Tiểu Luận: Vai Trò Lãnh đạo Của đảng đối Với Sự Nghiệp Cách Mạng

Mục lục

  • PHẦN MỞ ĐẦU (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
  • Chương 1. Cơ sở lí luận  của vấn đề nghiên cứu (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
    • 1.1 Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và ý nghĩa của vấn đề trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
    • 1.2  Đảng ta đối với cách mạng giải phóng dân tộc (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
  • Chương 2. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
    • 2.1. Đảng với công cuộc đổi mới ở nước (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
    •  2.2 Đánh giá đúng thực trạng đất nước, nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
  • Chương 3. Những yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới
    • 3.1 Những điều kiện mới tác động đến yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng
    • 3.2 Những yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
4/5 - (4 bình chọn)

Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.

Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.

===> Viết Thuê Tiểu Luận Môn

PHẦN MỞ ĐẦU (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

1. Lý do chọn đề tài

Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng không phải là quyền lực mà đảng tự đặt ra cho mình, cũng không phải do sự áp đặt đối với quần chúng, mà phải do quần chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy, Đảng mới đoàn kết được dân tộc, mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam tuân theo những quy luật khách quan, đó chính là sự vận dụng, phát triển của phong trào công nhân kết hợp với chủ nghĩa mác – Lênin và phong trào yêu nước của dân tộc. Bởi vậy, từ khi Đảng xuất hiện theo quy luật vừa phổ biến vừa đặc thù đó đã đưa cách mạng Việt Nam vào một bước ngoặt, mở ra một chân trời triển vọng mới cho dân tộc ta phát triển.

Có thể nói lịch sử thăng hoa của đất nước ta hôm nay gắn liền với lịch sử thăng trầm sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, nhờ có lý luận tiên phong dẫn đường, Đảng đã dẫn đường nhân dân ta dành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (1986) đến nay, Đảng đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận điểm mới chủ nghĩa xã hội và con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tuy nhiên, trong  suốt quá trình đổi mới, nhìn chung công tác lý luận vẫn không kịp sự phát triển của thực tiễn, vẫn không ít cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên chưa nắm chắc những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng. Thậm chí, ở một số nơi, tình trạng này vẫn còn vô hiệu hóa các giải pháp có giá trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy, các tổ chức Đảng. Do đó nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục tiêu phấn đấu 2020, nước ta cơ bản trở thành một  nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đòi hỏi  cần phải có một sự lãnh đạo của Đảng và sự hưởng ứng nhiệt tình đông đảo quần chúng nhân dân thì đất nước mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, thực hiện CNH –  HĐH thì vai trò lãnh đạo của Đảng  càng mang tính thời sự và cấp thiết .

Xuất phát từ những lý do trên tôi nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự  nghiệp cách mạng Việt Nam. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

 2. Mục đích, yêu cầu

– Mục đích: Mỗi công dân Việt Nam cần phải xác định đúng đắn, nhìn nhận được tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

– Yêu cầu:

  • + Phân tích và làm sáng tỏ  vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa).
  • + Đánh giá một cách khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng.
  • + Đưa ra một số yêu cầu của Đảng ta trong giai đoạn mới hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

  • – Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
  • – Phạm vi nghiên cứu: toàn thể quần chúng nhân dân Việt Nam trong giai đoạn giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa.

 4. Những đóng góp của đề tài

  • – Cung cấp cho bạn đọc thấy rõ hơn và toàn diện hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng  đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
  • – Góp phần  làm tăng thêm sự hiểu biết và cũng như việc đánh giá đúng vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay.

 5. Phương pháp nghiên cứu

  • – Phương pháp lý luận kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.
  • – Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình cách mạng Việt Nam

Chương 1. Cơ sở lí luận  của vấn đề nghiên cứu (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

1.1 Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và ý nghĩa của vấn đề trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

1.1.1 Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam

– Hồ Chí Minh đã tiếp thu di sản của các bậc thầy là những luận điểm lớn về cách mạng và phương pháp luận. Bản chất của lý luận Mac – Lenin là chống trì trệ xương cứng, chống giáo điều rập khuôn, chống duy ý chí, trái quy luật , chống tách rời cuộc sống, xa cách nhân dân. Đặc biệt thời kỳ từ thập kỷ 60 của thế kỷ XIX trở đi, khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền – chủ nghĩa đế quốc, kéo theo trào lưu thực dân, đè nén ba phần tư loài người, thì chủ nghĩa Mac – Lênin đã không ngừng được làm giàu thêm bởi diển biến lịch sử ngày càng phong phú. Tuy nhiên, cũng như Mac – Lênin sống và hoạt động chủ yếu ở châu Âu, không thể vượt qua hạn chế của lịch sử. Trong 60 năm từ lúc sáng lập nhà nước Xô viết đến khi qua đời, Lênin đã có những chỉ dẫn quan trọng, nở ra một thời đại mới cho các dân tộc thuộc địa, nhưng không thể xây dựng hoàn chỉnh lý luận về cách mạng của các dân tộc bị áp bức đang bùng lên giải phóng.

– Nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam bao giờ cũng phải đặt mỗi sự kiện, mỗi vấn đề trong tổng lộ tuyến mà sự khởi đầu là cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có đảng cách mạng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin và quốc tế cộng sản. Đó là bài học cách mạng tháng mười Nga và từ học thuyết Mac – Lênin

Xét trên một ý nghĩa nào đó thì cơ sở lý luận và thực tiễn để thành lập một Đảng cộng sản Việt Nam đã xuất hiện. Nhưng Hồ Chí Minh chư vội làm công việc cực kỳ quan trọng – xác lập nhân tố hàng đầu để đua cách mạng Việt Nam thắng lợi. Bởi vì những cơ sở nêu trên chưa phù hợp với thực tiễn mang tính đặc thù ở Việt Nam khi mà giai cấp công nhân và phong trào công nhân còn nhiều hạn chế, đang ở trình độ “tự phát”. Còn những thanh niên yêu nước Việt Nam rất hăng hái nhưng lại bế tắc về đường lối cứu nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải chuẩn bị chu đáo về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự chuẩn bị đó trước hết là việc nghiên cứu thấu đáo lý luận Mac – Lênin về quy luật ra đời của một Đảng Cộng sản. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh người đã từng tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp vào cuối năm 1920 vẫn trăn trở nhiều vấn đề đặt ra trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn: điều kiện thành lập Đảng Cộng sản ở nước ta đã chín muồi chưa? Chủ nghĩa cộng sản có thâm nhập vào châu Á hay không? Lộ trình thành lập Đảng như thế nào?… Hồ Chí Minh đã dành trọn khoảng thời gian 10 năm để nghiên cứu thấu đáo mọi vấn đề từ lý luận đến thực tiễn, qua khứ tới hiện tại, phương Đông và phương Tây, các nước tư bản và thuộc địa, đặc biệt là cách thức hình thành, tổ chức đội tiên phong của giai cấp tư sản và của cả dân tộc như  thế nào. Bằng trí tuệ và bản lĩnh của mình, Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo lớn trong việc vận dụng quy luật về sự ra đời của Đảng theo chủ nghĩa Mac – Lênin để hướng tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên cơ sở đó, ngay từ năm 1921, Người bắt tay ngay vào việc đưa chủ nghĩa Mac- Lênin đã được “Việt nam hóa” vào Việt Nam. Người tận dụng mọi cơ hội và điều kiện như viết báo, sách, diễn đàn hội nghị và đại hội này.

Tuy nhiên, sự dễ dàng cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á không đồng nghĩa với việc truyền bá nhanh chủ nghĩa cộng sản trong một thời gian ngắn. Bởi vì, chính sách ngu dân của thực dân Pháp là một trở ngại lớn.

