bà là ái nữ của một vị danh nho, sinh quán tại làng Nghi-tàm, huyện Thọ-xương (nay là huyện Hoàn-long, tỉnh Hà-đông). Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lê Nguyên Uẩn, người làng Nguyệt-áng, huyện Thanh-trì, tỉnh Hà-đông, đỗ Cử nhân năm 1821, được bổ làm Tri huyện Thanh-quan (hiện nay là phủ Thái-ninh, tỉnh Thái-bình). Do đó, nữ sĩ được gọi là Bà Huyện Thanh-Quan.

Về những tác phẩm chữ nôm của Bà, hiện nay chỉ còn truyền tụng một số những bài thơ thất ngôn Đường thi, như: “Thăng-long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Qua Đèo Ngang”, “Cảnh thu”, “Nhớ nhà”, “Cảnh chiều hôm”.

Thơ bà có đặc tính nổi bật là đậm đà lòng nhớ thương quá khứ. Ý ngụ đó đã khiến các nhà phê bình văn học sau này xếp bà vào những thi sĩ có khuynh hướng tình cảm và có tính cách “hoài cổ”.

*

Có những năm tháng đằng đẵng tôi phải sống hoàn toàn xa cách những người thân thuộc. Một phần vì nghề nghiệp, phần khác vì chính tôi muốn xa lánh mọi liên hệ tình cảm, xã hội, để suy tư.Đời sống như thế, có lúc nó trống trải quạnh hiu đến tàn nhẫn. Có những khi đi làm về, leo thang gác để lên phòng, tôi nghe những bước chân trên bục gỗ dội vào tim đau nhói. Tôi biết trước sự trống vắng của căn phòng, tôi biết trước là không có gì chờ đợi, không có gì thay đổi cả. Căn phòng vẫn như cũ, như lúc tôi đi. Tôi bắt đầu nghe thấy mùi ẩm mốc từ bên trong, và tiếng tích tắc của đồng hồ reo, mó vào chìa khoá cửa tôi rùng mình trước khi hơi giá buốt tuôn ra luồn vào cổ áo.Như thế, nhiều đêm tôi sợ quá không dám về phòng nữa.Có một điều lạ là những giờ hiu quạnh nhất tôi thường nhớ đến thơ Bà Huyện Thanh Quan. Những buổi chiều nghe tiếng chim ríu rít gọi nhau về dưới mái hiên, tôi nhớ đến Thanh Quan, những tối nghe mưa thánh thót ngoài cửa sổ, tôi nhớ đến Thanh Quan; thậm chí có những đêm choàng mình tỉnh giấc vì một tiếng thạch sùng chắc lưỡi tôi quờ quạng vào mền chiếu lạnh lẽo, rồi lại nhớ Thanh Quan. Dần dần trở thành một thói quen, thơ Thanh Quan như một lời an ủi, một lời cứu rỗi đối với tôi trong những giờ phút chán nản nhất.

Cuối cùng tôi mới hiểu ra: trong sự trống trải của tâm hồn và thể xác, thơ Thanh Quan là hơi thở đàn bà ấm áp. Đúng, một hơi thở đàn bà; hay một giọng nói êm ái, hay chỉ là cái nhìn im lặng. Có thể của người mẹ, người chị, người vợ, người yêu hay chỉ là một người em gái. Nhưng là một người đàn bà ấm áp.

Có những lúc lòng mình thèm khát một cách xa vắng. Những lúc ấy thơ Thanh Quan bỗng chuyển mình thành một cánh tay nõn nà quàng qua gáy tôi, ôm lấy cổ tôi. Tôi muốn cắn mạnh vào những âm thanh trắng muốt đó.Những lúc ấy có khi tôi rưng rưng nước mắt.

Một vài đêm khó ngủ, tôi lại nhớ Thanh Quan. Tôi lẩm nhẩm đọc thơ bà; một mùi da thịt đàn bà không nồng nàn nhưng mát dịu lẩn khuất bên tôi và ôm lấy giấc ngủ của tôi; tôi có mơ thấy mình đi qua cảnh Đèo Ngang, thăm đống gạch vụn hoang tàn thành Thăng Long, thăm chùa Trấn Bắc; thỉnh thoảng đi với một người đàn bà, thường thường là với những người đàn bà ban ngày tôi hằng mơ ước.

Ý thức được điều đó, lắm khi tôi có cảm giác phạm tội khi đọc thơ Thanh Quan: một thứ tội lỗi u ám, đen tối nhưng êm ái; nhiều buổi sáng tỉnh dậy tôi thở ra thơ Thanh Quan theo từng hơi thuốc lá. Tôi nhìn theo chút hương khói đượm mùi da thịt của thi ca tan dần, mờ dần trong bầu trời xanh buổi sáng. Tôi suy nghiệm, nhận thấy sở dĩ thơ Bà Huyện Thanh Quan gây được một ấn tượng sâu xa như thế, là nhờ một sự nhất trí, nhờ cái hồn chung cho cả mấy bài thơ bà để lại: đó là nữ tính chứa chất trong thơ bà.

Nữ tính dồi dào đến nỗi từ tình cảm đến cảm giác, đến ngôn ngữ, nhạc điệu trong thơ bà, đều là một thứ da thịt đàn bà quyến rũ.

Tình cảm Bà Huyện Thanh Quan có hai đối tượng: là dĩ vãng và gia đình; đây là thứ tình cảm đặc biệt của phụ nữ.

Người đàn bà vốn hay ngoái lại dĩ vãng, dù chỉ là một thứ dĩ vãng không có gì. Văn chương nữ lưu, thường là văn chương kỷ niệm, văn chương của quá khứ.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Nàng tiếc một dĩ vãng không rõ rệt. Nói rằng nàng tiếc những xe ngựa, những lâu đài, e hạ thấp nguồn thi hứng của nàng. Luyến tiếc nhà Lê ư? Không lấy gì làm bằng cớ. Ở đây chỉ là một thứ sầu muộn mông lung, thứ tiếc nuối không cùng. Hoài cổ trong Bà Huyện Thanh Quan chỉ là một lối mơ mộng, một lối giải thoát. Đàn ông giàu suy tưởng, đàn bà giàu tình cảm, nhưng nghệ sĩ dù đàn ông hay đàn bà đều không hài lòng với thực tại. Ôn Như Hầu thì “mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên”, Nguyễn Cống Trứ lại “thảnh thơi thơ túi rượu bầu”; toàn là giải pháp cá nhân nhưng có liên hệ với xã hội; nhưng giải pháp xuất thế của người đàn bà hoàn toàn có tính cách cá nhân vì nó chỉ là một giải pháp trên tình cảm thuần túy kín đáo và riêng tư: mối u hoài dĩ vãng. Nhớ thương quá khứ, nhất là cái quá khứ của người khác, hoặc là quá khứ tưởng tượng là đặc tính của một tình cảm ủy mị, yếu đuối: tình cảm đàn bà.

Lối hoài cổ là biện pháp thoát tục của Bà Huyện Thanh Quan; bà còn tìm một hạnh phúc khác trong tục lụy của hiện tại, là hạnh phúc gia đình.

Bà thường nhớ nhà và nhớ quê hương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Nói rằng chỉ có đàn bà mới nhớ nhà, nhớ quê e quá đáng. Nhưng lòng nhớ nhung ấy là một ám ảnh thường xuyên trong thơ Bà huyện Thanh Quan. Gia đình đối với bà, là một nhu cầu tâm lý cần thiết; không những nhớ mà thôi, mà còn đòi hỏi một cách thiết tha và cấp bách:

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Kể nỗi hàn ôn! Lời nói mới rạt rào tình cảm làm sao! Một tình cảm pha lẫn cảm giác của xác thịt, tế nhị nhưng đằm thắm, tôi tưởng rằng chỉ có người đàn bà mới có những rạo rực sâu xa và sôi nổi như thế. Tả nỗi nhớ nhung của một phụ nữ, Nguyễn Du có những câu tuyệt khéo:

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm

Nhưng Nguyễn Du chỉ tả được cái dáng điệu nhớ nhung hoặc cái ý tưởng nhớ nhung như khi Kiều nhớ Kim Trọng hoặc Thúc Sinh. Còn nỗi hoài mong thật sự, trong sự rộn rực của từng thớ thịt phải là người đàn bà mới cảm thấy và diễn tả nổi.

Khi ngoái lại, với lấy những ảo ảnh êm đềm của dĩ vãng hay khi vươn tới hô hấp lấy khí hậu ấm áp của gia đình, Bà huyện Thanh Quan để lộ ra hai tâm trạng: niềm e sợ thời gian trôi qua và sự cô đơn lạnh lẽo.

Run sợ thời gian là tâm trạng đặc biệt của phụ nữ thời xưa, trong văn chương bình dân cũng như trong văn chương cổ kính.

Còn duyên kẻ đón người đưa,

Hết duyên đi sớm về trưa một mình.

(Ca dao)

Ý niệm thời gian rất dồi dào trong Chinh phụ ngâm; Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm đã mô tả rất sát tâm sự của một người đàn bà nóng lòng trước bóng câu qua cửa sổ:

Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,

Tiền sen này đã nảy là ba…

Bà huyện Thanh Quan khi nghĩ tới quá khứ, thường đau xót, và thỉnh thoảng giật mình run sợ, run sợ đến đứt ruột:

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Không thể hiểu bà tiếc thành Thăng Long đến “đoạn trường”, tình cảm nhức nhối đó phải có liên hệ trực tiếp đến thân phận mới làm bà thốt lên tiếng nấc cuối cùng thảm thiết như thế; đó là lúc nhớ lại câu triết lý xa xưa:

Giai nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.

Nỗi run sợ thời gian đó, tôi cho là một cạnh khía của nữ tính ngày xưa. Trong tâm sự của nam giới, có lúc tính nhẩm “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” như Cao Chu-Thần, nhưng đó chỉ là cớ hưởng thụ hối hả cuộc đời, chứ không phải là niềm đau nhức của tâm tư trước bước chân vội vã của thời gian.

Đồng thời với niềm e ngại trước cuộc sống mong manh, Bà huyện Thanh Quan còn ghi lại niềm e ngại phải cô đơn hiu quạnh:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Sự cô đơn như một trạng thái thường xuyên của tâm hồn, tôi ít khi thấy trong văn chương nam giới. Có khi, người đàn ông thương người tri kỷ quá cố, chớ ít khi than phận cô đơn. Trái lại, một Nguyễn Bình Khiêm đi “tìm nơi vắng vẻ”, một Nguyễn Khuyến tìm thấy hạnh phúc trong cảnh “ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Người đàn bà yêu không gian mênh mông quạnh vắng, nhưng lại cảm thấy lẻ loi, cô độc, và Bà huyện Thanh Quan thích để tâm hồn đong đưa nhè nhẹ trong sự than thân tủi phận, lời nói “ta với ta” là một tiếng thở dài êm ái. Trong những bài thơ nhớ nhà, niềm cô đơn da diết hơn

Lòng quê một bước nhường ngao ngán.

