Tiểu Sử Nhà Thơ Trần Tế Xương - Tài Liệu Text - 123doc

Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Thể loại khác
  4. >>
  5. Tài liệu khác
Tiểu sử nhà thơ Trần Tế Xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.28 KB, 18 trang )

Trần Tế XươngBách khoa toàn thư mở WikipediaNgôi nhà 247 phố Hàng Nâu, nơi Tú Xương sinh ra và lớn lênNhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương(陳濟昌), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cholúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng VịXuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường VịXuyên, thành phố Nam Định). Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1907.[1]•Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhậncái chết[2]. Thơ văn của Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của TúXương đến nay đã hơn 100 năm nát với cỏ cây. Nhưng sự nghiệp văn chương củaông thì vẫn như một chàng trai xinh đẹp, sung sức, bất chấp mọi thử thách thờigian.Kìa ai chín suối xương không nátCó lẽ ngàn thu tiếng vẫn cònNgười ta vẫn tin hai câu thơ này là của Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương. [3]Mục lục[ẩn]•••••••1 Hoàn cảnh lịch sử2 Cuộc sống sự nghiệp3 Gia đình4 Về văn bản tác phẩm5 Về đánh giá tác phẩm6 Chú thích7 Liên kết ngoàiHoàn cảnh lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]•Trần Tế Xương sinh ra vào ngày 5 - 9 - 1870 (tức 10 - 8 AL) tại số nhà 247 phốHàng Nâu thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõinho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần lập công lớnđược phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua). Ông nội Trần Tế Xương tênlà Trần Duy Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng làmột nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học NamĐịnh, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng. Trong tất cảcác tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú đượcngười bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ "Nhớ rõ hìnhdung..."Cùng làng, cùng phố, học cùng trườngNhớ rõ hình dung cụ Tú Xương,Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết,Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương.Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú,Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường.••••Mấy chục năm trời đà vắng bóng,Nghìn năm còn rạng dấu thư hương.[4]Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà cókhách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho béUyên một câu đối: "Đình tiền ngũ sắc hoa" (trước sân có hoa năm sắc), Uyênliền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: "Lung trung bách thanh điểu"(trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài"đời thằng bé lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng ". Ông học chữ Hán cụkép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở thành Nam.Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bithương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh nam kỳ mấttrọn cho Pháp. Tú Xương lên 3 thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn cônglần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mấtnốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyềnthống trị của Pháp trên đất Việt Nam. các phong trào kháng chiến chống Phápdiễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bốicảnh sục sôi và bi thương đó.Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chépnhầm là khoa Ất Dậu (1885)[5]Cuộc sống sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]•Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết làmột trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho "dài lưng tốn vải" như trongbài Hỏi ông trời của ông:Ta lên ta hỏi ông trời:Trời sinh ta ở trên đời biết chi?Biết chăng cũng chẳng biết gì:Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầuBiết thuốc lá, biết chè tàuCao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi•Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lươngvợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trongbài Phỗng sành:Ở phố Hàng Nâu có phỗng sànhMắt thời thao láo, mặt thời xanhVuốt râu nịnh vợ, con bu nóQuắc mắt khinh đời, cái bộ anhBài bạc kiệu cờ cao nhất xứRượu chè trai gái đủ tam khoanhThế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,Cứ việc ăn chơi chẳng học hành•Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa:Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu(1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏngthi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũngchỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đãkhá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành TrầnCao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phátcắu lên:Tế đổi làm cao mà chó thế,Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thiHội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Chonên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.•Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài (1894)thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai) bị cháy. Cụ Nhuậnlàm lại xây bằng gạch Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu, câu thơđó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này, nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai Anchiếm đoạt. Tú Xương đã phải than:Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đóiđã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó đượcin đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]Ngôi nhà số 280 phố Hàng NâuHọ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều ngườiđỗ đạt. Tú Xương nhắcChẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làngquê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sốngở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từhoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diệnnhư tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sốngcho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đivào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại. Gia đình ông Túchuyển đến nhà số 280 cùng phố mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tíchlưu niệm Tú Xương chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái.Về văn bản tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Không có di cảo.Không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sốnghoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặcmua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu.ThànhNam thuở ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynhhướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, VũCông Tự...Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tửcả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi. Vì thế thơ TúXương càng dễ bị lẫn lộn.Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng giải rắc trên tạp chí Nam Phong (cácnăm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách "Văn đàn bảo gián (quyển 3)" củaTrần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đóphần lớn đã được đăng ở Nam Phong. Từ đó,lần lượt xuất hiện những sáchchuyên đề về Tú Xương. Có 2 văn bản chữ nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ "Nam Định Vị Xuyên tútài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập" và Quốc văn tùy ký (kýhiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau:••••1 Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán 1931 (saucó tái bản), giới thiệu 174 tác phẩm gồm thơ, phú, câu đối. Mà sau này cácsách khác thừa hưởng kết quả. Nhưng chép nhầm tên ông là Trần Kế Xương.2 Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương) của TrầnThanh Mại; Trần Thanh Địch 1935 lần thứ nhất ở Huế sau tái bản nhiều lần.3 Tú Xương thi tập, do nhà sách Phúc Chí, 95 Hàng Bồ, Hà Nội 1950, giớithiệu 75 bài thơ phú4 Thân thế và thơ văn Tú Xương của Vũ Đăng Văn, Nhà xuất bản Cây Thông,Hà Nội 1951. Đính chính tên nhà thơ là Trần Tế Xương (không phải Kế) và giớithiệu 181 tác phẩm.Những sách này là từ trước 1954, sưu tầm thơ Tú Xương còn hết sức tùy tiện vàhầu như không có chú giải cần thiết. Việc khảo cứu về nhà thơ cũng chưa đượcđặt ra, nếu không kể đến cuốn Trông dòng sông Vị.•••••5 Văn thơ Trần Tế Xương Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1957. Giới thiệuchính thức 125 bài và đưa 55 bài vào phần tồn nghi.6 Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương, nhà xuất bản Nghiêncứu cục xuất bản, Bộ văn hóa Hà Nội 1957 của Trần Thanh Mại nhân dịp lầnthứ 50 ngày giỗ Tú Xương.7 Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ, nhàxuất bản Văn hóa 1961 Giới thiệu 193 bài chính thức, 17 bài tồn nghi.8 Thơ Trần Tế Xương, Ty văn hóa Nam Hà, 1970. Bài tiểu luận của XuânDiệu in lần đầu tiên ở đây, có nhiều phát hiện lý thú. Còn tác phẩm chỉ tuyểnchọn chẵn 100 bài. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ.9 Thơ văn Trần Tế Xương, nhà xuất bản Văn học, 1970 có sự tham giacủa Nguyễn Công Hoan chọn 151 tác phẩm và 22 bài tồn nghi.•••10 Thơ văn Trần Tế Xương, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1984. Cuốn nàysao gần như hoàn toàn cuốn 9.Chỉ có cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại của nhóm Nguyễn Văn Huyền(chủ biên), Đỗ Huy Vinh, Mai Anh Tuấn và người giới thiệu giáo sư: NguyễnĐình Chú, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh - 1986 là một công trìnhnghiên cứu kỹ lưỡng và công phu. Loại ra các tác phẩm không phải của tácgiả, so sánh, đối chiếu các bản đã in ở những lần xuất bản trước, chọn ra 134bài là của Tú Xương và loại ra 68 bài (có chú dẫn nguyên nhân loại ra chotừng bài một). Bài viết này lấy tư liệu chủ yếu ở cuốn sách đó.Sau này nhất là thời mở cửa việc xuất bản tràn lan không được kiểm định kỹđã lấy tư liệu ở các nguồn khác nhau kể trên, điều đó cũng giải thích tại saocác Blog lại đưa ra các tư liệu khác nhau về Tú Xương.Về đánh giá tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định (gần tượng đài Trần Quốc Tuấn)Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợphài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc.Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơNôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứtuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra làmột nghệ sĩ bậc thầy.•••••Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữXuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ XuânHương và Đoàn Thị ĐiểmTản Đà khi còn sống "trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương" (XuânDiệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình "mới địch nổi Tú Xươngmột lần thôi bằng chữ vèo trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông:Vèo trônglá rụng đầy sân. Nguyễn công Hoan cũng kể vậy.Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiềucông đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc ViệtNamVới Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam: TúXương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương. Có lúc đổithành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ xương với nghĩa "thịnh vượng" (còncó nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ "Đức giả xương" (người có đức,thịnh vậy). Không phải là xương theo nghĩa xương thịt. Nhưng người đời sau,mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "xuyên tạc", gắncho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổsư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc vàthêm "chi phái": Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinhdự thay cho vị tổ sư Tú Xương!Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉcó rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực của xã hội thực dân - nửa phong kiến là nhưvậy! Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánhnhững cái tốt lành, những cái thuộc về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, củanhân dân, dù có bị ẩn kín xuống nhưng vẫn không bao giờ mai một trong hoàncảnh lịch sử tang tóc đó. Thi sĩ Tú Xương biết buồn đau trước vận nước vận dân.Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phongkiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc,bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.Vịnh khoa thi HươngNhà nước ba năm mở một khoa,Trường Nam thi lẫn với trường Hà.Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. [6]Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,Váy lê quét đất, mụ đầm ra. [7]Nhân tài đất Bắc nào ai đó ?Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà !Giễu người thi đỗMột đàn thằng hỏng đứng mà trôngNó đỗ khoa này có sướng không [8]Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng ! [9]Tính trào phúng được đẩy lên mức cao khi Tú Xương vừa phản ánh cáihiện thực vừa như trả đũa lũ quan lại nhũng nhiễu bằng cách giúi đầyphân vào miệng chúng như bài:Ông còHà Nam danh giá nhất ông cò [10]Trông thấy ai ai chẳng dám ho.Hai mái trống toang đành chịu giột [11]Tám giờ chuông đánh phải nằm co [12]Người quên mất thẻ âu trời cãi [13]Chó chạy ra đường có chủ lo [14]Ngớ ngẩn đi xia may vớ được [15]Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn toĐặc biệt bài thơ có một sức khái quát lớn về cả lũ quan lại và văngmột tiếng chửi vào Hoàng Cao Khải, tên đại Việt gian cho Pháp thờiđó:Phường nhơ [16]Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ [17]Quen mắt ưa nhìn chả biết dơNào sọt, nào quang, nào bộ gắp [18]Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ [19]Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản,Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơNgán nỗi hàng phường khi cúng tế,Vẽ ông ôm đít để lên thờ [20]• Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quantâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm,nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ởnhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, TúXương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự triân.Thương vợQuanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công.Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không.Sự trân trọng, tri ân ấy còn được ông nâng lên đến mức làmhẳn một bài "Văn tế sống vợ"Văn tế sống vợCon gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợTiếng có miếng không, gặp chăng hay chớMặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mườiTrong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợGần xa nô nức, lắm gái nhiều traiSớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớÔng tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâuAnh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợThế mà:Mình bỏ mình đi, mình không chịu ởChẳng nói chẳng rằng, không than không thở.Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?Thôi thôiChết quách yên mồSống càng nặng nợChữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hayDuyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡMình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng HồTớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ• Trần Tế Xương là cây Đại bút, chữ nghĩa giản dịnhưng điêu luyện, thần tình, đôi khi tục nhưngkhông thô, phá cách nhưng đầy dụng ý, khôngchút non nớt tầm thường đúng như Xuân Diệuviết về ông:Ông nghè ông thám vô mây khóiĐứng lại văn chương một tú tàiChương 4TRẦN TẾ XƯƠNG(1871-1907)I.II.III.CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:1.Cuộc đời:2.Thời đại:3.Tác phẩm:NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:1.Thơ Tú Xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến:2.Thơ Tú Xương là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót:3.Triết lý sống của Tú Xương giữa thời buổi loạn ly của đất nước:NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:IV.1.Kết cấu:2.Ngôn ngữ và chất liệu dân gian:KẾT LUẬN:Chương 4TRẦN TẾ XƯƠNG(1871-1907)***I.CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:1.Cuộc đời:TOPTrần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích,đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại lànVị Xuyên, huyện Mỹ Lộc,Nam Ðịnh và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện.Tú Xương là một người rất thông minh, tính tình thích trào lộng. Có nhiều giai thoại kể về cá tính củaông.Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thứcTú Xương.Ông cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng cómiếng không, gặp hay chăng chớ trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sương Quanh năm buôn bán ở momsông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn chơi nhưng gia cảnh nghèo túng, việcnhà trông cậy vào một tay bà Tú.Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của TúXương.2.Thời đại:TOPCuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nước mất, nhà tan.Năm Tú Xương ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh.Năm mười bốn tuổi (1884) triều đình ký hàng ước dâng đất nước ta cho giặc.Tuổi thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến đấu của cácphong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bịthất bại thì phong trào đấu tranh chống Pháp dường như tắt hẳn.Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú Xươnglại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập, nền kinh tế tư bảnphát triển ở một nước thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đãghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình.Có thể nói, đứng trước sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cương ngũ thường của Tú Xươngkhông đậm như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Ðồ Chiểu.3. Tác phẩm:TOPTú Xương mất sớm, ông chua đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xươngđể lại có tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửacuối thế kỷ XIX.Tú Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủcác thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðường.II.NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:1.Thơ Tú Xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dânnửa phong kiến:TOPTrong thơ ông có hình bóng con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và cóhình bóng những vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xươnglà tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tượng mà ông căm ghét.1.1.Ðả kích bọn thực dân Pháp:Ðốái với thực dân Pháp, tuy chua phải là đối tượng chính để tập trung phê phán nhưng ta vẫn bắt gặpbóng dáng những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cười. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rấtnghênh ngang lố bịch (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu). Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đảkích chúng không khoang nhượng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng bútpháp trào phúng sâu sắc (Ông Cò).1.2.Ðối với bọn quan lại, tay sai:Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trước, nhưng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xương cócá tính và mang nét cảm hứng thời sự.Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốtnát (Bác Cử Nhu); chúng không khác chi những tên hề (Hát bội).Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm (Ðùa ông Phủ).