Trong tình đó cần thiết phải có sự giáo dục, giác ngộ mọi người, trước hết cho lớp trẻ. Vấn đề có tính nguyên lý là mù chữ và ngu dốt thì sẽ đứng ngoài chính trị. Trong thời gian này, một mặt Hồ Chí Minh phải nhanh chóng đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thế giới. Mặt khác, Người phải chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng. Trước sau người nhất quán quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng quần chúng chỉ có sức mạnh thật sự khi được thích tỉnh và giác ngộ. Muốn vậy phải có đường lối, có lý luận, có tổ chức. Bởi vì “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Và một khi lý luận đã thâm nhập vào quần chúng thì sẽ biến thành một lực lượng vật chất. Muốn giác ngộ, vận động, tổ chức dân chúng, đoàn kết quốc tế thì phải có đảng cách mạng.

Từ thực tế phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX với nhiều tổ chức chính trị như Duy Tân hội, Việt nam Quang phục hội,Tâm  tâm xã, Việt Nam quốc dân Đảng… Hồ Chí Minh đã ra sự yếu kém của đường lối và tổ chức cũng như phương pháp tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng. Các tổ chức đó còn thiếu và yếu, chưa vạch ra được một đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn theo hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại, nên vẫn như đi trong hầm, không có lối ra.

Nhất định phải có Đảng cộng sản thay thế các tổ chức kiểu cũ theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản, nhưng không phải thành lập ngay. Cách làm vội vàng khi người dân chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải có đảng thì không những đêm lại kết quả màu hậu quả khôn lường. Mười năm cho việc thành lập đảng  có thể nhận thấy Hồ Chí Minh đặc biệt sáng tạo trên máy phương diện sau: (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Một là, đưa lý luận Mac – Lênin sau khi đã được “Việt Nam hóa”  vào phong trào cách mạng Việt Nam, bao gồm cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mac – Lênin với ý nghĩa là một học thuyết mang bản chất cách mạng và khoa học, là thế giới quan là phương pháp luận, cơ sở tư tưởng của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Chính phong trào yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản với lực lượng cơ bản, đông đảo là nông dân, tầng lớp tri thức, học sinh tiểu tư sản, có cùng mục tiêu với phong trào công nhân là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc là một trong ba yếu tố tạo thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hai là, trong khi tuyên truyền lý luận Mac – Lênin vào Việt Nam, sau nhiều bước “dọn dường” đến độ chín muồi, Hồ Chí Minh mới nói tới đảng. Nghiên cứu báo thanh niên ta thấy rõ điều này. Từ số 1 ngày 21/6/1925, xuyên suốt lịch sử của mình đến tháng 5/1927, báo thanh niên ra được 200 số. Hồ Chí Minh trực tiếp phụ trách 88 số đầu với ý nghĩa là tác giả, vừa tổng biên tập. Trong 88 số đó Người đã đề cập đến nhiều vấn đề như mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc Pháp, giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc nói chung. Khẳng định con đường cách mạng chống  con đường cải lương. Lực lượng cách mạng là toàn dân, lấy công nông làm gốc. Cần phải có tinh thần cách mạng và phương pháp cách mạng đúng đắn…

Ba là, về mặt tổ chức, Hồ Chí Minh quan tâm tới loại tổ chức chưa phải là Đảng Cộng sản, nhưng  cũng không thể tổ chức kiểu cũ hay chỉ là tổ chức mang tính chất đoàn thể đơn thuần. Sáng tạo của Hồ Chí Minh là lập ra Hội Vệt Nam cách mạng thanh niên có “cộng sản đoàn” làm nòng cốt. Tổ chức này đóng vai trò là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính nhờ tổ chức này mà công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tiến hành kịp thời và với lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mac – lênin càng có điều kiện ăn sâu bắn rễ trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Khi phong trào công nhân được ánh sáng cách mạng tiên tiến của thời đại soi sáng thì ngày càng phát triển, yếu tố “tự phát” ngày càng rơi rụng dần và yếu tố tự giác ngày càng tăng lên. Điều này có nghĩa là phong trào công nhân đã có những chuyển biến trong chất lượng đấu tranh. Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, cần được thay thế bằng cộng sản thực sự. Nhìn nhận lại vị trí, vai trò của tổ chức tiền thân này, trong báo cáo gửi quốc tế cộng sản, ngày 18/2/1930 và ngày 5/3/1930, Người viết: “Hội An Nam Thanh niên cách mạng do chúng tôi tổ chức từ năm 1925. Trên cơ sở đó, Người đ ã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất  lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930, một cái tên vừa phản ánh được nguyên lý và bản chất chung nhất là đảng công sản, vừa thể hiện nét đặc thù của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, sau 46 năm khi sự nghiệp giải phóng dân tộc hoàn toàn thắng lợi, đất nước thống nhất, giang sơn quy về một mối, Đảng ta lại trở lại với tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

1.1.2 Ý nghĩa của vấn đề xây dựng Đảng.

Tư duy bao trùm về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh phải bắt nguồn từ luận điểm sáng tạo về sự ra đời của Đảng: “chủ nghĩa Mac – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong tào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Luận điểm này phải được thấu suốt trong việc vạch đường lối, lựa chọn, giáo dục rèn luyện đảng viên, nâng cao trình độ đảng viên, thắt chặt quan hệ mật thiết giữa đảng với quần chúng, làm cho đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Cần nhận thức ý nghĩa của vấn đề Đảng ra đời với công tác xây dựng Đảng hiện nay trên các khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đi từ “mảnh đất màu cờ” của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đến chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa  quốc tế vô sản , và ngay từ đầu đã làm cho đảng bắt rễ sâu xa trong lòng dân tộc. Người đã giác dân tộc ngộ phát triển đến giác ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp để đi tới kết luận: chủ nghĩa Mác – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng  mạnh chỉ đạo Đảng, làm cho Đảng có thể trở thành hình thức tở chức cao nhất của quần chúng lao động. Với việc có thêm yếu tố mới là phong trào yêu nước , thì vai trò của chủ nghĩa Mac – Lênin là mặt trời soi sáng con đường cách mạng của chúng ta. Theo người, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa Mac- Lênin “làm cốt”. Bởi vì đó là học thuyết cơ sở tư tưởng, về tổ chức, về lý luận chiến lược và sách lược của Đảng cách mạng. Chủ nghĩa Mac – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng, làm cho Đảng có thể trưởng thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thanh của trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại. Với bản chất cách mạng và khoa học, học thuyết Mác – Lênin chỉ ra thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận đúng đắn  cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với việc có thêm yếu tố mới là phong trào yêu nước, thì vai trò của chủ nghĩa Mac – Lênin càng quan trọng trong việc nâng cao trình độ tư tưởng và trình độ chính trị đảng viên làm cho đảng viên theo đúng lập trường vô sản. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng xây dựng trên xứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và xây dựng đảng vững mạnh dựa vào chủ nghĩa Mac – Lênin. Đây là luận điểm kinh điển về Đảng Cộng sản. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa có tính kinh điển vừa mạng tính đặc thù. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, mặc dù từ năm 1930 Hồ Chí Minh đã chỉ ra “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận” giai cấp công nhân. Đảng phải thu phục tập hợp đa số quần chúng nông dân và các lực lượng khác với tiêu chuẩn chính là lòng chân thành yêu nước.