Chúng ta chưa quên bài “Ai tư vãn” của Ngọc Hân Công Chúa, cũng là lời rên xiết của người đàn bà cô độc:

Buồn thay nhẽ sương rơi gió lọt

Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa

Lời thơ Ngọc Hân đau xót hơn, là do hoàn cảnh. Bà huyện Thanh Quan được số mệnh ưu đãi, nhưng vẫn nuôi dưỡng trong lòng cái cảm giác gần như là bản thể của người đàn bà muôn thuở.

Vì tâm hồn người đàn bà muôn thuở là lời mời gọi tình cảm, đồng thời cũng là sự thặng dư tình cảm: một trạng thái vừa thừa vừa thiếu. Một nhu cầu trao đổi nhưng không bao giờ được thoả mãn:

Lòng quê một bước nhường ngao ngán

Mấy kẻ tình chung có thấu là?

Nhu cầu trao đổi tình cảm, Bà huyện Thanh Quan còn gửi đến độc giả. Bà cần san sẻ tình cảm của bà với người đọc: bài thơ luôn luôn là một cái cớ để bà tình tự. Cá nhân bà luôn luôn hiện diện, bà tỏ bày tâm sự của chính mình, một cách thành thật, ngay từ đầu một bài thơ:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà.

Đây là chuyện riêng của một người đàn bà. Thơ bà không bao giờ có tính cách vô ngã như của nam giới, mà là lời tâm sự trực tiếp, lời than vãn, lời trách móc của riêng một người gửi đến một người, phát xuất từ tâm can.

Bà luôn luôn kết luận bằng nỗi lòng; nói khác hơn, thơ nhằm diễn tả nỗi lòng đó; thi ca đối với bà là một phương tiện truyền cảm, một bình thông nhau để truyền bớt phần tình cảm thặng dư: thơ bà là thứ tâm sự đàn bà, một câu chuyện “chị cùng em” rất riêng tư.

Tình cảm nồng nàn và thắm thiết đó diễn tả bằng cách nào? Trước hết là qua những cảm giác của tác giả. Bà huyện Thanh Quan ưa ngắm cảnh vật vào những lúc thiếu ánh sáng; một buổi hoàng hôn còn sót lại một ít nắng tà bảng lảng, hay một ngày mưa lác đác. Đó là thứ không gian mờ nhạt, ảm đạm hay ẩm đục, khác với những khoảng “trời xanh ngắt” của Nguyễn Khuyến.

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

Ánh sáng mờ đục ấy đôi khi che vũ trụ, làm thay đổi những màu sắc của thiên nhiên, làm lẫn lộn những ấn tượng ánh sáng và bóng tối, hoặc tạo những ảo giác của thị quan:

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán

Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ

Âm thanh trong cảnh vật ảm đạm ấy là một thứ âm thanh buồn bã như tiếng mưa nhỏ đều trên những tờ lá chuối, hay thê thảm hơn nữa là tiếng trống rời rạc, tiếng tù và bi thiết. Những âm thanh xa xăm, lạc loài ấy càng gợi thêm ấn tượng vắng vẻ và quạnh hiu.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Tóm lại, cảnh vật trong thơ Bà huyện Thanh Quan là thứ cảnh vật nhìn dưới nhãn quan ướt át của phái yếu. Những xao xuyến nhẹ nhàng thầm kín trong tâm tư phải đi tìm những nét buồn vời vợi, mông lung. Phong cảnh ở đây không thể là một vật rõ rệt, mà phải là một miền khoáng dã, một bãi bình sa, phải là một cảnh vừa mênh mông vừa mơ hồ mới có thể biến chuyển theo nhịp thở của tâm tư, và phản chiếu những màu sắc của nội giới. Như thế, vũ trụ ảm đạm kia là một nhu cầu của nữ tính: một vũ trụ êm ả, mềm yếu, thầm lặng vì được nhận thức qua những giác quan cũng êm ả, mềm yếu, thầm lặng như thế, nghĩa là những giác quan của đàn bà. Tả cảnh mưa gió, Bà huyện Thanh Quan chọn một tàng cây đứng dầm mưa, và tàng cây ấy có một vẻ đẹp đặc biệt, một vẻ đẹp rũ rượi, ủ ê, rất phù hạp với tâm tính yếu đuối, ướt át của người đàn bà.

Hôm qua mưa bụi gió bay

Gió rung cành trúc, gió lay cành bàng

Anh với em cùng ở một làng

Nào em có biết ngõ chàng ở đâu?

(Ca dao)

Người phụ nữ bình dân còn chuộng những cảnh ẩm ướt như:

Trời mưa ướt bụi ướt bờ

Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em…

(Ca dao)

Phong cảnh trong thơ Thanh Quan là những đường nét mênh mông, mơ hồ, mầu sắc rộng rãi nhưng mờ nhạt, âm thanh u hoài và xa vắng; ngoài ra còn có cảm giác ẩm ướt, lạnh lẽo bao trùm cả bài thơ: Người đọc cảm thấy rõ cảm xúc của một người đa cảm, một người đàn bà. Bức tranh của Bà huyện Thanh Quan không bao giờ là một bức tranh thiên nhiên hay tả thực; cũng không đúng là những nét thuỷ mạc chấm phá. Nhưng là một bức tranh ấn tượng, phảng phất một ít u sầu lãng mạn. Vì người đàn bà không quan sát tinh vi, cũng không suy nghĩ một cách trừu tượng; họ chỉ nhạy cảm thấy, và ghi lại những cảm giác của họ: Bà huyện Thanh Quan là nhà thơ của những cảm giác, và của một thứ cảm giác nào đó, thuần tuý phụ nữ.

Bà rất ít lý luận, trong một bài thơ thất ngôn, hai câu “luận” là để lý luận, nhưng rất ít khi bà sử dụng đến, nếu tôi không lầm thì chỉ có một lần:

Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.

Câu trên, phần đông các nhà làm sách giáo khoa giải thích không được hợp lý. Ví dụ một tác giả giải thích “dốc cả bầu rượu mà uống cũng không say” như thế vừa vô lý, vừa ngô nghê, vừa cướp mất nữ tính của câu thơ. Tôi đề nghị nên hiểu là “ngắm cảnh núi sông không cần rượu lòng cũng say”. Như thế, câu luận có tính cách kín đáo, đằm thắm của người đàn bà.

Bà còn ưa chuộng cảnh tiêu điều, hoang phế; cảnh buồn thảm ở đây hạp với nỗi hoài cổ bản nhiên trong người phụ nữ như đã thấy ở đoạn trên:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Nắng chiều và cỏ dại! Khung cảnh mới tê tái làm sao; tôi nghĩ rằng phải có cái cảm xúc tế nhị thắm thiết của người đàn bà mới chọn lựa những hình ảnh ảm đạm như thế.

Thơ Bà huyện Thanh Quan là tiếng tỳ bà sầu thảm nhưng nhẹ nhàng chứ không não ruột; tình cảm ấy dĩ nhiên phải loang ra chiều rộng chứ không lắng xuống chiều sâu: phong cảnh trong thơ bà cũng thế. Đó là đặc tính của sự nhận thức phụ nữ, của nỗi buồn phụ nữ. Một lần nữa khuôn mặt người đàn bà muôn thuở lại thoáng qua trong tâm hồn người đọc.

Nhưng những cảm giác dồi dào nữ tính đó được diễn tả bằng cách nào? Hình thức bài thơ còn giữ được nguyên vẹn hơi thở thiên nhiên nồng ấm hay không?

Lời lẽ trong thơ Thanh Quan trang nhã đến khách sáo. Bà dùng chữ nho nhiều khiến giọng nói vừa đài các vừa xa cách. Người đàn bà có hai cách nói đặc biệt: hoặc rất chanh chua, đanh đá, hoặc rất thanh tao, kín đáo. Hồ Xuân Hương là trường hợp thứ nhất, Bà huyện Thanh Quan là trường hợp thứ hai. Lời thơ của bà buộc người đọc phải e dè thận trọng khi tiếp xúc với nữ giới. Có người trách thơ bà kiểu cách đến độ khách sáo. Đúng. Vì bà luôn luôn là khách cơ mà! Trong thơ, bà chỉ là kẻ lữ thứ, là “người qua đó” là “kẻ dừng chân đứng lại”; bà là khách của cuộc đời và dĩ nhiên là của độc giả; giữa thơ bà và độc giả có khoảng cách cần thiết để gìn vàng giữ ngọc. Chỉ có nam nhi mới mở những vòng tay thân mật “bác đến chơi đây ta với ta” như trong Nguyễn Khuyến, chứ người đàn bà luôn luôn có cái dè dặt để gìn giữ: “một mảnh tình riêng ta với ta”. Hơn nữa, từ ngữ trong Bà huyện Thanh Quan là những viên ngọc đẹp, những chữ tự nó đã có âm thanh trang nhã: Mục tử, cô thôn, ngư ông, viễn phố, khoáng dã, bình sa, chương đài, lữ thứ, thu thảo, tịch dương… Nhưng chữ đó, tự nó, đã mang ít nhiều vẻ lịch sự đàn bà.

Nữ tính còn phát ra trong cách chọn vật liệu của thi ca. Về cây cối, ngoài một cây cổ thụ không tên, vì bị mưa che lấp, chúng ta bắt gặp trong thơ bà ba thứ cây lớn: tàu chuối, ngàn mai và dặm liễu, – ba thứ cây tượng trưng cho nữ tính.

Cây chuối, về phương diện sinh lý, gợi hình ảnh người đàn bà, với những cây chuối con mọc xum xuê dưới gốc.

Mai và liễu tượng trưng cho người đàm bà về vóc dáng. Mai là một loại cây mảnh khảnh, hoa mỏng manh ngày xưa trồng trước phòng người con gái, do đó có chữ Mai Khuê. Liễu là loài cây mềm mại, tha thiết, lưng thon người con gái gọi là liễu yêu, lông mày cong gọi là liễu my, độc giả vẫn còn nhớ câu thơ “Khuê oán” của Vương Xương Linh:

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc…

Thơ Bà huyện Thanh Quan chỉ có ba thứ cây, tượng trưng cho nữ tính; ngoài ra có rất nhiều cỏ:

…Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu

…Lối xưa ngựa cũ hồn thu thảo

…Cỏ cây chen lá đá chen hoa

Tôi nghĩ loài thực vật khiêm nhượng yếu ớt và nhỏ bé như loài cỏ đặt vào lời nói người đàn bà thật phù hợp. Thảo mộc trong thơ Bà huyện Thanh Quan được chọn lựa theo sở thích, theo linh tính phụ nữ. Thảo mộc ấy có một sắc thái đặc biệt.

Về động vật, chỉ có tiếng chim gọi đàn và những bóng chim do nền trời sẩm tối. Động vật duy nhất là chim. Một lần nữa, sự chọn lựa của Bà huyện Thanh Quan đã gợi nên sự trang nhã, lẫn tính mơ mộng của một tâm hồn phụ nữ. Khi tả những chi tiết trong một cảnh bà chỉ chú ý đến những cái mà người đàn bà thường chú ý:

Một toà sen toả mùi hương ngự

Năm thức mây phong nếp áo chầu.