Ông còn vạch trần bản chất làm tay sai của những tên quan lại lúc bấy giờ (Cô hầu gửi quan lớn).Từ đó thấy được thái độ phẫn uất của Tú Xương trước thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút củamình để lên án, phê phán những con người, những hiện tượng trái tai, gai mắt.Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại, mỗi người mỗi vẻ nhưng đều rất sắc cạnh, cụ thể. Mộttên quan huyện Mình trung đâu đấy trách người trinh, một ông Aám Chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi, ông Ðốccờ bạc ăn chơi rặt một màu, ông Cử Sách như hủ nút, chữ như mù, một cô Bố Chồng chung, vợ chạ, một chúHàn thì Ðậu lạy, quan xin… và cả một xã hội lố lăng, rởm đời với quý vị phu nhân, các cậu ấm tử, sư sãi…cũng được Tú Xương tái hiện, sinh động, cụ thể:Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau.Ðôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất.Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng, đúc chuông.Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật(Khai lý lịch)1.3.Ðối với khoa cử, nho học:Trong bức tranh xã hội của Tú Xương còn có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có hìnhảnh của trường thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xương không còn tìm thấy hìnhảnh uy nghi, trang trọng của một trường thi chữ Hán xưa kia nữa mà nó đang lùi dần trước uy thế của kẻ thù.Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não (Than đạo học). Ông còn chế giễunhững người kéo nhau đi thi ở những trường lớp mới mở của thực dân (Ðổi thi).Trong buổi lễ xứng danh khoa Ðinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh về cảnh trườngthi cảnh ngao ngán của sĩ tử trước thực trạng nước mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết được săn đón Vứtbút lộng đi giắt bút chì. Ðó là hình ảnh:Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọẬm oẹ quan trường miệng thét loa.Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,Váy lê quét đất mụ đầm raCái tàn tạ của nho học được Nguyễn Bính ghi lại:Mực tàu giấy bản là đâyNước non đi hết những người áo xanhLỡ duyên bút tóc củ hànhTrường thi Nam Ðịnh biến thành trường bay.Tú Xương than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán:Nào có gì lạ cái chữ nhoÔng nghè, ông cống cũng nằm coSao bằng đi học làm ông Phán.Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò(Chữ nho)1.4. Phê phán thế lực đồng tiền:Trước Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như nừơc ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chiphối tư tưởng và hành động của con người. Ðến thời Tú Xương, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hộinhất là ở thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.Tú Xương đã mắng nhiếc cái xã hội đã hỗn loạn lên vì đồng tiền (Ðất Vị hoàng, Vị Hoàng hoài cổ)Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xương bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh:Ở phố Hàng Song thật lắm quanThành thì đen kịt, độc thì langChồng chung vợ cha kìa cô BốÐậu lại quan xin nọ chú Hàn( Phố Hàng song)Vì đồng tiền, con người lường gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợchồng, tình yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền. Bài thơ Mùng hai tết viếng cô Ký, Ðểvợ chơi nhăng đã phê phán thói đời thật đáng sợ. Ông chồng khóc vợ chết chỉ vì thương cái xe tay. Còn vợ đốivới chồng thì Trăm năm tuổi lại trăm thằngNgòi bút Tú Xương đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có nhữngcảnh khá nực cười, những cảnh chướng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương ( Năm mới,Thói đời, Chữ nho):Khăn là bác nọ lo tày rế,Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.Công đức tu hành sư có lọng,Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe.( Năm mới)Hay cảnh nực cười khác:Chí cha chí chát khua giày dép,Ðen thủi đen thui cũng lụa là.1.5 Lên án những thói hư tật xấu của thời đại:Phê phán những người hành đạo mà lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu như cảnh sư sãi vụng trộm trongchùa, sư cho vay nặng lãi, sư chứa của gian đến nỗi phải ở tù (Sư ở từ, Ông sư và mấy ả lên đồng)Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò mê tín giả dối không thể chịu được:Ðồng giỏi sao đồng không giúp nướcHay là đồng sợ súng thần công.Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết ý tứ mỉa mai trước thực trạng nước mất,nhà tan (Thói đời), vạch trần những tâm lý giả dối, sáo rỗng của con người trong ngày tết bằng lời lẽ châm biếmsắc sảo. Bài thơ Chúc tết đã chế giễu độc địa và sâu sắc:Lẵng lặng mà nghe nó chúc nhauChúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.Phen này ông quyết đi buôn cối,Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu.Nó lại chúc nhau cái sự sang!