Nhận thức này có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng Đảng hiện nay. Trong khi mở rộng biên độ thành phần xã hội, kết nộp những người ưu tú vào Đảng để tránh căn bệnh cô độc, biệt phái , hệp hòi thì phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí làm cho Đảng toàn tâm, toàn ý theo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ ba, phải chỉ mở rộng thành phần xuất thân vào Đảng, mà một điều quan trọng là đảng phải tăng cường chính sách đại đoàn kết. Học tinh thần Hồ Chí Minh từ khi Đảng vừa ra đời và trong suốt quá trình Người cùng đảng lãnh đạo cách mạng, hiện nay Đảng vẫn tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kế dân tộc bằng cách thực hiện đại đoàn kết người trong Đảng và người ngoài đảng, các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai lấy mục tiêu giữ vững độc, thống nhất, vì dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng. Gốc rễ của vấn đề xây dựng, chỉnh  Đảng hiện nay phải xuất từ chỗ đó.

1.2  Đảng ta đối với cách mạng giải phóng dân tộc (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng lao động Việt Nam, ngày 5 tháng 9  năm 1960 của Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Cách mạng là sự nghiệp quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng là nơi ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân chiến đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin”

Như  vậy, khi bàn tới sự lãnh đạo của Đảng là bàn tới vai trò tổ chức, huy động lực lượng cách mạng của quần chúng theo một đường lối, cương lĩnh đúng đắn, vừa trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Thực chất, đó là một quá trình đổi mới sáng tạo, phản ánh trí tuệ và bản lĩnh chính trị của đảng trước  những sóng gió của dân tộc và thời đại.

1.2.1 Đảng lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công

Vấn đề hàng đầu của Đảng cộng sản thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của đội tuyên phong của giai cấp công nhân là đề ra đường lối cách mạng đúng đắn.

Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, trong Cương  lĩnh cách mạng đầu tiên nêu trong Hội nghị thành lập Đảng, Đảng đã nêu ra chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cụ thể đó là nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người có ruộng cày. Cương lĩnh ấy hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân ta là nhân dân, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta, Đảng của giai cấp công nhân – không ngừng củng cố và tăng cường.

Ở thời điểm Đảng ta ra đời có một tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản là Việt Nam Quốc dân Đảng cũng được thành lập (12/1927). Tổ chức này thiếu một lý luận cách mạng tiên tiến làm cơ sở cho đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, lại không có chỗ dựa vững chắc trong quần chúng công nông , cho nên Việt Nam Quốc dân đảng thiên về manh động và khủng bố cá nhân. Sau khởi nghĩa Yên Bái (9/2/ 1930), Việt Nam Quốc dân Đảng với tư cách là chính Đảng hoàn toàn phá sản. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Hồ Chí Minh ngây từ đầu đã hoàn toàn tin tưởng vào đảng cộng sản bởi vì việc thành lập đảng chứng tỏ giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Vừa ra đời, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo một phong trào quần chúng mạnh lớn mà xưa nay chưa từng có ở nước ta – phong trào cách mạng 1930 – 1931. Đây là phong trào đấu tranh nhân dân chống thực dân Pháp và tay sai. Riêng ở hai tĩnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã phát triển thành một cuộc biểu tình có vũ trang đánh đỗ chính quyền địch ở nhiều địa phương, thành lập chính quyền cách mạng kiểu Xô Viết, tiến hành chia ruộng cho nông dân cày, bài trừ mê tín dị đoan, trấn áp phản cách mạng, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động.

Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh thành công trên nhiều mặt. Nó chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân Việt Nam mà trước hết là khối liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phong trào rèn luyện cách mạng tháng tám thắng lợi sau này. Đây có thể coi là phát thảo đầu tiên là bài học vỡ lòng về chính quyền cách mạng, mà nếu không có nó thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho những bài học tiếp theo. Đồng chí Trường Chinh nhận xét: ”Thắng lợi lớn nhất của Đảng ta trong phong trào cách mạng năm 1930 – 1931 là Đảng đã thực hiện được khối liên minh công nông, do đó đã giành được nhiều quyền lãnh đạo cho giai cấp công nhân”.

Qua phong trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, uy tín và ảnh hưởng của Đảng ta trong các nước thuộc địa đã tăng lên. Một trong những biểu hiện cụ thể là trong phiên họp 11/4/ 1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản đã quyết định Đảng cộng sản Đông Dương là một bộ phận độc lập trực thuộc Quốc tế cộng sản. Đó là một vinh dự lớn đối với Đảng vừa ra đời và hoạt động hơn một năm . (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Tuy nhiên, đánh giá  một cách khách quan, nghiêm túc, thời kì 1930 – 1931 và đến 1935 Đảng có những lúc có những nhận thức ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng “ tải” , biệt phái và giáo điểu rập khuôn máy móc. Luận cương chính trị tháng 10/ 1930; thư của Trung ương  gửi cho các cấp đảng bộ ngày 9/12/1930…bên cạnh việc khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng ở nước ta mà các văn kiện trong hội nghị hợp nhất đã nêu lên, còn bộc lộ nhận thức máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong xứ thuộc địa; không vạch được mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với bọn xâm lược Pháp và tay sai của chúng, do đó không nêu được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Việc nhận thức về vai trò cách mạng của các giai cấp tư sản, tư sản dân tộc, nhận thức về khả năng phân hóa giai cấp địa chủ…chưa thật đầy đủ, đúng đắn.

Ngay cả cao trào cách mạng  1930 – 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, bên cạnh xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, Đảng ta chưa nhận thức đầy đủ vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân xâm lược và tay sai. Lúc bấy giờ, Đảng có chủ trương lập Hội phản đế đồng minh, nhưng việc giáo dục cho đảng viên và tổ chức thực hiện chủ trương ấy thì chưa có kết quả.

Mặc dầu bị tổn thương nặng nề, Đảng vẫn tồn tại, giữ được liên hệ với quần chúng. Có ba điều cơ bản để khẳng định vấn đề này. Một là, đội ngủ đảng viên dù trong tù hay hoạt động ngoài vẫn giữ được phẩm chất cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân mình. Về mặt này Hồ Chí Minh đã tổng kết: “biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lí luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến cách mạng, mà trái lại nó còn trở nên một thứ lửa vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng đế quốc thua.” (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Hai là, với ý chí kiên cường vô bờ bến của Đảng, sự giúp đỡ to lớn của quốc tế cộng sản đã tăng cường thêm sức mạnh để Đảng dần dần khôi phục được tổ chức. “tháng 6/1932 bản chương hành động của Trung ương lâm thời Chấp ủy Đảng cộng sản Đông Dương ra đời. Bản Chương trình hành động có giá trị như một Cương lĩnh, soi sáng các vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong thời điểm trước mắt và lâu dài. Đó còn là bản tổng  kết quan trọng về lý luận và kinh nghiệm đấu tranh của Đảng ta từ khi bước lên vũ đài chính trị.

Ba là, từ năm 1932 phong trào cách mạng của quần chúng trong cả nước với nhiều hình thức và mức độ khác nhau đã bắt đầu phục hồi với việc gây dựng lại cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng. Các cuộc đấu tranh của công nhân vẫn giữ vai trò nòng cốt của trào.

Ý kiến dưới đây của Mácxit, trùm mật thám Pháp ở Đông Dương trong báo cáo về Đảng Cộng sản Đông Dương từ tháng 10/1933 cho thấy rõ sự phục hồi của Đảng: “việc tổ chức lại Đảng Đông Dương có đủ những yếu tố cần thiết cho sự mở rộng nhanh chóng với sự thúc đẩy của những người lãnh đạo có năng lực. Có những người lãnh đạo có năng lực như thế, và chúng ta không nghi ngờ họ sẽ cố gắng hết sức để nối lại liên lạc với những tổ chức được xây dựng lại. Đảng Cộng sản Đông Dương lại có những khả năng mới về tuyên truyền và hành động mà nó chưa hề biết đến từ cuộc đàn áp năm 1931.”