Những chữ “mùi hương ngự” và “nếp áo chầu” là tạo một hình ảnh âu yếm, đằm thắm, tả cảnh chùa mà vẫn gợi ít nhiều cảm giác ân tình nồng ấm, tưởng lời thơ của phụ nữ mới quyến rũ đến như thế.

Tóm lại ngôn ngữ trong thơ Thanh Quan vừa đoan trang vừa thắm thiết; một lời nói xa cách nhưng gần gũi, e dè mà gợi cảm, muốn dung hợp những tương quan và mâu thuẫn đó, phải là một ngôn ngữ nữ lưu thật sự.

Và ngôn ngữ ấy được sử dụng trên những cung bậc, những âm giai nào. Xin mời độc giả đi vào thế giới âm thanh dìu dặt của Bà huyện Thanh Quan.

Nhạc điệu trong thơ bà là một nhạc điệu dồi dào, thanh thoát, thùy mị và đoan trang.

Thơ bà không có một âm thanh thô kệch y như giọng nói trong trẻo của người đàn bà. Thơ Hồ Xuân Hương là một trò nghịch ngợm nên có những âm thanh dị kỳ một cách cố ý; không thể lấy đó làm phản chứng. Như trong thơ Nguyễn Khuyến, âm điệu có gọt giũa, vẫn còn những chữ chói tai nhưrằng rặc, long bong, ngõng ngay, ngan ngỗng, co cóp… Trong thơ Thanh Quan không bao giờ có những âm khổ độc như thế: mỗi âm thanh là một sự trang nhã, thùy mị.

Những âm thanh ấy lại được hoà hợp một cách khéo léo:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Âm thanh như đan vào nhau thành một hòa âm dồi dào nhạc tính. Nhưng tế nhị nhất phải kể câu này:

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán

Trắng xóa tràng giang phảng lặng tờ.

Một nhạc điệu gợi hình mãnh liệt. Về phương diện tử âm, những sát-âm-mềm: x (spirante vélaire) và những tắc-âm-uốn tr (rétroflexe hoặc occlusive alvéolaire) như cuộn vào nhau, quấn chặt lấy nhau: câu thơ lả lướt và êm ả. Về phương diện mẫu âm, câu trên có những năm âm chùm (arrondi) và tối và những âm o, ô, u vừa gợi ra được hình tròn của tàng cây lẫn vùng bóng tối dưới tàng cây. Câu sau, năm âm ang ngang nhau và kéo dài vừa gợi ra mặt phẳng của mặt nước lẫn chiều dài vô tận của dòng sông chuyển mình vào cơn mưa lác đác.

Những câu thơ như thế rất dồi dào nhạc điệu. Người đọc bị mê hoặc, bị cuốn theo. Như trôi trên giọng nói thơm nồng của tình yêu trong ảo giác. Nhất là khi tiết điệu bài thơ lại quyến rũ mãnh liệt:

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dậm liễu sương sa khách bước dồn.

Hai câu trên đảo ngữ buộc ta phải ngừng giọng sau hai động từ “gác mái”, “gõ sừng”, câu thơ do đó mà chậm lại. Nhịp chậm đó lại có tác dụng là tương phản với hai câu sau, làm nổi bật tốc độ rất nhanh của hai câu sau: đó là con chim bay vội vã và người lữ khách dồn chân.

Tiết tấu lúc nhặt lúc khoan, khi nhanh khi chậm hoà nhịp với những âm thanh lúc bổng lúc trầm, khi tối khi sáng, tạo thành một vùng giao thoa huyền bí có ma lực mê hoặc con người. Gần như là một khúc nhạc thần thoại, huyền nhiệm. Không phải, đây chỉ là một giọng nói đàn bà thanh tao, êm ái. Chỉ có giọng nói đàn bà mới có những cung bậc dặt dìu, những âm giai huyền hoặc như vậy. Bà huyện Thanh Quan không phải làm công việc tỉ mỉ của một thợ thơ. Bà chỉ diễn tả tình cảm một cách chân thành và dựa theo linh tính, tư cách người đàn bà để chọn chữ, đặt câu, sắp xếp âm thanh, phân chia tiết tấu: cả vẻ đẹp của người đàn bà trở thành thơ. Vì chính người đàn bà đã là một bài thơ tuyệt diệu.

Người đàn bà ấy đến với tôi với nguyên vẹn những tình cảm, những cảm giác và những lời thỏ thẻ.

Tình cảm của nàng là một khối sầu mộng mênh mông, nhớ nhung da diết. Nàng u hoài dĩ vãng và mong nhớ gia đình: tình cảm ở đây, khi là một lối giải thoát, khi là một sự dằn vặt; người đàn bà yêu quá khứ, cần gia đình, người đó thành thật. Nhu cầu tình cảm của Thanh Quan thiết tha mời gọi. Mời gọi để tâm sự, để bày tỏ; đôi khi một gián tiếp qua những phong cảnh mà giác quan người đàn bà đã thu nhận sau khi gạn lọc những đường nét, mầu sắc, ánh sáng và âm thanh. Sự gạn lọc dựa theo những giác quan nhậy cảm nhưng thiên lệch, vừa tế nhị vừa mơ hồ: giác quan của người phụ nữ.

Rồi Thanh Quan tâm sự. Lời lẽ đoan trang nhưng đằm thắm, kín đáo nhưng thành thật, lời nói thuỳ mỵ, trang nhã. Từng chữ, từng câu, từng ý, đều được cân nhắc bằng một linh tính đàn bà.

Linh tính đàn bà đó có đo lường âm độ của giọng nói, sao cho trang nghiêm mà vẫn nồng nàn, sao cho thanh thoát mà vẫn cảm động.

Tôi thấy cả sự e dè nôn nả của người phụ nữ muôn đời.

Tôi muốn dời thơ Thanh Quan để về với Thanh Quan. Sự mến yêu của tôi thường rất tao nhã. Nàng là một ánh nắng ngủ muộn trên một cành liễu yếu, nàng là tiếng reo vi vu của cơn gió trên những ngọn phi lao.

Có khi nồng nàn hơn. Nàng hiển hiện một chiếc gáy nõn nà với những sợi lông tơ vàng mượt. Những khi ấy tôi thường e ngại.

Có những buổi sáng khoá cửa phòng đi làm, tôi có cảm tưởng như có nàng chờ đợi ở nhà. Tôi nôn nóng trở về, vội vã lên thang gác, và thấy phòng mình ấm hơn thường lệ. Trạng thái này ít khi xảy ra; và mỗi lần như thế, tôi biết mình đang ở trong tình trạng tinh thần bất thường.

Nhưng chắc chắn là sự thưởng ngoạn nghệ thuật của tôi đối với thơ Thanh Quan vẫn trong sáng vằng vặc như trăng sao.

Đà Lạt, 1964

ĐẶNG TIẾN

*

NỖI BUỒN QUA THƠ CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN

_______________________________________________________________

Lê Ngọc Thạc

 

,

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội. Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quí Thích.

Chồng của Bà là Lưu Nghị, đỗ Cử Nhân năm 1821, từng làm Tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Ông Lưu Nghị làm quan trải qua nhiều chức vụ. Chức vụ sau cùng là Bát Phẩm Thư Lại bộ Hình, nhưng mất sớm lúc 43 tuổi. Dưới thời vua Minh Mạng, bà đã được mời về kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi.

Thơ của Bà Huyện Thanh Quan để lại không nhiều. Theo Hợp Tuyển thơ văn Việt Nam (tập III) của Viện Văn học, xuất bản năm 1963; thì nữ sĩ chỉ có 7 bài thơ Nôm Đường luật. Đó là: Qua Đèo Ngang, Cảnh chiều hôm, Thăng Long hoài cổ, Nhớ nhà, Chùa Trấn Quốc, Cảnh đền Trấn Võ, Tức cảnh chiều thu.

Đọc lại 7 bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy đây là những bức tranh thủy mặc chấm phá bởi một nghệ sĩ vô cùng tài hoa. Trong thiên nhiên với cỏ cây hoa lá, non nước gió trăng, thuyền câu xóm chợ, con người và sinh vật…tác giả đã chọn được những nét đặc trưng, tiêu biểu cho từng bức tranh phong cảnh. Thế nhưng, chủ yếu, nữ sĩ không tả cảnh nhưng mượn cảnh để gởi gắm tình cảm của mình.

Tình cảm dễ nhận dạng nhất trong thơ Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn, tâm trạng cô đơn không biết chia sẻ cùng ai:

Kẻ chốn Chương đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

(Cảnh chiều hôm)

Ngay cả đối với thiên nhiên, nữ sĩ vẫn không tìm được sự giao hòa:

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.

(Thăng Long hoài cổ)

Nhưng có lẽ nỗi buồn được tập trung nhiều nhất ở bài thơ Qua Đèo Ngang. Hình tượng nữ sĩ đứng trên đỉnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà là hình tượng bất hủ trong văn học cổ điển Việt Nam. Nỗi cô đơn như được “tạc” vào không gian và thời gian vĩnh hằng. Một tư thế cô đơn với tâm sự riêng mình của một người phụ nữ trên con đường vạn dặm:

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

(Qua Đèo Ngang)

Về nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, từ trước đến nay đã có rất nhiều cách lý giải. Ở đây, tôi xin được phép giới thiệu hai ý kiến khác nhau để quý thi hữu tham khảo:

I- Ý KIẾN THỨ NHẤT: TÂM TRẠNG HOÀI LÊ.

Bà Huyện Thanh Quan sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn. Cũng như Nguyễn Du và phần lớn văn nhân thi sĩ lúc bấy giờ, bà mang tâm trạng hoài Lê.

Tâm trạng nầy được thể hiện một cách cụ thể nhất qua bài Thăng Long hoài cổ. Kinh đô lúc bấy giờ không còn ở Thăng Long mà đã được dời vào Phú Xuân (Huế). Đi ngang qua thành Thăng Long nay đã hoang phế, bà cảm thấy cuộc đời như tấn tuồng thay đổi nhanh chóng:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.

(Thăng Long hoài cổ)

Những lối đi phủ đầy cỏ mùa thu, nền cũ của cung điện, những phiến đá nằm dãi dầu mưa nắng, mặt nước hồ xưa như cau lại trước cảnh tang thương … Tất cả như còn phảng phất hình bóng của triều đại nhà Lê:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương.

(Thăng Long hoài cổ)

Khi đến thăm chùa Trấn Quốc ở bên cạnh Hồ Tây, nơi mà các vua nhà Lê trước đây thường ra ngự để hóng mát; Bà đã bộc lộ nỗi lòng đối với nhà Lê thật chân thành và cảm động:

Trấn Bắc hành cung lắm dãi dầu

Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau

Mấy tòa sen rớt hơi hương ngự

Năm thức mây phong nếp áo chầu

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.