Ðứa thời mua tước đứa mua quan.Phen này ông quyết đi buôn lọng,Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.Nó lại mừng nhau cái sự giàu!Trăm ngìn vạn mớ để vào đâu?Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,Ðồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầuNó lại mừng nhau sự lắm conSinh năm đẻ bảy được vuông tròn.Phố phường chật hẹp người đông đúc,Bồng bế nhau lên nó ở non.2. Thơ Tú Xương là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót:2.1. Nỗi đau xót về bản thân và thời cuộc:TOP- Về bản thân:Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cười cợt, còn tự nghĩcách để an ủi mình. Nhưng các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xương ngàycàng đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú:Học đã sôi cơm nhưng chữa chín.Thi không ăn ớt thế mà cayÐến khoa thi cuối ( 1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi thiết hơn nhiều:Bụng buồn còn biết nói năng chiÐệ nhất buồn là cái hỏng thiMột việc văn chương thôi cũng nhảmTrăm năm thân thế chẳng ra gì( Buồn thi hỏng)Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhưng Tú Xương vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độkhôi hài, lúc nào nụ cười trào phúng cũng đến với ông. Qua những lời tự trào, tư thú về mình càng thấy rõ conngười và tính cách Tú Xương:Tú Xương tự khoe về sự ăn chơi của mình:Nghiện chèm nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng.Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản anh,Ra phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Ðịnh bóng . . .( Phú hòng thi)Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi thiết( Mùa nực mặc áo bông) Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên:Van nợ lắm khi trào nước mắtChạy ăn từng bữa toát mồ hôi( Than nghèo)Trong hoàn cảnh nào, Tú Xương vẫn cười cợt, châm biếm, nói ngông. Vì nghèo quá, ông đã tính đếnchuyện đi tu nhưng không phải tu vì đạo lý mà tu vì tấm áo (Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gaiđình trong ngày tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông đâm ra chánchường tuyệt vọng:Ngủ quách sự đời thây đứa thức.Bên chùa chú trọc đã khua chuông.( Ðêm hè)Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể cười cợt, vẫn bông đùa:Anh em đừng tưởng tết tôi nghèoTiền bạc trong kho chữa lĩnh tiêuÐúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái nghịch lý này đã hình thành nêntính cách của Tú Xương.2.2. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước:- Tình cảm của Tú Xương đối với nhân dân:Ðối với người nghèo như những người học trò, những người nông dân chân lắm tay bùn (Thề với ănxin) . . . những dòng thơ của Tú Xương chứa chan tình cảm và đầy lòng ưu ái (Ðại hạn)Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xương càng thể hiện rõ hơn:Ỳ ào tiếng học nghe không rõMát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâuÔng lão nhà quê tan tản dậy,Bảo con đem đó, chớ đem gầu . . .Ðối với người phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thương, họ không những khổ sở về vật chất màcòn bị đau đớn về mặt tinh thần Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xương viết về vợ:Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồngLặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đôngMột duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản côngCha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không.Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước thường triền miên, day dứt:Nhân tài đất Bắc nào ai đó?Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà( Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh dậu)Nhà thơ thường thao thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tư và thấy được cái heo hút Vắng lặng của đêmtrường:Ðêm sao đêm mãi tối mò mò,Ðêm đến bao giờ mới sáng cho.Ðàn trẻ u ơ chừng muốn dậy,Ông già thúng thắng vẫn đang ho.Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé,Tiếng chó kinh người cắn vẫn to.Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa,Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.( Ðêm dài)Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình:Kìa cái đêm nay mới gọi đêmMắt giương không ngủ bũng không thèmTình này ai thấu cho ta nhỉTâm sự năm canh một bóng đèn.Ðiểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Ðó là tình cảm của ông đối với quê hươngđất nước.Nỗi đau khi nhìn thấy đất nước đổi thay mà bản thân ông thì không làm gì thay đổi thời cuộc ( Sônglấp). Bài thơ chứng tỏ Tú Xương vẫn là người nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâmra bối rối, lạc lõng, mất phương hướng trước bao biến đổi của thời cuộc:Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt,Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơÐường đất xa khơi ai mách bảo?Biết đâu mà ngóng dến bao giờ?