Tuy nhiên, thiếu sốt của đại hội là “không nhạy cảm với tình hình mới , không thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Do vậy, Đại  hội không đề ra chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược và biện pháp phù hợp với tình hình mới”.

Tháng  7/1935, Đại hội lần thứ VII củ Quốc tế cộng sản được triệu tập ở Matxcova, Báo câos chính trị của Đimitorop nhấn mạnh phải dựa vào khối liên minh công nông, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Dưới ánh sáng của Đại hội VII, Hôi nghị ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Thượng Hải dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong đã được triệu tập (7/1936), Hội nghị bổ sung Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng tổ chức và sách lược của Đảng theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản.

Nghị quyết Hội nghị 7/1936 và các Hội nghị tiếp theo, một cao trào cách mạng mới nổi lên ở Đông Dương – cao trào đấu tranh dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng; đây là một cuộc vận động quần chúng rộng lớn và sôi nổi chưa từng thấy thời thời Pháp thống trị. Về mục tiêu, các cuộc đấu tranh đòi hòa bình, dân chủ, dân sinh. Về lực lượng quy tập được nhiều giai cấp và tầng lớp, cả nông thôn và thành thị. Hình thức đấu tranh rất phong phú: công khai và bí mật, hợp pháp và không hợp pháp, đấu tranh ngoài thành phố trong nghị trường… Thành quả cụ thể được thể hiện qua phong trào đại hội Đông Dương; đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, báo chí, văn hóa trong đó nỗi lên phong trào truyền bá chữ quốc ngữ. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân với những yêu sách thích hợp diễn ra trong phạm  vi cả nước.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp thi hành chính sách kinh tế, chính trị, quân sự thời chiến. Mâu thuẩn giữa thực dân Pháp với các dân tộc Đông Dương ngày càng trở nên gây gắt. Tháng 9/1940, đế quốc Nhật xâm chiếm Việt Nam và câu kết với thực dân Pháp để xâm chiếm nước ta. Tình hình mới đã dặt công tác dành chính quyền thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng.

Để kịp thời chuyển hướng đấu tranh, Ban chấp hành Trưng ương đã triệu tập Hội nghị lần thứ VI (11/1939), thứ VII (11/1940), và sau khi Hồ Chí Minh về nước, Người đã triệu tập và chủ trì hội nghị lần thứ VIII (5/1941).

Trong thời kì này Đảng đã có sáng tạo lớn là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu , tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức. Như vậy vấn đề cách mạng đang từng bước ở những mức độ khác nhau, nhưng trước mắt đều tập trung cho nhiệm vụ giải phong dân tộc. Những vấn đề đó được giải quyết theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đảng chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt thực hiện quyền dân tộc thống nhất rộng rãi, ở Việt Nam đó là Mặt Trận Việt Nam độ lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Các giới quần chúng được tổ chức và tập hợp thành các đoàn thể cứu quốc để đoàn kết chặc chẽ mọi lực lượng yêu nước chống Phát xít và thực dân. Về mặt nhà nước Đảng đã xác định, sau khi đánh đuổi thực dân Pháp, Nhật sẽ thành lập Việt Nam dân chủ cộng hòa. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Dưới ánh sáng các nghị quyết Trung ương, việc vận động giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ chí Minh đứng đầu diển ra sôi nổi, khẩn trương. Đảng đã xây dựng lực lượng quần chúng hùng mạnh ở cả nông thôn và thành thị, mà nòng cốt là mặt trận Việt Minh. Đảng xây dựng lực lượng vũ trang  cách mạng và căn cứ địa cách mạng, trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng. Đảng cũng tập trung lãnh đạo đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, củng cố thống nhất trong Đảng, tăng cường đội ngũ cán bộ đảng viên

Sự lãnh đạo của Đảng rất kiên quyết và kịp thời, không do dự lưng chừng để bỏ mất  thời cơ. Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy ở cả thành thị và nông thôn trong đó khởi nghĩa ở ba đô thị lớn Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố quan trọng khác giữ vai trò quan trọng. Nghệ thuật nắm giữ thời cơ và lãnh đạo của Đảng còn ở chổ khởi nghĩa dành chính quyền ở nơi đầu não của kẻ thù là Hà Nội và các trung tâm chính trị khác, trong lúc kẻ thù không kịp thời ra tay đối phó. Vì vậy, chỉ vòng trong 15 ngày, cuộc tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn, nhanh gọn, ít đỗ máu.

Với cách mạng tháng tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây nhân dân lao động làm chủ xã hội. Đây là thành quả lớn nhất mà cách mạng đã đêm lại cho nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta cũng đáng tự hòa là Đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới mới mười lăm tuổi trưởng thành Đảng cầm quyền trên toàn quốc.

Có được độc lập –  tự do – dân chủ như bản tuyên ngôn độc lập nhấn mạnh là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó chứng tỏ rằng chủ nghĩa Mác –Lênin có thể áp dụng thành công ở một nước thuộc địa.

1.2.2 Đảng lãnh đạo giữ vững, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân và kháng chiến kiến quốc thành công.

Trong khi nhân dân cả nước đang khởi nghĩa dành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại lời của Lênin:  “giành chính quyền khó,  giữ chính quyền khó hơn”.

Cách mạng tháng tám thành công được ít lâu thì thực dân Pháp lại gây chiến tranh xâm lược. Hồi đó, nước ta đang ở trong hoàn cảnh cực khó khăn sau nạn đói khủng khiếp do đế quốc Pháp và phát xít Nhật gây ra, nhân dân ta chưa lại sức, 95% dân ta bị mù chữ. Nhiều loại kẻ thù ngoại xâm liên kết với bọn phản động trong nước với số lượng hàng chục vạn tên cùng chung mục đích đánh đổ chính quyền cách mạng . Nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn xơ xác. Quân đội thì nhỏ bé ít kinh nghiệm  và thiếu mọi thứ. Chính quyền cách mạng đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy vậy, Đảng chủ trương kiên quyết bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, chuẩn bị lực lượng kháng chiến, vừa ra sức bồi dưỡng mọi mặt của nhân dân, và vừa lãnh đạo đánh giặc. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Theo tinh thần chỉ thị kháng chiến kiến quốc và nhiều chỉ thị quan trọng khác, Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước dành thắng lợi nhiều nhiệm vụ quan trọng về chính trị, quốc phòng, kinh tế – tài chính, văn hóa, giáo dục, ngoại giao… Thành công của Đảng là ở chỗ biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, triệt để lợi dụng mâu thuẩn trong nội bộ kẻ thù, nhân nhượng có nguyên tắc. Đảng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Trên cơ sở đó, Đảng đã lãnh đạo đấu tranh giữ vững được chính quyền cách mạng, đẩy mạnh kháng chiến ở miền Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược trên quy mô cả  nước.

Khi chính phủ pháp phản bội những hiệp ước đã kí với ta và gây ra cuộc chiến tranh xâm lược trên phạm vi cả nước thì Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu quyết tâm: “chúng ta thà hi sinh tất cả , chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Trong chín năm kháng chiến, bắt đầu từ lời kêu gọi kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh, từng bước Đảng hoàn thiện đường lối kháng chiến. Ngày 22/12/1946 Ban thường vụ Trưng ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Tháng 9/1947, với cương vị tổng bí thư Đảng, đồng chí Trường Chinh xuất bản tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi. Vào đầu năm 1951, đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp (từ ngày 11-19/2 tại Tuyên Quang). Đến đây, đường lối kháng chiến cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến làm cho  người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.