(Chùa Trấn Quốc)

Bà Huyện Thanh Quan sống vào thời Nho học đang hưng thịnh với những quan niệm như “Trung thần bất sự nhị quân”, mất vua cũng như mất nước. Hơn nữa, thời kỳ lịch sử Bà đang sống là thời Nguyễn sơ, giao thời giữa cái cũ và mới, hệ thống cai trị có sẵn từ trước bị đảo lộn nên gây ra nhiều bất mãn cho đám cựu thần nhà Lê. Bà đã viết:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

(Qua Đèo Ngang)

Giọng điệu hai câu thơ giống như tâm trạng của người mất nước. Nhưng thật ra nước có mất đâu? Đất nước vẫn độc lập, chỉ có triều đại thay đổi mà thôi! Tổ quốc và triều đại được đánh đồng thành một. Nói cách khác, nhà Lê mất có nghĩa là nước mất, theo quan niệm “trung quân” và “ái quốc” là một. Trong hoàn cảnh như vậy, tâm trạng hoài Lê của bà và phần đông nho sĩ đương thời là điều dễ hiểu. Từ những luận cứ nêu trên, có thể đi đến kết luận: Nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan chính là xu thế hướng về nhà Lê.

II- Ý KIẾN THỨ HAI: NỖI BUỒN CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.

Bà Huyện Thanh Quan và chồng là Lưu Nghị đều là quan Nhà Nguyễn. Chưa có tư liệu nào chứng minh sự gắn bó sâu nặng của gia đình Bà đối với vương triều nhà Lê. Bà sống khoảng những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Bấy giờ vương triều nhà Nguyễn đã được khẳng định là một triều đại chính thống trong lịch sử, đủ tư cách đại diện cho quốc gia.

Do đó, tâm trạng thương nhớ nhà Lê, và sự hững hờ đối với nhà Nguyễn có thể đúng với Nguyễn Du hoặc những nhà thơ khác. Nhưng đối với Bà Huyện Thanh Quan thì chắc là không phải. Vì vậy tâm trạng u hoài, cô đơn của nữ sĩ chỉ có thể lý giải từ nguyên nhân khác.

Về hoàn cảnh gia đình, chồng Bà là Lưu Nghị qua đời khá sớm (năm 43 tuổi), cảnh góa bụa đã khiến Bà đơn chiếc và luôn luôn nhớ về một dĩ vãng không bao giờ trở lại. Hơn nữa, những ngày xa nhà dù là đi làm quan, thì đối với một người phụ nữ cũng có biết bao nỗi niềm trăn trở.

Chuyến đi xa nhà quan trọng nhất trong cuộc đời nữ sĩ có lẽ là chuyến đi từ miền Bắc vào Thuận Hóa để nhận chức Cung Trung Giáo Tập, dạy học cho các công chúa và cung phi.

Hành trình khó khăn, đường xa vạn dặm, nhất là vào lúc chiều tà, đã làm cho Bà nặng lòng thương nhớ:

Ngàn mai lác đác chim về tổ

Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà

Còi mục thét trăng miền khoáng dã

Chài ngư tung gió bãi bình sa

Làng quê một bước đường ngao ngán

Mấy kẻ tình chung có thấu là?

(Nhớ nhà)

Giữa trời cao đất rộng, đồi núi chập chùng của Đèo Ngang; Bà liên tưởng đến cảnh quê nhà, nơi tổ ấm thân yêu giờ đây cũng tiêu điều, ủ rũ:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

(Qua Đèo Ngang)

Nỗi cô đơn và sự lạnh lẽo trong tâm hồn bà càng được tô đậm với chiều hôm đầy sương sa và gió cuốn:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

(Cảnh chiều hôm)

Trong thời gian và không gian của buổi chiều tà, Bà cảm thấy bơ vơ trống trải, không biết bày tỏ tâm sự cùng ai:

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

(Qua Đèo Ngang)

Với tâm hồn đa sầu đa cảm luôn trĩu nặng nỗi buồn, Bà vẫn mong ước, khát khao một cuộc sống bình yên, một bầu không khí trong lành, rũ sạch ưu tư:

Êm ái chiều hôm tới Trấn đài

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng

Một vũng tang thương nước lộn trời

Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn

Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi

Nào nào cực lạc là đâu tá?

Cực lạc là đây, chín rõ mười.

(Cảnh đền Trấn Võ)

Qua hai bài Chùa Trấn Quốc và Thăng Long hoài cổ, những bài thơ chất chứa niềm u uẩn của bà trước sự thay đổi của một triều đại, chúng ta có thể thấy rằng đây cũng là tâm trạng hoang mang chung của tầng lớp sĩ phu lúc bấy giờ.

Ngoài ra, theo các công trình nghiên cứu thì bài Thăng Long hoài cổ trước đây còn mang tên Qua chốn chồng làm quan cũ (Quá phu quân cố lị cảm tác). Nếu thế thì càng chứng tỏ Bà Huyện Thanh Quan đang nghĩ về cảnh ngộ của mình, những kỷ niệm riêng tư và một thời gia đình hạnh phúc.

Trên đây là hai ý kiến khác nhau về nỗi buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Tuy nhiên theo chúng tôi, trong thơ của nữ sĩ tồn tại cả hai tình cảm sâu đậm chứ không phải là một. Đó là:

– xu hướng hoài Lê như phần đông ở các Nho sĩ đương thời.

– Tâm trạng thương nhớ gia đình, quê hương, những kỷ niệm riêng tư của một thời gia đình hạnh phúc.

Hai tình cảm ấy hòa quyện vào nhau tạo nên một nỗi buồn, một tâm trạng cô đơn và được thể hiện qua những lời thơ buồn nhưng có hương vị xa xôi bát ngát, nhẹ nhàng và kín đáo.

Về nghệ thuật, Bà đã đem đến cho thơ Nôm luật Đường tiếng nói đài các, đoan trang mà vẫn trong sáng, giản dị và trữ tình sâu đậm. Đặc điểm ấy là do nghệ thuật dùng từ, chọn âm thanh, sắp đặt nhịp điệu … rất điêu luyện của nữ sĩ. Nhưng quan trọng hơn, đó là những cảm xúc chân thành được gởi gắm vào từng bài thơ giúp nó sống mãi với thời gian.

Do có sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa hình thức và nội dung tuyệt vời như thế, Bà Huyện Thanh Quan được khẳng định là một trong những thi sĩ làm thơ luật Đường hay nhất trong văn chương Việt Nam.

LÊ NGỌC THẠC

 

 

*

Bà Huyện Thanh Quan,

người đi dọc những Đèo Ngang

_________________________________________________

ĐỖ LAI THUÝ

Bà Huyện Thanh Quan là người không chỉ bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn.

Điều này thường trực trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Bà Huyện Thanh Quan

1. Năm 1802, sau khi thống nhất cả nước, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long mất địa vị đầu não của đất nước về chính trị và văn hóa. Thậm chí, chữ long trong tên gọi Thăng Long vốn là rồng, biểu tượng vương quyền và lý do chọn đô của Lý Thái Tổ, cũng bị đổi thành chữ long là thịnh.

Sự hạ thấp này hẳn làm đau lòng dân chúng Bắc Hà, nhất là các sĩ phu, những người từng ăn lộc nhà Lê như Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, thầy học của Nguyễn Lý, thân sinh Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi đau ấy, về sau, hẳn còn gia tăng khi cố đô Thanh Long bị đổi thành tỉnh Hà Nội vào năm Minh Mệnh thứ 12 (1931): Kinh thành ngày ấy tỉnh bây giờ!

Năm 1813, trên đường đi sứ Trung Hoa, qua Thăng Long, chứng kiến những đổi thay nơi mình đã từng sống suốt tuổi hoa niên, Nguyễn Du cảm khái:

Thiên niên cự thất thành quan đạo

Nhất phiến tân thành một ố cung

(Nhà lớn nghìn năm thành đường cái

Một mảnh tân thành mất cung xưa)

Nhìn Thăng Long bây giờ, thi nhân nhớ về một Thăng Long ngày xưa. Một nỗi nhớ với từng chi tiết cụ thể, đối lập nhau như nhà/đường, thành/cung, mới/xưa. Và nỗi nhớ càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu thì càng chứng tỏ nỗi đau mất biểu tượng ấy lớn bấy nhiêu. Đó là nguồn gốc và cũng là nội dung của một tâm thức chung về sau được gọi là tâm sự hoài Lê mà một lớp người đã từng sống với hoàng triều đeo đẳng.

2. Bà Huyện Thanh Quan (1) là người Thăng Long chính gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít thở cái tâm thức chung ấy của thời đại, hẳn cũng không tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê. Một lần, Qua chùa Trấn Bắc (2), thi nhân thấy:

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu

Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau

Một tòa sen rớt hơi hương ngự

Năm thức mây phong nếp áo chầu

Sóng lớp phế hưng coi như rộn

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau

Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?

Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. (3)

Trấn Bắc là một hành cung cũ đời Hậu Lê, xưa chúa Trịnh thường đem văn võ bá quan, hoặc cung nữ, tới thưởng ngoạn cảnh Hồ Tây và bày những trò vui nhộn. Vậy mà nay đã trở nên tiêu điều, vắng vẻ, cỏ dãi dầu. Từ đó, thi nhân chạnh nghĩ về nhà Lê Trịnh, như một niềm cố quốc. Chữ chạnh ở đây chỉ là nhân mà nghĩ, do điều gì đó gợi ra mà nghĩ chứ không phải lúc nào cũng đau đáu như những cựu thần nhà Lê. Hơn nữa, thi nhân cũng không nghĩ về chính cái nước cũ ấy, mà chỉ nghĩ đến nó như một niềm, một tâm sự.

Đọc thơ Thanh Quan, nhiều người thắc mắc, sao thi nhân đang sống trên đất nước mình mà lại luôn luôn nói về cố quốc (“Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau”), luôn nhớ nước (“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”)? Có vẻ như có một mâu thuẫn logic nào đó. Thực ra, về mặt xã hội, Bắc Hà (Đàng Ngoài) luôn được coi như một “nước” so với Nam Hà (Đàng Trong) (Xem Hoàng Lê nhất thống chí). Hơn nữa, về mặt tâm lý, cùng một thực tại mà không cùng một khoảnh thời gian thì thực tại đó chưa hẳn đã như nhau. Bởi thế, Nguyễn Bính mới “ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên”.

Và, cũng bởi thế, Bà Huyện Thanh Quan nhìn hiện tại mà nhớ đến quá khứ. Thậm chí, nỗi nhớ làm con người như rơi vào ảo giác. Thi nhân thấy quá khứ: một toà sen thơm hơi hương vua còn rớt và năm thức mây lưu lại nếp áo chầu. Sự hoài niệm đã xáo trộn thời gian, biến quá khứ thành hiện tại. Đây là một nét đậm, một nhịp mạnh trong thơ Thanh Quan. Nó không chỉ tạo ra một cảm hứng thế sự, mà còn tạo ra cái nhìn thế giới và cái nhìn nghệ thuật trong thơ bà.