( Lạc đường)Lòng yêu nước của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xương đối với những người có tài,có đức ra cứu đời, giúp nước:Vá trời gặp hội mây năm vẻLấp bể ra công đất một hòn( Gửi cụ thủ khoa Phan)Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh như bao nghĩa sĩ yêu nước khác nhưng ông có cảmtình nồng hậu đối với những người làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với TúXương bằng tất cả sự kính mến, khâm phục.3. Triết lý sống của Tú Xương giữa thời buổi loạn ly của đất nước:TOPTriết lý sống của Tú Xương đặc biệt không giống ai giữa thời buổi loạn ly. Ông sống giả câm, giả điếc,làm ngơ trước dư luận. Sống như ông phải có kiểu cách riêng, giống như hình ảnh của chú Mán ở Nam Ðịnh:Khi để chỏm, lúc cạo đầuNghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa taChẳng đội nón chịu màu da dãi nắng,Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời,Chốn quyền môn lòn cúi mặc ai,Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết.( Chú Mán)Thái độ sống khác của Tú Xương có phải chăng là thái độ chống đối của nhà thơ trước thời cuộc? Ôngkhông muốn hòa vào cuộc sống ngột ngạt không lối thoát này, không muốn hợp tác với cái văn minh trong thờikỳ nước mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi người đang tìm cách chen chân vào thì Tú Xương tách khỏinó. Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do, không chịu cúi lòn làm nô lệ.Triết lý sống của Tú Xương nếu đem đặt bên cạnh triết lý sống của các nhà chiến sĩ yêu nước là xả thânvì nước lúc bấy giờ thì triết lý sống của Tú Xương có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng nói chung, triết lý sống củaông đã phần nào phản ảnh được tâm trạng của lớp người sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc cũngkhông cầm vũ khí chống giặc.III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:1.Kết cấu:TOP1.1.Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú.Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Tú Xương sử dụngtiếng cười làm vũ khí. Ở Tú Xương không có cái nhàn nhạt, cái lưng chừng, cười là cười phá, chửi là chửi độc,chua chát đến ứa mật, ứa máu.Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục .. . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xương đã quàngvào cổ ông Hàn nọ ( Vốn làm nghề nấu rượu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn:Hàn lâm tu soạn kém gì ai?Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai( Ðưa ông hàn)Cái tài tình của Tú Xương là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nóithẳng thừng, táo bạo và hài hước của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem có khi ở câuđầu:Lúc túng toan lên bán cả trờiTrời rằng thằng bé nó hay chơi( Tự cười mình)Có khi ở cuối câu:Cụ Xứ có cô con gái đẹpLăm le xin bố cưới làm chồng( Ði thi nói ngông)Có khi mượn lối chơi chữ:Ấm không ra ấm, ấm ra nồiẤm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi( Bỡn ông ấm Ðiềm)Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà hạ một ý thật lạ lùng:Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo,Dây vũ dây văn vụng ngón đàn( Thông gia với quan)Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tượng là anh chồng ngu”:Thọ kia mày có biết hay chăngCon vợ mày kia xiết nói năngVợ đẹp của người không giữ đượcChồng ngu mượn đứa để chơi nhăngNhưng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt:Ra đường đáng giá người trinh thụcTrong bụng sao mà những gió trăng,Mới biết hồng nhan là thế thế,Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng.Có thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trước hết vì tiếngcười của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cười trào phúng của TúXương rất chắc, hiệu quả cao.1.2.Thơ trữ tình của Tú Xương:Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng.Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . .thể hiện cái sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhưng rất đáng quý, đã hìnhthành nên tính cách Tú Xương.Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại:Em gửi cho anh mãnh lụa đàoKhông biết rằng em bán thế nào( Tặng người quen)Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xương tuy không phong phú và đa dạng như thơ trào phúng nhưng cũng rất sâusắc và đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thựcnhư bản thân đời sống . Hình ảnh bà Tú được tái hiện bằng những nét rất thực:Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông.( Thương vợ)Bài thơ Nhớ bạn phương trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc trữ tình của nhà thơ đốivới nhà cách mạng Phan Bội Châu.Ta nhớ người xa cách núi sông,Người xa, xa lắm nhớ ta không?Sao đang vui vẻ ra buồn bãVừa mới quen nhau đã lạ lùngLúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởngKhi riêng riêng đến cả tình chungTương tư lọ phải là trai gái,Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.1.3.