Khi kẻ thù buộc ta phải cầm súng, Đảng và Hồ Chí Minh đã phát động kháng chiến đúng lúc, định ra được những quan điểm cơ bản trong đường lối kháng chiến. Quá trình hoạch định đường lối và chỉ đạo kháng chiến, Đảng luôn giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, gắn cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với việc bảo vệ hòa bình thế giới; gắn nhiệm vụ đưa kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn với con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh khẳng định: “lần đầu trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dânViệt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Một lần nũa chủ nghĩa Mac – Lênin đã soi sáng cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam kháng chiến cứu quốc thành công, giữ gìn thành quả cách mạng của mình”. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

1.2.3 Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Từ ngày hòa bình được lập trên miền Bắc, Việt Nam đứng trước một tình hình mới: đất nước tạm thời chia làm hai miền. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thống trị. Đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ, hùng mạnh,có âm mưu làm bá chủ thế giới. Đối với nước ta, chúng có âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự để mở rộng chiến tranh ra cả khu vực. Chúng khủng bố một cách cực kì dã man những người yêu nước Việt Nam. Chúng trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevo, cự tuyệt hiệp thương để bàn việc tổng tuyển cử tự do và hòa bình thống nhất đất nước Việt Nam.

Lại một lần nữa, lịch sử và dân tộc đòi hỏi Đảng phải phát huy trí tuệ và bản lĩnh cách mạng, huy động các bài học kinh nghiệm thành công trước đây để xây dựng đường lối chiến lược mới. Trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, dám chịu trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, điều quan trọng là giữ vững tinh thần độc lập tự chủ trong xác định đường lối chiến lược của cách mạng từng miền cũng như cách mạng cả nước.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “đại hội lần thứ III (9/1960) là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.

Nội dung đường lối chiến lược cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẻ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân ở miền nam. Cuộc cách mạng ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền nam ra khỏi ách thống trị đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Trí tuệ và bản lĩnh của Đảng được thể hiện trong giai đoạn này là ở chỗ “Đảng tìm ra lời giải đúng đắn nhất cho bài toán khó khăn chừng nan giải trong bối cảnh trong nước và quốc tế vô cùng phức tạp do phải đương đầu trực tiếp với đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ thế giới lúc đó đang nắm trong tay ưu thế vũ khí và dựa vào ưu thế đó để hù dọa thế giới”.

Nhờ có sự sáng tạo trong việc nắm vững và kết hợp đúng đắn về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam đã thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Nói tới sự lãnh đạo của Đảng là nói tới đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo, kết tinh trí tuệ và bản lĩnh của một đảng trải qua bốn lăm năn từ lúc ra đời, đã được tôi luyện và tôi thành qua nhiều cuộc tổng diển tập. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã quy tụ sức mạnh của nhân dân và lực lượng vũ trang cả nước; khơi dậy được sức mạnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, sự đoàn kết liên minh chiến đấu  của nhân dân ba nước Đông Dương, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.

Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ, Đảng ta xác định: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miên Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.

Theo tinh thần đó, Đảng ta đã lãnh đạo thực  hiện khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa, thực hiện kế hoạch năm năm thứ nhất, chuyển hướng xây dựng kinh tế khi đế quốc Mỹ chiến tranh phá hoại.

1.2.4 Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước và bảo vệ Tổ quốc

Sau đại thắng 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lộ trình đã được Đảng xác định ngay khi Đảng ra đời và  trở thành đường lối chiến lược nhất quán không hề thay đổi. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Nhìn chung bước vào giai đoạn mới chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản, song cũng gặp rất nhiều khó khăn chồng chất, về mặt nào đó còn đáng lo ngại hơn các thời kỳ trước. Trước hết phải thấy “đặc điểm to  hất của ta trong thời quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu, vốn là thuộc địa kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, trãi qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá… tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, vẫn tiếp tục chi phối. Tình hình thế giới diển biến khôn lường. Vào những năm cuối thập niên 80 trở đi, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và đi tới thoái trào. Điều đó tác động tiêu cực tới phong trào cách mạng bằng nhiều thủ đoạn thâm đoạn thâm độc hòng thủ tiêu toàn bộ chủ nghĩa xã hội. Tình hình đó đặt cho Đảng ta nhiều vấn đề cần được xem xét suy nghĩ một cách nghiêm túc. Vấn đề đối Đảng và dân tộc ta sau khi tổ quốc độc lập, thống nhất không phải là lựa chọn con đường khác, mà vẫn kiên trì kiên định và trung thành với con đường tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa – con đường đã được lịch sử lựa chọn từ năm 1920 và thực tiễn cách mạng Việt Nam qua 45 năm từ khi Đảng ra đời chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng điều mà Đảng trăn trở theo di huấn của Hồ Chí Minh là: “Nếu độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng bao giờ có ý nghĩa lý gi?”. Chúng ta tranh được tự do, dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Một trong những nỗi bận tâm của Hồ Chí Minh lúc sinh thời là: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bốc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm trọn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Điều cần ghi nhận trong 10 năm đầu sau ngày miền hội Nam hoàn toàn giải phóng, tuy vẫn đi theo mô hình kinh tế cũ với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sớm phá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa – và do vậy thành tựu kinh tế chưa nổi bật, nhưng đây là thời kỳ “ló cái khôn”. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo từ những ngày cách mạng, kháng chiến lại được Đảng phát huy trong sự nghiệp kinh tế, xây dựng đất nước.

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ghi nhận hội nghị lần thứ VI (khóa VI) tháng 8/1979 với chính sách làm cho sản xuất “bung ra” chống tập trung quan liêu, chú trọng lợi ích nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động, lấy năng suất lao động, sự phát triển của sản xuất và cải thiện đời sống  nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng đắn của chính sách – đánh dấu mốc mở đầu cho quá trình đổi mới của Đảng.

Từ 1986 đến nay, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới.

Như trên đã trình bày, đến năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh tế xã hội nước ta đi dần vào một cuộc khủng hoảng và mặc dù Đảng đã có nhiều nổ lực, cố gắng, nhưng đất nước chưa tiến xa được bao nhiêu. Từ giữa thập kỷ 80 trở đi, nền kinh tế – xã hội nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

Thực tiễn đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta là phải đổi mới mạnh mẽ. Trở lại lịch sử cách mạng từ khi có Đảng, một bài học lớn được rút  ra là: đổi mới, sáng tạo trên tinh thần độc lập, tự chủ thì cách mạng thắng lợi. Dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự đánh giá khách quan, chính xác thực trạng đất nước, nhận ra cái sai để sửa, chính là động lực cho sự phát triển. Đó là chân lý, là cuộc sống. Bác Hồ đã viết ra từ năm 1947: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.

Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn, tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi”. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Đảng đã hoàn toàn đúng khi trong quá trình thực hiện đổi mới đã đứng vững trên nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Về vấn đề này – trên cơ sở nhận thức bước đầu bước đầu từ thập kỹ năm mươi – đến Đại hộiVI (12//1986), Đảng ta khẳng định: “muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa di sản đáng quý về tư tưởng và lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Với quyết tâm đổi mới tổ chức lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học, trên cơ sở đánh giá đúng mức thành tựu, đồng thời nhìn thẳng vào sự thật, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm tức tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, Đảng có ý thức rút ra những bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng trong từng nhiệm kỳ Đại hội mà một trong những bài học quan trọng nhất là “đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”.

Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đến nay, xuất phát từ việc tổng kết thực tiễn Việt Nam và thế giới, nghiên cứu lý luận, trung thành với việc học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa tinh hoa dân tộc tiếp thu trí tuệ của thời đại, bám sát vào thực tiễn và dựa vào dân, Đảng đã từng bước thực hoàn thiện đường lối đổi mới. Tính đúng đắn của đường lối thể hiện ở chổ từng bước Đảng tìm ra được lộ trình của cách mạng  Việt Nam,  phản ánh quy luật khách quan của sự phát triển đất nước.