Bà Huyện Thanh Quan sống trong một thời đại (lớn) đầy biến động. Nhà Lê/Mạc, chúa Trịnh/Nguyễn, Tây Sơn/Nguyễn Ánh liên tiếp xuất hiện và liên tiếp sụp đổ. Nguyễn Du, một chứng nhân của thời đại ấy, đã phải thốt lên: “Cổ kim bất kiến thiên niên quốc” (Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào tồn tại nghìn năm cả). Bà Huyện Thanh Quan cũng sống trong một không gian nhiều đổi thay. Đó là Thăng Long. Theo quy luật động học văn hóa, trung tâm bao giờ cũng thay đổi nhanh hơn và nhiều hơn ngoại biên. Hơn nữa, ở Việt Nam, mỗi triều đại mới lên ngôi thường phá hủy những công trình của triều đại trước để làm lại từ đầu. Trong một không – thời gian biến dịch như vậy, từ một cảnh quan cụ thể là chùa Trấn Bắc, Bà Huyện Thanh quan dễ khái quát lên thành một quy luật xã hội:

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau

Quy luật này không chỉ chi phối một cảnh quan nào đó của Thăng Long, mà Toàn bộ Thăng Long và qua đó toàn bộ non sông đất nước. Đây là sự thăng hoa của thơ Thanh Quan và càng ở những bài thơ sau thì sự thăng hoa này càng lớn. Vì thế, trong Thăng Long thành hoài cổ, tâm sự hoài Lê trong Bà Huyện Thanh Quan đã trừu tượng hóa thêm một bậc nữa:

Tạo hóa gây chi cuộc Lý Trường?

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương

Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Thi nhân trách con tạo (gây chi) biến cuộc đời thành sàn diễn của những đổi thay. Thoạt tiên vẫn những đối lập xưa/nay ấy: Xưa là lối xe ngựa đi về nhộn nhịp thì nay chỉ có cỏ thu phủ dày; xưa là lâu đài đường bệ mà nay chỉ còn trơ lại nền cũ dưới ánh chiều tà. Rồi xuất hiện thêm một đối lập khác nữa tự nhiên/nhân tạo. Ngày tháng (tuế nguyệt) trôi đi kéo theo những đổi thay (tang thương), nhưng đó là những đổi thay của thế giới nhân tạo, thế giới người, còn tự nhiên (đá, nước) thì vẫn bất biến (trơ gan, cau mặt). Soi vào tấm gương vĩnh hằng của tự nhiên, đời sống nhân tạo từ xưa đến nay (kim cổ) càng trở nên giả tạm và thoáng chốc. Con người đối diện với cảnh tượng này (cảnh đấy, người đây) được thức nhận, tỉnh táo hơn so với con người ảo giác ở chùa Trấn Bắc. Nhưng, vì thế, cũng đau khổ hơn.Và cô đơn hơn.

Đến đây, có thể nói, cái chữ tâm sự hoài Lê ở Bà Huyện Thanh Quan, nếu có thì cũng đã dần dần trở nên rỗng nghĩa, mất nội dung cụ thể. Thăng Long thời Lê chỉ còn là một biểu tượng của một quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Thậm chí chỉ còn là biểu tượng của một dĩ vãng chung chung một hoài niệm, một nỗi nhớ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ cấp hai này tạo thành nội dung sống của Bà Huyện Thanh Quan.

3. Được gọi vào Huế làm Cung Trung Giáo Tập, Bà Huyện Thanh Quan giã từ Thăng Long. Những tưởng rằng sự thay đổi không gian sẽ làm thay đổi thời gian. Van lạy không gian xóa những ngày (Hàn Mạc Tử). Nhưng hóa ra phong cảnh không lay chuyển được tâm cảnh, mà, ngược lại, còn bị tâm cảnh nhuộm màu. Điều này có thể thấy rõ khi thi nhân Qua Đèo Ngang:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác ven sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh Đèo Ngang thật khác xa với cảnh Thăng Long. Nhiều thiên nhiên hơn, ít nhân tạo hơn. Nhìn gần, thi nhân thấy thiên nhiên cũng chen chúc. Một mặt, cái hữu sinh (cỏ cây) lấn át cái vô sinh (đá), mặt khác, trong giới, hữu sinh, cái thô lậu hơn (lá) lại lấn át cái tinh tế hơn (hoa). Còn nhìn xa: vạn vật thu nhỏ như trong hòn non bộ. Con người thì nhỏ nhoi, cực nhọc (Lom khom dưới núi tiều vài chú), nơi “vui như chợ”, “đông như chợ” thì cũng lại thưa thớt (Lác đác ven sông chợ mấy nhà). Thật khác xa với cảnh chen chúc của thiên nhiên. Thực ra, cảnh Đèo Ngang rất hùng vĩ, nhưng trong con mắt tâm trạng của nhà thơ đã trở thành cảnh mọn, thậm chí tiêu điều. Chẳng khác gì sự tiêu điều của Thăng Long. Nội tâm đã chi phối ngoại cảnh.

Đứng trên đỉnh Đèo Ngang, nghe tiếng cuốc kêu, Bà Huyện Thanh Quan nhớ đến nước; nghe chim da da (đa đa, bát cát quả cà, bắt cô trói cột…) kêu, thi nhân thấy thương nhà. Niềm hoài cổ luôn chờ chực sẵn, còn sự đồng âm kia (cuốc là chim và quốc là nước, da da là chim và gia là nhà) chỉ là một cái cớ. Đến đây, thiên nhiên vốn chen chúc tạo thành một hợp thể ở chân đèo, rã ra thành những yếu tố riêng rẽ: trời, non, nước. Và con người cũng trở thành một yếu tố đơn lẻ, ngậm một mảnh tình riêng mà chỉ biết chia sẻ với chính mình (ta với ta).

Bà Huyện Thanh Quan, như vậy, đã vượt qua được một Đèo Ngang địa lý mà không qua nổi một Đèo Ngang tâm lý. Tâm tình hoài cổ vẫn là hành trang của bà trên đường vào Huế. Thậm chí, hành trang ấy càng đi xa càng trở thành một gánh nặng. Nỗi nhớ Thăng Long, nhớ về nỗi nhớ Thăng Long đè nặng tâm hồn người lữ thứ, trở thành nỗi nhớ nhà mỗi khi chiều về trên con đường thiên lý:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

Chiều hôm nhớ nhà là một tâm trạng cố hữu, thường hằng của động vật, của con người. Mỗi khi ngày hết, mọi sinh linh đều tìm về nhà, tổ ấm, chốn nương thân để được che chở nghỉ ngơi. Bằng những động tác dứt khoát, sảng khoái (gác mái, gõ sừng), ngư ông và mục tử ra về. Và tuy là bến xa (viễn phố) và thôn lẻ (cô thôn), nhưng họ còn có nơi để mà về. Còn con người lữ thứ kia, giống như con chim bạt gió, mặc dù đang dồn bước nhưng không có nhà để mà về. Chỉ có sự nhớ nhà, sự nhớ về sự nhớ nhà. Bởi thế, đường đi không bao giờ kết thúc. Bởi thế lữ khách trở thành một trường lữ, một người đi.

4. Nếu lâu đài ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng bởi những động từ chỉ hành động, tính từ chỉ phẩm chất, và trạng từ chỉ cách thức và mức độ thì tháp (ngà) thơ Bà Huyện Thanh Quan lại chỉ được kiến tạo bằng những danh từ mà phần lớn lại là danh từ Hán Việt: tạo hóa, hý trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường, cố quốc, phế hưng, hoàng hôn, ngư ông, mục tử, viễn phố, cô thôn, chương đài, lữ thứ, khoáng dã, bình sa… Nhiều câu thơ của Thanh Quan dường như chỉ là sự ghép lại của những danh từ:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Danh từ chỉ sự vật ở cấp độ khái niệm. (Ví dụ, nói đến từ bàn, ta hình dung đó là một mặt phẳng, có chân, được dùng để làm gì đó. Còn nếu biết cái bàn đó như thế nào thì phải thêm vào những định ngữ như cái bàn vuông, màu xanh, bằng gỗ, để viết…). Làm thơ bằng những danh từ, nghĩa là Bà Huyện nhìn sự vật ở những bản chất của nó, bỏ qua tất cả những gì là cụ thể, sông động. Một người như thế là giữ một khoảng cách với cuộc sống, xa lánh cuộc đời, lẩn trốn hiện tại. Khoảng cách đó ở nhà thơ còn được nhân lên một lần nữa, bởi các danh từ của Thanh Quan toàn là danh từ Hán Việt.

Cùng chỉ một loài thực vật, nhưng cỏ (thuần Việt) và thảo (Hán Việt) gieo vào tâm trí bạn đọc những cảm xúc và tưởng tượng khác nhau. Cỏ bao giờ cũng gợi nhắc đến một thứ cỏ cụ thể nào đó. Nó đánh thức trong ta những kỷ niệm. Còn thảo thì chỉ là một âm vang xa xôi, trang trọng và nhoè nghĩa. Như vậy, sự khác nhau giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt không đơn thuần ở sắc thái ngữ nghĩa, ở độ âm vang của con chữ, mà còn ở một cách nhìn.

Bà Huyện Thanh Quan thường nhìn cảnh vật vào mùa thu: Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, bằng tấm-lòng-con-mắt-thu: Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. Thậm chí, ngay cả khi thi phẩm không có chữ thu nào, thì bạn đọc vẫn cảm nhận được cảnh ấy, vật ấy đang thu: cỏ dãi dầu, toà sen rớt, thức mây phong, ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa, còi mục thét trăng, chài ngư tung gió… Một hồn thu ngấm trong từng con chữ phả vào hồn người đọc: Hơi thu lạnh lẽo khí thu loà (Đỗ Phủ).

Cảnh thu ấy còn được thi nhân nhìn vào buổi chiều, trong bóng chiều tà. Trong 5 bài thơ chắc chắn là của Bà Huyện Thanh Quan thì có đến 4 bài có những từ khác nhau chỉ bóng chiều tà:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

(Qua Đèo Ngang)

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

(Thăng Long thành hoài cổ)

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Vàng tỏa non tây bóng ác tà

(Nhớ nhà)

Với tần số xuất hiện cao như vậy, lại ở vào một vị trí đặc biệt (hầu hết đều ở cuối câu mở đầu thi phẩm), có thể nói, bóng chiều tà chính là từ-chìa khóa để mở vào những tòa lâu đài thơ Thanh Quan. Bóng chiều tà chính là lăng kính để thi nhân nhìn cuộc đời. Dưới bóng chiều tà, cảnh vật mùa thu vốn đã tiêu điều đổ nát càng thêm đổ nát tiêu điều. Nhưng cũng trong ánh chiều tà ấy, sự vật lại bừng sáng lên lần cuối cùng cái huy hoàng của tàn tạ, để rồi vĩnh viễn lịm tắt.