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình:Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng như trongtính tình đã đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định:Việc bác không xong tôi chết ngay!Chết ngay? Như thế vội vàng thay!( Bỡn người làm mối)Hỏi lão đâu ta?- Lão ở LiêmTrông ra bóng dáng đã hom hem( Già chơi trống bỏi)Người đói ta đây cũng chẳng no,Cha thằng nào có tiếc không cho( Thề với ăn xin)Rất nhiều bài thơ của Tú Xương có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thihương năm Ðinh Dậu, Thương vợ, Thề với ăn xin . . .)Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơTú Xương không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãngmạn, là vì thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình2.Ngôn ngữ và chất liệu dân gian:TOP2.1.Ngôn ngữ:2.2.Tú Xương là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh. Ngôn ngữ giản dị, chính xác, uyểnchuyển, gợi hình và có tính chất dân gian ( Ði hát mất ô) được xem là bài duyên dáng, hóm hĩnh, độc đáo củaTú Xương vì ông đã thể hiện được cái thần của bài thơ.Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tươi mát, tự nhiên mà vẫn thanh nhã, óng chuốt. Mấy câu sau đây như lờinói ở cửa miệng, không thêm bớt mà rất chân thành:Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà,Trước nhà có miếu, có cây đaCửa hè sân ngõ chừng ba thước,Nửa tá tre pheo đủ một tòa . . .( Ông ấm Ðiềm)Hoặc đây là cách nói ngang tàng nhưng rất tự nhiên:Gái tơ đi lấy làm hai họNăm mới vừa sang được một ngày( Viếng cô Ký)Hai họ là vợ hai, đối với Một ngày tức mùng một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái vỏ của phép đối mà vượtqua những ràng buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xương không những êm tai, sướng miệng mà còn rất độcđáo, có giá trị châm biếm cao.2.2.Chất liệu dân gian:Nhiều thành ngữ dân gian, ca dao đã đi vào thơ Tú Xương bằng sự sáng tạo riêng.Các thành ngữ như Học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắngmưới mưa, thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ.Vuốt râu nịnh vợ con bu nóQuắc mắt khinh đời cái bộ anh.Tú Xương rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao còn thể hiện cái tình tứ, duyên dáng, hóm hỉnh của nhàthơ.Ai ơi còn nhớ ai không?Trời mưa một mảnh áo bông che đầuNào ai có tiếc ai đâuÁo bông ai ướt khăn đầu ai khô?Người đi tam đảo, ngũ hồ.Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình.Non non, nước nước, tình tìnhVì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ( Áo bông che đầu)IV. KẾT LUẬN:Về nội dung, thơ trào phúng và trữ tình của Tú Xương có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xương là tiếngnói, là nỗi lòng của tầng lớp nho sĩ đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khíchống giặc.Về nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ tình, Tú Xương xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc, xứngđáng được Yên Ðỗ ( Nguyễn Khuyến) nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử :Kìa ai chín suối Xương không nátCó nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.

Tài liệu liên quan

  • Thơ Trần Tế Xương Thơ Trần Tế Xương
    • 8
    • 1
    • 1
  • Đề tài Đề tài " Tự trào trong thơ Trần Tế Xương " pptx
    • 5
    • 3
    • 59
  • TÌM HIỂU TIỂU SỬ NHÀ THƠ LÝ BẠCH_2 pdf TÌM HIỂU TIỂU SỬ NHÀ THƠ LÝ BẠCH_2 pdf
    • 8
    • 825
    • 1
  • TÌM HIỂU TIỂU SỬ NHÀ THƠ LÝ BẠCH_1 pptx TÌM HIỂU TIỂU SỬ NHÀ THƠ LÝ BẠCH_1 pptx
    • 8
    • 673
    • 1
  • Bình giảng bài thơ Bình giảng bài thơ "Thương vợ" - Trần Tế Xương Bài văn 2 pps
    • 6
    • 1
    • 5
  • Bình giảng bài thơ Bình giảng bài thơ "Thương vợ" - Trần Tế Xương BÀI 1 pps
    • 6
    • 924
    • 14
  • Thơ Nôm Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương và cái hài trong văn học nhà nho hậu kì trung đại Thơ Nôm Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương và cái hài trong văn học nhà nho hậu kì trung đại
    • 116
    • 835
    • 0
  • Bình giảng bài thơ thương vợ của trấn tế xương Bình giảng bài thơ thương vợ của trấn tế xương
    • 2
    • 842
    • 3
  • Phân tích tiếng cười châm biếm của Trần Tế xương qua bài thơ Năm mới chúc nhau. Phân tích tiếng cười châm biếm của Trần Tế xương qua bài thơ Năm mới chúc nhau.
    • 3
    • 2
    • 1
  • Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế xương. Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế xương.
    • 1
    • 457
    • 2

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(163.47 KB - 18 trang) - Tiểu sử nhà thơ Trần Tế Xương Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Tiểu Sử Tú Xương