Đường lối đúng không chỉ thể hiện một đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức đúng đắn mà điều quan trọng là đường lối đó đã huy động được quần chúng nhân dân đông đảo với một sự chân thành, tự giác thật sự “dân tin, dân phục, dân yêu” dân đi tận cùng sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Và cuối cùng phải được nhìn nhận bằng nhiều thành tựu cụ thể theo nguyên lí thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Đại hội IX của Đảng ghi nhận cho đến năm 2000 chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng; kinh tế tăng trưởng; văn hóa – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh tăng cường. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.

Tuy nhiên, Đại hội cũng thẳng thắng chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa – xã hội bức xúc và gây gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình hình tham nhũng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán  bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.

Gần đây, đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ IX ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã được tiến hành từ ngày 5 – 12/1/2004 tại thủ đô Hà Nội, Hội nghị lần này có nhiệm vụ quan trọng đặc biệt kiểm điểm nữa nhiệm  nữa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những việc làm được và chưa làm được, phân tích rõ nguyên nhân. Hội nghị khẳng định những thành tựu là  “kết quả phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, trong đó có vai trò quan trọng của sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương”.

Nhìn nhận như vậy để thấy rằng trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi thành tựu và hạn chế của sự nghiệp cách mạng đều liên quan tới sự lãnh đạo của Đảng.Theo tinh thần và tư tưởng của Hồ Chí Minh, lúc nào Đảng ta giữ vững được “đạo đức và văn minh” thì sẽ thực hiện được “thống nhất, độc lập, hòa bình, ấm no”. Khi nào chúng ta không làm đúng lời dạy của Người, thì sẽ gặp khó khăn, hạn chế sự phát triển.

Chương 2. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

2.1. Đảng với công cuộc đổi mới ở nước (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng dân tộc dân chủ, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội theo  mô hình kế hoạch hóa tập trung. Trong buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là cả nước có chiến tranh, mô hình kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành cách mạng dân chủ trong cả nước, đất nước thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, những hạn chế của mô hình đó dần dần được bộc lộ, Đảng và nhà nước ta đã đề ra chủ trương, biện pháp để khắc phục như nghị quyết Trung ương sáu cho sản xuất bung ra, chỉ  thị 100 của Trung ương Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp,… Những giải pháp đó tuy có tác dụng tích cực nhất định, nhưng vẫn không giải quyết được tình hình. Đất nước đã rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Vào lúc đó, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đang rơi vào khủng hoảng kinh tế – chính trị. Trong bối cảnh lịch sử đó, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới, chuyển từ mô hình kế hoạch tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đường lối đổi mới của Đảng ta đề ra tại Đại hội lần thứ VI đánh dấu một bước chuyển biến có tính cách mạng trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộiở nước ta. Đổi mới, theo quan điểm của đảng ta, không phải là thay đổi mục tiêu xã hội, mà trên cơ sở chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ điều kiện của đất nước và từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ bài học thực tiễn để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Đường lối đổi mới của Đảng được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta đã nêu ra mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sáu dặc trưng cơ bản:

  • – “ Do nhân  dân lao động làm chủ.
  • – Có một nền kinh tế phát triên cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)
  • – Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
  • – Con người được giải phóng khỏi áp bức, bốc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
  • – Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
  • – Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.

Đường lối đổi mới của Đảng bắt nguồn từ những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ những tìm sáng tạo của quần chúng, từ những bài học kinh nghiệm vận dụng chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí  Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đó là cơ sở để Đảng ta định ra đổi mới một cách đúng đắn.

Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nước ta

Công cuộc đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế  – xã hội; kinh tế tăng trưởng khá nhanh; văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; tình hình chính trị – xã hội về cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế tiến hành chủ động và đạt kết quả. Đường lối đó dựa trên những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, đảng lối đổi mới của đảng ta luôn luôn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề có tính chiến lược trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đó là con đường vừa đảm bảo giải phóng dân tộc, vừ giải phóng con người khỏi áp bức bốc lột, bất công.

Thứ hai, đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn xuất phát từ dân, dựa vào dân , phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ich của nhân dân”. Chính đường lối đó đã phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân, lực lượng quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng do đảng lãnh đạo. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Thứ ba, đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn dự trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Đường lối đó hoàn toàn phù hợp với đất nước trong thời đại ngày nay, nó cho phép kết hợp được sức mạnh của toàn dân và sức mạnh của thời đại trong công cuộc đổi mới.

Thứ tư, đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn đảm bảo đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó, đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới về chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội. Điều đó đã phản ánh một cách đúng đắn mối quan hệ giữa các mặt đời sống và xã hội trong quá trình đổi mới; nó đảm bảo công cuộc đổi mới giành được thắng lợi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội.

Thứ năm, trên cơ sở xác định đúng mục đích mục tiêu, đường lối đổi mới của đảng luôn luôn có chú  ý lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp. Đảng luôn luôn chúng lại hai khuynh hướng: khuynh hướng bảo thủ, trì truệ, chậm đổi mới và khuynh hướng nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đây là sự thể hiện tài tình việc kết hợp giữa bản lĩnh chính trị và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của đảng ta.

Đó là những nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho Đảng ta xây dựng Đảng mới một cách đúng đắn, đảm bảo công cuộc đổi mới đi đến thành công.

 2.2 Đánh giá đúng thực trạng đất nước, nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

2.2.1 Đánh giá đúng thực trạng đất nước.

Lênin đã tưng nói: “Mục đích của con người là do thế giới quan sinh ra, lấy thế giới khách quan làm tiền đề”. Vì vậy, những người cộng sản khi hoạch định đường lối phải hết sức  khách quan  trong đánh giá tình hình, phải tính đến mọi lực lượng, mọi giai cấp và tính đến cả kinh nghiệm các phong trào cách mạng. Theo người: “Đối với một chính đảng vô sản, không có sai lầm nào nguy hiểm hơn là định sách lược của mình theo ý muốn chủ quan… Định ra sách lược vô sản trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược bị thất bại”.  Nhất quán với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “khi đặt kế hoạch phải nhìn từ xa. Có nhìn từ xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc là chính. Phải thấy rộng. Có thấy thấy rộng mới sắp đặt các nghành hoạt động một cách cân đối” vì vậy: chúng ta phải nâng sự tu  dưỡng về chủ nghĩa Mac – lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp Mác – Lênin mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm ở nước ta.

Như vậy, lý luận Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đều khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc đánh giá đúng thực trạng đất nước khi hoạch định đường lối. Tuy nhiên, đó là công việc khó khăn và vô cùng phức tạp. Lúc tình hình phát triển bình thường, việc đánh giá đúng thực trạng đất nước đã là khó, khi tình thế thế giới có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp, công việc đó lại càng khó khăn hơn. Thực tế cho thấy, không phải Đảng nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có những nhận định, đánh giá đúng đắn về thực trạng đất nước. Nhận định, đánh giá đúng sẽ đề ra được những chủ trương, phương hướng hành động đúng, cách mạng sẽ giành thắng lợi. Ngược lại, nhận định, đánh giá sai sẽ không thể có được chủ trương, phương hướng hành động đúng, khi đó cách mạng sẽ không sao tránh khỏi những khó khăn tổn thất, thậm chí thất bại. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Nhìn lại lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa trước đây chúng ta thấy rằng, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hầu như các nước nào cũng phạm phải sai lầm chủ quan, duy ý chí, muốn đi theo đường thẳng, đi nhanh, không tính toán đầy đủ đến những điều kiện thực tế và quy luật khách quan. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu khiến hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội ngày càng trầm trọng, bắt đầu từ cuối những năm70 của thế kỷ XX.