Bà Huyện Thanh Quan không chỉ giữ một khoảng cách với cuộc đời, mà còn giữ khoảng cách với cả chính mình. Khi trên đỉnh Đèo Ngang, thi nhân nói với ta với ta là đã có sự phân thân. Ta tự chia ta thành một cái ta khác để chia sẻ mảnh tình riêng cho bớt cô đơn. Nhưng dẫu sao chữ ta này cũng vẫn là nhân xưng ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ diễn ra một lần, khi cảm xúc của thi nhân lên đến đỉnh điểm. Còn ở tất cả những trường hợp khác, Bà Huyện Thanh Quan đều tự gọi mình ở ngôi thứ ba số ít. Một cách tự xa lạ hóa mình. Đó là người (“Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường”); “Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ”), kẻ (“Mấy kẻ tình chung có thấu là…”, đặc biệt là khách (“Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu”; “Dặm liễu sương sa khách bước dồn”; “Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà”).

Tự nhận mình là khách, Bà Huyện Thanh Quan không chỉ gián cách mình với mình, mà, quan trọng hơn, gián cách mình với cuộc đời. Bà khẳng định mình chỉ là một người khách đến với cuộc đời này. Đến rồi đi không có gắn bó gì hết. Nhất là ở đây và bây giờ. Điều này còn được thể hiện rõ một lần nữa qua nhan đề các bài thơ của thi nhân. Hai nhan đề có từ qua (Qua Đèo Ngang, Qua chùa Trấn Bắc), hai có từ nhớ (Chiều hôm nhớ nhà, Nhớ nhà), một có từ hoài (cổ), cũng là nhớ (Thăng Long thành hoài cổ). Như vậy, khoảng cách giữa thi nhân và cuộc đời được thiết lập ở cả ba cạnh khía: qua : không gian; hoài cổ: thời gian và nhớ nhà: tâm lý. Nghĩa là, người lữ khách ấy chỉ có đi qua cuộc đời, không ghé lại đây để rồi chỉ có nhớ, hoài, nhớ hoài, hoài nhớ.

5.

Mùa thu là mùa tàn của một năm

Chiều tà là giờ tàn của một ngày.

Thơ Bà Huyện Thanh Quan là thơ mùa thu và chiều tà. Thời gian tàn tạ ấy lại gắn với không gian đổ nát: một tòa thành cổ, một ngôi chùa hoang vắng, lối xưa nền cũ của những lâu đài cung điện, một cảnh đèo heo hút, hoang vu, một bến sông xa, một bãi cát rộng, một con đường… Cảnh vật trong không – thời gian ấy đều hướng tới một sự suy tàn, tiêu vong. Mặc dù buồn về những cảnh tượng như vậy, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp của sự tiêu vong. Thậm chí, càng tàn tạ càng bừng lên một vẻ đẹp khó hiểu. Tâm trạng này cũng giống như cái nhìn của Tản Đà sau này: “Lá sen tàn tạ trong đầm/Lặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa” (Cảm thu tiễn thu). Tâm lý như vậy hẳn ẩn sâu bên trong một xung năng vô thức nào đó.

Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn là sự lặp đi lặp lại dài dài những vấn đề tư tưởng nghệ thuật ở cả phương diện vĩ mô lẫn phương diện vi mô. Trước hết là sự trùng lặp về chủ đề: cả 5 bài thơ đều là sự hoài niệm quá khứ. Cảnh tượng, phong cảnh đều là mùa thu và chiều tà. Tâm cảnh đều là sự nhớ nước, thương nhà. Nhân vật trữ tình bao giờ cũng là người đi. Sau đó là sự lặp lại của từ ngữ như thu, bóng xế tà, kim cổ (gương cũ soi kim cổ chuông hồi kim cổ), cỏ (cỏ dãi dầu; cỏ cây chen đá)…

Đặc biệt là sự lặp lại với tần số cao những từ chỉ tâm trạng của tác giả: niềm cố quốc, nhớ nước, thương nhà, nỗi hàn ôn, kẻ tình chung, mảnh tình riêng… Như vậy, Bà Huyện Thanh Quan là người không chỉ bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn. Điều này thường trực trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).

Đến đây, người ta bỗng thấy ý nghĩa sâu xa, nhiều tầng lớp trong nỗi buồn, sự hoài niệm quá khứ, sự cách vời cuộc sống hiện tại của Bà Huyện Thanh Quan. Căn cốt của nỗi buồn đó là sự cuốn hút của thi nhân về phía thanatos, sự nghỉ ngơi vĩnh cửu, sự yên tĩnh đời đời. Còn nỗi buồn về thế sự đổi thay, mọi thứ đều giả tạo, mong manh, thoáng chốc chỉ là “bản chất hàng hai”, nói theo ngôn từ của triết gia Trần Đức Thảo. Như vậy, cái “tâm sự hoài Lê” kia chỉ là tấm áo khoác, là duyên cớ, hay “bản chất hàng ba”, cái trên cùng, bề mặt.

6. Như vậy, với sự hướng về bản năng chết, Thanh Quan càng là một đối tượng của Hồ Xuân Hương. Sự đối trọng trên mọi cấp độ. Thơ Xuân Hương, như đã nói, được kiến tạo bằng những động từ chỉ hành động, thậm chí hành động cơ bản nhất của con người như đạp, móc, xuyên…, bằng tính từ chỉ phẩm chất, trạng từ chỉ cách thức và mức độ cùng cực. Hồ Xuân Hương, bởi thế, là người áp sát với đời sống, người không khoảng cách với cuộc đời, người nhìn cuộc đời trong sự chuyển động, sự vận động không ngừng của nó, trong màu sắc, hình khối, kích thước, âm thanh của nó. Đó là một thi nhân yêu sự sống, tôn sùng sự sống. Hồ Xuân Hương là người có một bản năng sống (éros) mạnh mẽ.

Hồ Xuân Hương, bởi thế, không chịu nằm yên trong khuôn khổ thơ Đường, một thể loại thơ trang nghiêm, hài hòa đến tuyệt đối. Thi nhân đưa vào thơ mình vô vàn những chi tiết tỉ mỉ, cụ thể, thậm chí sống sít của đời sống, những từ láy đôi láy ba hết sức thừa thãi, những từ vận hiểm hóc, thách đố, đặc biệt những cặp câu thực và luận, mặc dù đối vần rất chỉnh, nhưng ít nhiều đã ngả sang đối xứng để ám chỉ những chuyện tính giao nam nữ như:

Trai du gốc hạc khom khom cột

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

(Đánh đu)

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Một suốt đêm ngang thich thích mau

(Dệt cửi)

Toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương nhìn chung, vừa tuân theo những nguyên tắc, luật lệ của thơ Đường vừa chống lại nó. Bà đã phá vở tính đơn giản, kiệm từ, trang trọng cách vời của nó. Tuy nhiên, đó chỉ là sự phá vỡ cái hài hòa cục bộ, tức nội bộ bài thơ, để sau đó lại thiết lập nên một hài hòa mới, rộng hơn, giữa bản thân bài thơ và vũ trụ quanh bài thơ đó. Vì thế, Hồ Xuân Hương đã sáng tạo ra một thứ thơ Đường luật mới.

Đó là tinh thần éros.

7. Bà Huyện Thanh Quan, ngược lại, vẫn trung thành với thể thơ luật Đường chính thống. Thơ Thanh Quan được làm bằng những danh từ, lại là danh từ Hán Việt, nên tạo ra được một sự sang trọng, cách vời, thấm chí uy nghi đường bệ. Thơ bà hoàn toàn không có các nối từ, “từ nước”, mà toàn những từ “đặc”. Phép tính lược được vận dụng đến mức tối đa. Không gian và thời gian thống nhất với nhau. Con người và vũ trụ thống nhất với nhau. Mỗi bài thơ là một thế giới thống nhất, biệt lập, tự trị. Năm bài thơ cũng tạo thành một thế giới thống nhất biệt lập và tự trị. Một Ngũ Hành Sơn trên cánh đồng thơ Việt.

Thơ Đường Bà Huyện Thanh Quan, điều quan trọng là vẫn giữ được hồn Đường. Đây là điều ít nhà thơ đạt được, kể cả những thi nhân Trung Hoa sau Đường. Bởi vậy, nếu nói về việc làm thơ nôm Đường chuẩn nhất, Đường nhất ở Việt Nam thì thứ nhất phải kể đến Bà Huyện Thanh Quan. Sự Việt hóa thơ Đường ở thi nhân, nếu có, chính là việc nhà thơ kín đáo để lộ nữ tính của mình vào bài thơ. Thi nhân nói nhiều đến mai, liễu vốn là những từ chỉ phụ nữ trong thi liệu Đông phương.

Nguyễn Du đã từng khen chị em Thuý Kiều là mai cốt cách tuyết tinh thần, rồi Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh. Đặc biệt hơn, Bà Huyện Thanh Quan khi dùng chữ kẻ chốn Chương Đài thì đã nói về liễu Chương Đài, về người phụ nữ. Ngoài ra, thơ Thanh Quan cũng nói nhiều đến cỏ, thứ thực vật rất gần với thân phận phụ nữ. Chính nữ tính này của thi nhân đã làm mềm hóa, thân mật hóa thể thơ Đường luật vốn trang nghiêm, đôi lúc đến lạnh lùng.

Nét riêng nữa của thơ Đường Thanh Quan là xuất hiện thực hiện người lữ thứ. Người-đi-đường-chứng-kiến kể lại những “điều trông thấy” của mình, cảm xúc của mình, nỗi buồn nhớ của mình bằng một giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, thỉnh thoảng lại xen tiếng thở dài, nhưng cũng không hiếm khi có sự nồng ấm của thân xác (như khi gọi niềm tâm sự của mình là nỗi hàn ôn!). Thơ Đường, do ảnh hưởng của Thiền học, vốn là một thứ mỹ học tĩnh. Nhưng với sự xuất hiện con người lữ thứ, thơ Đường Thanh Quan đã bắt đầu có sự chuyển dịch, tuy còn rụt rè về phía động. Đó là ảnh xạ của ý thức cá nhân đã bắt đầu thức tỉnh trong lớp người tài tử đương thời.

Tuy số lượng bài để lại không nhiều, nhưng, có thể nói, thơ Thanh Quan là những dấu son của thơ Việt Nam trung đại. Nghĩ đến Bà Huyện Thanh Quan tôi cứ nghĩ tới bức chân dung Người đàn bà xa lạ của họa sĩ Nga Kramskoi; ngồi bất động trên xe ngựa và sau lưng là kinh thành Peterburg mù sương. Cũng đẹp một vẻ đẹp sang trọng, đài các và cách vời như thế. Còn nghĩ đến thơ bà, tôi mường tượng đến một chiều thu, khi mặt trời đã tắt, nhưng còn hắt lên nền trời những dải sáng vàng rực, thuần khiết, và người thợ trời nào đã cắt dải sáng đó thành những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan.