Điều đáng chú ý là mặc dù khủng hoảng kinh tế – xã hội đã từng xảy ra và kéo dài trong nhiều năm, diển biến hết sức phức tạp, nhưng bản thân của Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa thời đó vẫn không có được nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Khủng hoảng vẫn chỉ  được coi như bệnh kinh niên, là bạn đường của chủ nghĩa tư bản; còn chủ nghĩa xã hội với bản chất ưu Việt của nó thì không thể có khủng hoảng. Chính lối tư duy bảo thủ, giáo điều đó đã kiềm hãm mọi nổ lực sáng tạo, triệt tiêu nhiều động lực phát triển và vì thế, các Đảng Cộng sản đã không có những chủ trương, biện pháp để ứng phó kịp thời với tình trạng khủng  hoảng kinh tế – xã hội. Phải đến những năm nữa cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, khi mà khủng hoảng kinh tế – xã hội đã phát triển tiến mức trầm trọng, có nguy cơ đe dọa sự sống còn của các Đảng Cộng sản và của chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa mới thừa nhận có khủng hoảng.

Phát hiện ra khủng hoảng và thừa nhận có khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa tuy muộn nhưng dẫu sao cũng là một dấu tích cực của Đảng Cộng sản khi đánh giá về thực trạng của đất nước. Song, điều quan trọng có ý nghĩa chính là thái độ, bản lĩnh của Đảng Cộng sản khi nhìn nhận, đánh giá về khủng hoảng như thế nào, phương pháp xử lí, và khắc phục ra sao. Lênin đã từng nói: “thái độ của một chính Đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc hay không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những sai lầm , phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sữa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu một Đảng  nghiêm túc, đó là Đảng làm tròn những nhiệm vụ mình”.

Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mac – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, dân tộc và đất nước, Đại hội lần thứ VI đã khẳng định: “Thái độ của đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Với quan điểm đó, Đại hội cho rằng, 5 năm qua (1981 – 1986) là đoạn đường đầy thử thách đối với cách mạng nước ta. Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội V của đảng đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn  đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đạt được những thành tựu trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã dành được những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh – chính trị và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Những thắng lợi và thành tựu đó đã  tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Cùng với việc đánh giá đúng mức những thành tựu và thắng lợi dã đạt được, Đại hội đã chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế – xã hội. Mặc dù lúc đó có cụm từ “khủng hoảng kinh tế – xã hội” chưa được dùng trong văn kiện, nhưng đại hội đã phân tích chỉ rõ những biểu hiện của tình trạng đó: sản xuất tăng trưởng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, năng xuất lao động giảm và chất lượng sản phẩm kém; phân phối lưu thông luôn trong tình trạng rối ren, căng thẳng lạm phát tăng, bội chi ngân sách lớn; nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng; đời sống của nhân dân rất khó khăn; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển…

Thực trạng kinh tế – xã hội nói trên đã từng diển ra trong nhiều năm, Đảng ta cũng nhiều lần kiểm điểm, đánh giá tìm nguyên nhân. Nhưng khác với các đại hội trước, Đại hội VI không đi sâu trình bày, phân tích những nguyên nhân khách quan, cho dù đó là những khó khăn rất lớn như Đại hội khẳng định mà  “điều quan trong là phân tích sâu sắc những nguyên nhân chủ quan, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của Đảng và nhà nước”. Đồng thời khi phân tích những sai lầm khuyết điểm, Đảng ta đã không đơn giản một chiều, mà phân tích cụ thể, xác định mức độ, tính chất và chỉ ra đúng nguồn gốc nảy sinh sai lầm, khuyết điểm.

Theo tinh thần đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Đó là: sai lầm trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu bước đi; trong bố trí cơ cấu kinh tế; trong cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lí kinh tế; sai lầm trong việc giải quyết vấn đề phân phối lưu thông; còn buông lỏng chuyên chính vô sản. Những sai lầm khuyết điểm đó liên quan chặt chẽ, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Đó là những sai lầm đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội.

Về tính chất, mức độ và khuynh hướng tư tưởng của những sai lầm, đại hội cho rằng, đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng  chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; là khuynh hướng buông lỏng trong kinh tế – xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa “hữu” khuynh.

Đại hội chỉ rõ: “Những sai lầm và khuyết điểm trong kinh tế, xã hội , bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư và hội đồng Bộ trưởng đã nghiêm túc tự phê bình về những khuyết điểm đó của mình. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Việc tự phê bình với một thái độ nghiêm túc ở Đại hội VI thực sự là một mẫu mực của tính đảng, việc quán triệt tinh thần đổi mới trước hết ở bộ phận lãnh đạo câo nhất của đảng, mở ra một thời kỳ đổi mới mạnh mẽ từ đó về sau.

Từ sự phân tích khách quan, khoa học thực tiễn cahs mạng nước ta sau 10 năm quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã rút ra bốn bài học lớn: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thắt chặt mối quan hệ của đảng với quần chúng; hai là, đảng phải luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan ; ba là, phải xây dựng đảng ngang tầm với thời đại; bốn là, xây dựng đảng ngang tầm với chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Những câu chữ nêu trên thực ra không mới, nhưng bên trong lại chứa đựng một tinh thần rất mới. Nó làm cho mọi người như bình tỉnh trước tình hình thực tế đất nước. Vì thế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tiếp nhận những bài học đó với sự đồng tình, nhất trí cao. Đó là một thành công lớn, thể hiện bản lĩnh, quyết tâm và tinh thần trách nhiệm cao cả của Đảng ta trước vận mệnh của đất nước, tiền đồ của dân tộc, tương lai và hạnh phúc của nhân dân.

rên cơ sở tổng kết thực tiễn, phân tích sâu sắc những bài học của thời kỳ 1976 – 1985, đồng thời với sự đổi mới về tư duy lí luận,  Đại hội lần thứ VI đã xác định:  nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt kinh tế – xã hội, tiếp tục xây những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Ổn định tình hình kinh tế – xã hội chủ nghĩa là phải ổn định cả sản xuất và phân phối lưu thông; ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lí, lập lại trật tự kỹ cương và thực hiện công bằng xã hội. Ổn định không tách rời và đối lập với phát triển trong quá trình vận động và tiến lên; ởn định là để phát triển và có phát triển mới ổn định được.

Từ nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát  Đại hội đã xcs định những mục tiêu cụ thể về kinh tế – xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra cơ cấu hợp lí nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một mối quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Như vậy, cùng với những thành công trong đánh giá thực trang đất nước, việc xác định nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu trong những năm còn lại của chăng đường đầu tiên ở Đại hội VI cũng đã phản ánh đúng đắn những nhu cầu đòi hỏi bức xúc của xã hội Việt Nam. Vì thế, sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI chúng ta đã giành được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, đặc biệt, trên lĩnh vực sản xuất lương thực. Tiếp đó trong 5 năm  1991 – 1995, chúng ta lại hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu. Với những thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới, đặc biệt nững thành tựu lớn của kế hoạch năm năm 1991 – 1995, đất  nước ta đã râ khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là chúng ta đạt được những thành tựu đó trong bối cảnh lịch sử chuyển biến không bình thường, có những thời điểm khó khăn không thể vượt qua, song nhờ có đường lối đổi mới đúng, bước đị và cách làm phù hợp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua khó khăn thử thách và giành được những thành tựu to lớn trong thời kỳ đổi mới.

2.2.2 Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới.

Nghiên cứu thành công của Đảng cộng sản Việt Nam trong đánh giá thực trạng đất nước, xác định nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề sau đây:

– Đánh giá tình hình nói chung và thực trạng của đất nước nói riêng, đề ra nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu cho mỗi thời kỳ lịch sử là một công việc thường xuyên nhưng có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đó là công việc khó khăn và rất phức tạp, nhất là việc nhận định, đánh giá đó lại diển ra vào thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt.

– Muốn đánh giá đúng thực trạng đất nước, đề ra nhiệm vụ, mục tiêu sát hợp, vấn đề có nguyên tắc là phải dựa chắc trên nền tảng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích thực trạng đất nước với một quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển; đồng thời phải nêu cao tinh thần thực sự cầu thị, ý thức trách nhiệm lớn lao trước vận mệnh đất nước, tiền đồ của dân tộc, tương lai và hạnh phúc của nhân dân. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

– Trong bối cảnh hiện nay, những quan điểm, phương pháp đánh giá thực trạng đất nước, đề ra nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn có giá trị lớn cần phát huy.

Chương 3. Những yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới

3.1 Những điều kiện mới tác động đến yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng

3.1.1 Quốc tế

Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu làm thay đổi căn bản lực lượng trên thế giới, chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản quốc tế lâm vào thoái trào. Mỹ trở thành siêu cường quốc duy nhất và âm mưu thiết lập thế giới đơn cực nhằm áp đặt  những chính sách của mình cho toàn thế giới. Tình hình thế giới càng diển biến phức tạp sau sự kiện ngày 11- 9 2001 ở mỹ. Các hoạt động ” khủng bố” và “chống khủng bố” trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng mang tính toàn cầu. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo tiếp tục xãy ra ở nhiều nơi. Các thế lực hiếu chiến nhân danh “chống khủng bố” để tập hợp lực lượng, áp đặt chính sách, can thiệp và xâm lược vũ trang vào một số nước có chủ quyền. Mặc dù, thế giới có nhiều biến động phức tạp, song hòa bình và hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới.

Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu hóa ngày càng phát triển đã tác động mạnh mẽ tới đường lối phát triển của mỗi nước và các quan hệ quốc tế. Các nước lớn vừa đấu tranh vừa thỏa hiệp, nhưng xu thế chính trị, kinh tế, văn hóa… với nhau. Tự do hóa thương mại song phương và đa phương phát triển mạnh mẽ. Các vấn đề di cư, phân hóa giàu –  nghèo, các dịch bệnh ô nhiễm môi trường… mang tính toàn cầu nổi lên gây gắt.

Trong bối cảnh thế giới như  vậy, tất cả các nước đều phải điều chỉnh chính sách, đặc biệt là chính sách đối ngoại để phục vụ đường lối phát triển của bản thân mỗi nước. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

3.1.2 Trong nước

Qua 20 năm đổi mới, chúng ta đã thui được những thành tựu to lớn và toàn diện.  Chúng ta khẳng định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế những năm gần đây tăng trưởng khá nhanh, bình quân trong 5 năm 2001 – 2005 đạt mức kế hoạch 7,5 %, năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến năm 2005, tỷ trọng giá trị nông – ngư  – nghiệp trong GDP còn 20.9%, công  nghiệp và xây dựng 41%, dịch vụ 38,1%.  Chúng ta tích cực vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa chủ động hội nhập nhiều hơn về kinh tế khu vực và thế giới. Thông qua cuộc vận động xây dựng, chỉnh đớn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong thời kỳ mới. Chúng ta đã từng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nền ngoại giao độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa đa dạng hóa. Các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, người xói đói giảm nghèo, chăm sóc người có công với nước, phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục , y tế,… đã quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế.

Bên cạnh những thành tựu đạt được những tiến bộ sau 20 năm đổi mới, vẫn còn những yếu kém và khuyết điểm, chủ yếu là một số vấn đề sau đây:

Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt. Thất thoát, lãng phí trong quản lí kinh tế, đặc biệt trong quản lí đất đai, quản lí đầu tư xây dựng cơ bản, quản lí doanh nghiệp nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động và xây dựng chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính trong chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, pháp luật, kỹ cương không nghiêm…. Đặc biệt là điều làm cho  hân dân rất bất bình, lo lắng là tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống một số cán bộ , đảng viên đang diển ra rất nghiêm trọng và rất phổ biến. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

3.1.3 Thời cơ và thách thức

Những thành tựu rất to lớn sau 20 năm đổi mới; cách mạng khoa học công nghệ; vấn đề toàn cầu hóa; môi trường hòa bình sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu hướng tích cực trên thế giới sẽ là thời cơ lớn để chúng ta phát triển đất nước.

Đồng thời chúng ta cũng phải đối mặt với một số thách thức đặt ra. Thách thức lớn nhất là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khu vực và trên thế giới… Tình trạng quan liêu , tham nhũng và những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thực sự là thách thức lớn trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Ngoài ra còn những tiềm ẩn bất ổn về chính trị, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, “diển biến hòa bình” do các lực gây ra… đang là thách thức hàng ngày đối với chúng ta.

3.2 Những yêu cầu đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

3.2.1 Xây dựng một lí luận tiên phong dẫn đường

Muốn hoàn thành vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tộc dân việt Nam, đảng phải có lí luận tiên phong dẫn đường. Thiếu lí luận tiên phong Đảng mất vai trò chỉ đường, dẫn lối; không tập hợp và lãnh đạo được quần chúng cách mạng và tự phủ định mình trước lịch sử của dân tộc. Một trong những nhiệm vụ lí luận quan trọng trong giai đoạn hiện nay, Đảng phải xây dựng và thực hiện được con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất ngắn, để nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

3.2.2 Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh như một  giáo lý, một tín điều. Nắm vững chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nắm lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mac – Lêni, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một lập trường cách mạng triệt để, phấn đấu cho thắng lợi hoàn toàn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là quan điểm khoa học, phát hiện quy luật và làm theo quy luật. Đó là phương pháp biện chứng: thực tiễn, lịch sử – cụ thể, toàn diện, phát triển. Trong điều kiện mới, Đảng phải không ngừng vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xứng đáng là đội ngủ tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

3.2.3 Nâng cao trình độ khoa học và công nghiệp đáp ứng đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chế biến vật liệ mới… có bước phát triển nhảy vọt. Khoa học và công nghệ càng ngày trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực xã hội. Vì vậy, Đảng phải nâng cao trình độ hiểu biết về khoa học và công nghệ để xây dựng được đường lối phát triển nhanh, tận dụng mọi thời cơ để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Chúng ta phải tận dụng được thuận lợi của những người đi sau,  sử dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ để rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển ở khu vực và thế giới.

3.2.4 Từng bước làm sáng tỏ những vấn đề  lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một con đường chưa có tiền lệ. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã cố gắng vận dụng một cách sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác –  Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm kiếm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tuy  những nhận thức xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã ngày càng rõ hơn, nhưng trong qua trình đổi mới còn rất nhiều do thực tế đặt ra chưa có lời giải đáp. Chính vì vậy chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, lý luận tổng kết thực tiễn dưới sự chỉ dẫn về phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải đáp  những vấn đề do sự nghiệp đởi mới đặt ra, từng bước tiếp tục làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. (Tiểu Luận: Vai trò lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp cách mạng)

Luận văn: Kết quả nghiên cứu rủi ro thanh khoản các Ngân hàng

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website:  https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com

Post Views: 1.518

Từ khóa » Tiểu Luận Vai Trò Của đảng Cộng Sản Việt Nam Hiện Nay