Tháng 9/2007

Đỗ Lai Thúy

 

*

Bà Huyện Thanh Quan ,

Nữ sĩ kiệt xuất của dòng thơ Nôm

___________________________

Hoài Việt Hoài

I . THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

“Tên con là Hinh, theo chữ Hán, trong đó có chữ Thanh có nghĩa là” tiếng”, và chữ Hương là “hương thơm”; cha mong con sẽ để lại tiếng thơm ở đời ” . Đó là lời người cha của cô bé Nguyễn thị Hinh, cô bé mà sau này được Văn Học Việt Nam biết đến với danh hiệu Bà Huyện Thanh Quan . Và với tài năng cũng như đức hạnh, cô đã không phụ lòng mong ước của cha già. Bà Huyện Thanh Quan là một thi tài lỗi lạc của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, thơ của bà để lại không nhiều, nhưng đã in đậm dấu ấn trong văn học sử, và tạo lòng ngưỡng mộ vô bờ nơi những khách yêu thơ.

Cho tới nay, người ta không rõ năm sinh và năm mất của bà. Chỉ biết cha của bà là học trò của cụ Phạm quý Thích, cụ là một tiến sĩ đời nhà Lê và là bạn thân của thi hào Nguyễn Du . Quê hương bà là làng Nghi Tàm, ở ven Hồ Tây (Hà Nội) . Nơi này vào thế kỷ XII có công chúa Từ Hoa, con vua Thần Tông nhà Lý, người đầy lòng nhân ái ; đã từ bỏ cung vua để lập trại dạy cung nữ trồng dâu nuôi tằm, hoà mình với đời sống của dân ; sau lại đem tất cả những gì mình có để làm công quả, xây nên chùa Sen Vàng (Kim Liên ). Đây cũng là nơi mà sau này có nhiều dấu ấn của Vua Lê Chúa Trịnh : Chúa Trịnh Giang mở bến tắm, chúa Trịnh Sâm mở các hành cung . Gần đó là xóm Bảo Khánh, chỗ bà chúa Liễu Hạnh dong thuyền ngâm thơ cùng với Trạng Bùng Phùng khacé Khoan, “trăng tròn soi một bóng tiên thôi “, nơi đẹp đến n ỗi “đất trời lộn sắc “: chả biết đâu là nước, đâu là mây. Phải hiểu địa danh và lịch sử của Nghi Tàm mới có thể cảm được thi tài và tâm hồn nhạy cảm, đầy nhân ái của Bà Huyện Thanh Quan , Nữ sĩ của đất “ngàn năm văn vật” .

Được gọi là Bà Huyện Thanh Quan, vì cô Hinh lấy chồng người làng Nguyệt Aùng, tên gọi Lưu Ôn, đậu cử nhân đời Vua Minh Mạng . Lúc đầu ông được bổ làm tri huyện Thanh Quan (tỉnh Thái Bình), rồi vì can án nên bị cách chức, sau lại được làm Bát Phẩm Thi Lại Bộ Hình, sau cùng được thăng lên chức Viên Ngoại Lang . Phần bà, nhờ nổi tiếng là “hay chữ “, nên được Vua Minh Mạng vời vào cung và phong cho chức Cung trung giáo tập, để dạy các cung nữ học . Trong những năm đầu triều VuaTự Đức , bà đã gián tiếp xin Vua miễn cho làng Nghi Tàm khỏi lệ tiến cống chim sâm cầm ; điều đó nói lên sự quan tâm nhân ái đối với dân làng, và hình bóng đất Bắc hà luôn in đậm trong tâm hòn người Nữ sĩ tài hoa .

Thơ của bà để lại được chính thức công nhận là 6 bài; đó là : Qua đèo Ngang , Chùa Trấn Bắc, Thăng Long hoài cổ , Cảnh chiều hôm, Chiều hôm nhớ nhà , Cảnh thu. Chúng đều là những bài thơ tả cảnh , đẹp như những bức tranh thủy mặc chấm phá,; nhưng không chỉ có vậy , đây lại là những bài thơ mượn cảnh để gửi gắm tâm tình . Nhưng trước khi nói đến tâm sự của bà, chúng ta cùng phân tích vẻ đẹp nơi những bài thơ của Nữ sĩ .

II. “NGỌC” TRONG THƠ

Thể thơ Đường luật của Trung Hoa có một bố cục chặt chẽ, với số chữ và số câu hạn chế, lại thêm những quy luật niêm và đối phức tạp .Với chữ Hán đã khó, dùng chữ Nôm lại còn khó hơn . Nhất là về ý, thơ lại mượn cảnh để diễn tả tâm tình, phải có một sự hoà hợp giữa tâm hồn và ngoại cảnh, giữa tình cảm và lý trí . Rồi” ý tại ngôn ngoại” : dùng chữ diễn ý, sao cho ngắn gọn, đầy đủ; nhưng cũng “ý bất thành văn “: lại vẫn như còn thiếu cái gì đó để gợi thêm tưởng tượng và tâm tình, như “trời chiều bảng lảng “. Thật hay nhưng thật khó, thế mà điều đó có được nơi thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Có thể nói rằng những câu thơ của bà thật đẹp và khó có một chữ thừa :

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa .

Ngay cách đảo ngữ cũng làm cho câu văn ngắn gọn, mạnh mẽ; nhưng lại thật trong sáng, nhẹ nhàng :

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn .

Và nhất là những từ ngữ, hình ảnh, âm điệu đối xứng với nhau thật đẹp, thật hay :

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

“Trơ gan ” đối với “cau mặt “, rồi đem những động từ đó gán cho “đá”ù và “nước”, là những biểu tượng của sự vô hồn, dửng dưng, làm chúng sống động nhờ sự “nhân cách hoá “. Làm thơ như thế, thật khó có ai bì .

Đọc thơ của bà, chúng ta thấy có một cái gì thật đoan trang, tao nhã, như thấp thoáng một hình ảnh trang nghiêm, đài các, nhưng không cổ kính, khô khan mà lại thật thanh thoát, nhẹ nhàng :

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương .

Có thể ví thơ bà với hình ảnh bộ chén kiểu Trung Quốc có vẽ hình sơn thủy Việt Nam, đã được Vua Minh Mạng đem ra khoe, và yêu cầu bà làm thơ vịnh, Nữ sĩ đã không đắn đo lên giọng đọc :

Như in thảo mộc trời Nam laiï

Đem cả sơn hà đất Bắc sang .

Có cái gì cổ kính như một nước Trung Hoa với hàng ngàn năm truyền thống, luôn đặt nặng sơn hà. Nhưng cũng có cái gì thật xanh tươi, dịu mát, như cây rừng, cỏ lúa của quê Việt mến yêu . Tâm hồn của Nữ sĩ là ở đó, một tâm hồn biết vận dụng những hình ảnh của mình và của người, tâm tình và ngôn ngữ .

Bà cũng đã dùng những thi điệu thật uyển chuyển, nên thơ dù tả những cảnh xưa và theo thể thơ Đường, nhưng vẫn không bị gò bó . Trong thơ như có nhạc, và nhạc đó làm nao lòng người, vì thật hợp tình, hợp cảnh :

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn

Chuông hồi kim cổ lắng mà mau .

Có lẽ bà đã từng ngắm những lớp sóng xô đẩy nhau trên mặt Hồ Tây mà nghĩ tới sự suy thịnh đổi thay của các triều đại, cũng như nghe tiếng chuông chùa lúc nhặt lúc khoan, gợi sự biến thiên của đời người và trần thế . Những hình ảnh đó đã làm bà cảm khái để dệt nên những vần thơ bất hủ , gieo vào lòng người một sự trầm lắng sâu sa ..

Nhưng đẹp nhất và tuyệt nhất trong thơ của Nữ sĩ , là cách dùng chữ thật điêu luyện, thần tình. Những ý và lời đã được bà dùng những chữ thật chính xác để diễn tả, như những viên ngọc được chọn lọc và gọt dũa . Những nhà phê bình có thể đề nghị sửa một chữ trong thơ của Tản Đà hoặc của những nhà thơ mới để thêm đậm nghĩ a hay tạo nhạc điệu, nhưng chưa thấy ai đề nghị sửa “chữ ” nào trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan .

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông rợ mấy nhà

Hay : Xanh um cổ thụ tròn xoe tán

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ .

Những chữ đã nói lên đầy đủ ý nghĩa, hình ảnh, màu sắc, mà lại thật sáng sủa, tươi đẹp, nhẹ nhàng, làm cho người đọc có ấn tượng : không thiếu, không dư .

Tóm lại, thơ Đường Luật của Việt Nam trước kia thường mắc phải hai tật : nếu nghiêng về chữ Hán thì nặng nề, cổ kính, có lúc tối nghĩa vì những điển cố, nghĩa chữ ; nếu nghiêng về chữ Nôm thì quê kệch, chất phác, đôi khi trúc trắc, khó hiểu vì những tiếng không phổ thông . May mắn thay, tới đầu thời nhà Nguyễn, chúng ta có hai nữ sĩ kiệt xuất là Hồ xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan, nên hai tật đó đã được vượt qua. Nói như cố giáo sư Phạm thế Ngũ “Thơ Hồ xuân Hương thiên về Nôm mà bóng bảy, duyên dáng, thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà thanh thoát , nhẹ nhàng.Hồ xuân Hương đại biểu cho cái tinh thần trào phúng bình dân vươn lên thể hiện trong một hình thức bác học. Thanh Quan đại biểu cho cái tinh thần tao nhã nho sĩ kết tinh lại cùng với tinh túy của bài Đường thi trong một ngôn ngữ Hán Việt đã hoàn toàn Việt hoá “.

Để nói riêng về Bà Huyện Thanh Quan, cố giáo sư đã không tiếc lời khen ngợi, và có lẽ chúng ta cũng đồng ý với ông rằng :”Thơ Đường trước bà người ta đã làm vô số, sau bà người ta cũng còn làm vô số . Nhưng trước cũng như sau, có lẽ không ai vượt được Nữ Sĩ Thanh Quan “.

III. THÁI ĐỘ ” HOÀI LE ” HAY TÂM TRẠNG CÔ ĐƠN TUYỆT ĐỐI

Xưa nay, nhiều nhà phê bình văn học đã xếp thơ Bà Huyện Thanh Quan vào khuynh hướng hoài cổ, vì bà có những bài thơ nói lên lòng luyến tiếc nhà Lê với quá khứ vàng son đã qua, một quá khứ huy hoàng của đất Bắc. Những bài thơ như “Thăng long hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc ” đã được đem ra phân tích dưới cái nhìn đó .

Nhưng gần đây, một số nhà phê bình mới đã bác bỏ nhãn quan này . Họ cho rằng Nữ sĩ đã sống vào sáu bảy thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, dưới triều các Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là lúc triều Nguyễn đã đi vào quy củ vững vàng, đã tự khẳng định như một vương triều chính thống. Và chính bà cũng như chồng, đều là quan nhà Nguyễn, nào có ăn lộc gì của Vua Lê Chúa Trịnh mà phải có thái độ “hoài Lê” ? Chuyện đó có lẽ chỉ đúng cho Nguyễn Du, Nguyễn huy Hổ là những người có gia thế vọng tộc gần gũi với Tiền triều. Còn nỗi buồn của bà, theo như họ khẳng định, đó là nỗi buồn của một tâm trạng cô đơn . Trong 6 bài thơ của bà đã có 4 bài thơ buồn, tất cả đều chứa đầy tâm sự mà không tìm được người san sẻ :

Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn .

Ngay cả cảnh vật, tuy thật gần gũi để bà gửi gắm tâm tình, nhưng vẫn không chia xẻ được sự cô quạnh của bà “cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường ” . Khác hẳn với Nguyễn Khuyến, ngay khi cô đơn như sư cụ chùa Đọi thì còn có khói mây :

Sư cụ nằm chung với khói mây.

Hoặc Tản Đà thì vẫn còn có mặt trăng :

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi

Trần thế em nay chán nửa rồi .

Hay như Hồ xuân Hương, lúc buồn còn có “non” và “nước” :

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non .

Còn Bà Huyện Thanh Quan thì như cô đơn tuyệt đối, một tâm trạng thể hiện rõ nét trong hai câu cuối của bài “Qua đèo Ngang “

Dừng chân đứng lại trời, non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta .

Chỉ còn lại “mình ” đối diện với mình trên đèo Ngang trong buổi chiều tà; “không còn là sự gửi gắm, miêu tả, bộc bạch. mà là tác giả “tạc tượng “nỗi cô đơn của mình vào đất trời, vũ trụ “. Một hình tượng độc đáo : kiên vững , đầy nghị lực , dường như không muốn làm phiền lòng, bận tâm người khác, mà chỉ âm thầm chịu đựng một mình . Có phải là vì những ngày xa chồng, xa nhà khi nhận chức Cung trung giáo tập ở kinh thành Huế đã tạo trong bà nỗi buồn cô độc ? hay là vì chồng bà sớm qua đời nên bà thấy lẻ loi và luôn nhớ lại một dĩ vãng không bao giờ trở lại ? Và “Xuân Hương thi Tập” có nói đến danh mục các bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, cho rằng bài “Thăng Long hoài cổ ” lúc đầu có tên là “Quá phu quân cố lị cảm tác “(Qua chốn chồng làm quan cũ ) ; nếu điều thi tập nói ở trên là đúng, thì quả là Nữ sĩ đã mượn thơ để diễn tả cảnh ngộ của mình chứ không phải là thái độ “hoài Lê “â . Bà đã đi từ bi kịch cá nhân của mình tới cái nhìn về sự biến thiên đổi dời của thiên nhiên và xã hội, sự đổi dời mà con người không cách chi ngăn giữ, mà chỉ còn lại nơi những tâm hồn nhạy cảm sự tiếc nuối xót xa, xót xa về một quá khứ với những kỷ niệm riêng tư, hạnh phúc gia đình . “nhìn chung, thì để dẫn đến một tâm trạng có rất nhiều nguyên nhân, hà tất chỉ là nỗi lòng người đó gán cho một triều đại nào ! “

Lập luận trên thật vững chắc và có cơ sở, nhưng sẽ không đủ nếu chúng ta nói Bà Huyện Thanh Quan không có thái độ hoài Lê . Có điều phải định rõ là nên hiểu thế nào về thái độ đó :

Làm người, ai cũng nhớ đến sinh quán, quê hương ; nhất là người giầu tình cảm như Nữ sĩ Thanh Quan , bà làm sao quên được Thăng Long, đất ngàn năm văn vật . Đã biến đâu rồi những cung son điện ngọc, mà chỉ còn trơ lại những cột gãy tường siêu, sân rêu mái đổ. Làm bà phải cất tiếng than :

Tạo Hoá gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương .

Thời gian trôi mau quá, những hành cung lộng lẫy của hôm qua, nay chỉ còn là phế tích hoang tàn, làm sửng sốt và đau lòng người luôn chắt chiu những kỷ niệm xa xưa :

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu

Chạnh niềm cố quốc gợi lòng đau .

Một quá khứ vàng son đã biến đi đâu mất, chỉ còn lại cỏ mùa thu trên đường mà ngựa xe nay vắng bóng, chỉ còn bóng chiều tà trên sân chầu của văn võ bá quan :

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương .

Điều đó càng thấm thía hơn đối với Bà Huyện Thanh Quan thuộc về một gia đình khoa hoạn thời Lê mạt. Tuy bà không hưởng lộc gì của Vua Lê Chúa Trịnh , và từng làm quan với nhà Nguyễn, nhưng chắc chắn bà cũng chịu ảnh hưởng gián tiếp của các cựu thần nhà Lê như Phạm quý Thích, Nguyễn Du, Nguyễn Lý. qua những lời giảng dạy của cha mình . Nhất là đường hoạn lộ của chồng bà không phải lúc nào cũng xuông xẻ, chuyện ông đã từng bị cách chức vì lời thơ phóng khoáng của bà, chắc cũng đã từng làm bà chán nản với cái bã lợi danh hiện tại mà thêm tưởng nhớ tiền triều .

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia .

Chúng ta nhớ đây là nước cũ 300 năm của Vua Lê, là nước “Bắc hà ” đã bị Chúa Nguyễn ở Nam hà ra chiếm cứ . Không những họ chả giữ gìn những lâu đài người xưa để lại, mà cũng chả dám tin dùng những sĩ phu của đất Bắc nghìn năm văn hiến . Cũng là sự đổi thay của các triều đại, thế nhưng sao Vua Quang Trung lại trọng vọng bầy tôi nhà Lê đến thế : người đã mời Nguyễn Thiếp, Ngô thời Nhiệm, Phan huy Ích. ra trao cho những chức vụ quan trọng, còn ai không nhận quan tước thì cho về quê cũ yên ổn làm ăn . Những Vua nhà Nguyễn : Gia Long, Minh Mạng thì lại khác , khinh thường , nghi kî , hoặc dùng cho có lệ; khiến cho những cựu thần nhà Lê như Nguyễn Du, Nguyễn huy Hổ, và có lẽ ngay cả Nữ sĩ Thanh Quan cũng đã mang mặc cảm mà thêm thương nhớ tiền Triều . Huống hồ lại có thêm một lý do tâm lý , đó là tự ái bị tổn thương : tự ái địa phương, tự ái cá nhân .Đành rằng những nhà thơ chúng ta vừa kể trên đều có tâm hồn khoan hòa, phóng khoáng; nhưng chắc không khỏâi bất nhẫn trong lòng khi thấy đất Bắc hà bị bỏ bê và coi là phụ thuộc, ngay cả cái tên “Thăng Long” cũng bị thay để xoá nhòa quá khứ ; rồi chính mình cũng phải qụy lụy Vua quan triều đình Huế, những kẻ khác biệt về tính tình, phong tục, học thức, mà lại xét nét, kiêu căng .

Ở đây, cũng cần minh định rõ ràng là Bà Huyện Thanh Quan , cũng như những cựu thần nhà Lê, đã chẳng tiếc gì cái ngai vàng mục nát với chính sự đổ nát của thời Lê mạt Trịnh suy, chả quý gì một vua Lê chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”, hay một Chúa Trịnh Khải chỉ biết bắt nạt vua Lê mà lại khiếp nhược trước kiêu binh Tam Phủ . Thái độ hoài Lê của Nữ sĩ không có tính cách chính trị, chỉ là tâm tình . Trước cảnh hoang tàn của đất Bắc thời nhà Nguyễn, bà đau lòng nhớ tiếc một quá khứ xa xưa, “một quá khứ có lẽ chính bà cũng không tường tận lắm và cũng chưa thọ hưởng ân huệ gì, nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia đình, của quê hương mình, cho nên tình cảm dễ tô màu khả ái “. Nhất là vào lúc cuối đời, trong lúc cô đơn, quá khứ đó đã sống lại huy hoàng trong tâm hồn cao đẹp của bà , một tâm hồn luôn nhạy cảm, yêu thơ, yêu dân, và yêu nước .

IV. KẾT LUẬN

Dòng văn học chữ Nôm có ba nữ sĩ tài ba: Hồ xuân Hương, Đoàn thị Điểm, và Bà Huyện Thanh Quan ; mỗi người một vẻ, đã tô điểm cho văn học Việt nam những nét tuyệt vời. Hồ xuân hương, với nét trẻ trung tươi mát, tạo thêm tính lạc quan yêu đời; Đoàn thị Điểm, với lòng chung thủy thắm thiết, đã nêu cao truyền thống của người phụ nữ Việt nam nghĩa tình sâu đậm ; và bà Huyện Thanh Quan, với sự đoan trang, kiên nghị, hoài cổ, đã tạo thêm nghị lực trung trinh, lòng yêu mến trân trọng quá khứ của tiền nhân và gia đình. Tương lai nằm trong quá khứ, chúng ta thêm thấu hiểu và kính trọng Nữ sĩ khi đọc lại những dòng thơ chứa đầy tâm sự của bà, những bài thơ giúp ích cho chúng ta xây dựng tương lai khi đã nhớ thương, yêu mến những di sản của cha ông .

Nếu có thể ví Văn chương chữ Nôm như một kho tàng chứa đầy châu ngọc, thì với tài năng kiệt xuất của mình, Bà Huyện Thanh Quan đã chọn lọc và gọt dũa những viên ngọc để kết thành vương miện cho Nàng Thơ . Trên vương miện đó, số châu ngọc tuy không nhiều, nhưng thật đẹp, thật quý . Tạo nên dáng vẻ yêu kiều tôn quý cho một Nàng Thơ đài các, uy nghi, khiến bao người trầm trồ chiêm ngưỡng . Bao thế hệ yêu thơ sau này, đã như giới thi sĩ của đất Thăng Long xưa, sẽ mãi mãi bày tỏ lòng ngưỡng mộ tri ân khi nhìn vào vương miện của bà đã làm cho Nàng Thơ trong lâu đài Văn Hoá Việt, một công trình rực rỡ của một Nữ Sĩ đoan trang đầy tài năng và đức hạnh trong dòng văn học Việt nam .

HOÀI VIỆT HOÀI

Bà HUYỆN THANH QUAN

______________________________________

theo Wikipedia

@Tiểu sử

Bà Huyện Thanh Quan (chữ Hán: 婆縣清觀,

* tên thật là Nguyễn Thị Hinh;

* sinh 1805

* người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội

* Thân phụ là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.

* Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825),

* và là vợ Lưu Nghị[3](1804-1847),

+ Ông người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).

+ Ông đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2),

+ từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.

Chồng bà làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).

* Dưới thời vua Minh Mạng

+ Bà được vời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập

để dạy học cho các công chúa và cung phi.

+ Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc,

rồi dẫn bốn con [5] về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.

* Bà mất năm 1848 ở tuổi 43.

Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà Nội),

sau này sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích

@Tác phẩm

Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều,

hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật.

Hiện gồm những bài sau:

1. Thăng Long thành hoài cổ

2. Qua chùa Trấn Bắc

3. Qua Đèo Ngang

4. Chiều hôm nhớ nhà

5. Nhớ nhà

6. Tức cảnh chiều thu

7. Cảnh đền Trấn Võ

8. Cảnh Hương sơn

Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy

thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác của bà

bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật

*

từ tr.3

^ về đầu chương tiểu luận << về trang chủ Thích Đang tải...

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

Từ khóa » Nỗi Quan Hoài Vạn Cổ Là Gì