Tiểu Sử Tổ Liễu Quán - Thư Viện Gia Đình Phật Tử

Fb-Button

TIỂU SỬ

TỔ LIỄU QUÁN (1667-1742)

Sơ Tổ Thiền Phái Liễu Quán

oOo

Tổ họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh vào giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (nay là xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên). Ngài xuất thân từ một gia đình nghèo khó, năm 6 tuổi mẹ mất, ở với phụ thân; năm 12 tuổi (1678) ngài phát tâm xuất gia, được thân phụ đưa đến chùa Hội Tôn thọ giáo với Hòa Thượng Tế Viên (người Trung Hoa), được 7 năm thì Hòa Thượng viên tịch.

Tuổi đời còn nhỏ, tuổi đạo chưa cao, với quyết tâm cầu đạo, Ngài không quản ngại gian lao tìm đường ra đất Thuận Hóa, đến núi Hàm Long, chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) cầu học với Giác Phong Lão Tổ (người Trung Hoa), đó là năm Canh Ngọ (1690).

Vừa tròn một năm, đến năm Tân Mùi (1691), Ngài phải bái biệt Giác Phong Lão Tổ để trở về quê hương phụng dưỡng cha già đau yếu. Hàng ngày, Ngài phải lên núi đốn củi đem về chợ đổi gạo nuôi cha, chạy thầy, lo thuốc, chăm sóc phụ thân được 4 năm thì thân phụ qua đời.

Năm Ất Hợi (1695), ngài trở ra Thuận Hóa để tiếp tục việc tu học, cũng trong năm này Ngài gài thọ Sa-di giới với Hòa Thượng Thạch Liêm (người Trung Hoa). Năm Đinh Sửu (1697), ngài thọ đại giới với Hòa Thượng Từ Lâm (người Trung Hoa).

Năm Kỷ Mão (1699), ngài bắt đầu cuộc hành trình tham vấn cầu đạo khắp các thiền lâm, trải qua biết bao sự khó khăn khổ nhọc.

Đến năm Nhâm Ngọ (1702), ngài đến núi Long Sơn, chùa Ấn Tôn (Từ Đàm) bái yết Tử Dung Hòa Thượng cầu dạy pháp tham thiền. Hòa Thượng dạy Ngài tham vấn câu: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” Ngài ngày đêm tham cứu đến bảy, tám năm mà chưa lãnh hội, trong lòng tự lấy làm hổ thẹn. Một hôm, nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thoạt nhiên Ngài được tỏ ngộ, nhưng vì núi sông cách trở, Ngài không thể đến Ngài Tử Dung để trình sở ngộ được. Mãi đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Ngài mới trở ra Long Sơn cầu Hòa Thượng Tử Dung ấn chứng. Ngài đem chỗ công phu của mình mỗi mỗi trình bày, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, Hòa Thượng liền bảo:

– Bờ thẳm buông tay, tự nhận đảm đang. Chết rồi sống lại, dối người chẳng được.

Ngài liền vỗ tay cười ha hả!

Hòa Thượng bảo:

– Chưa nhằm.

Ngài nói:

– Trái cân vốn là sắt (bình thùy nguyên thị thiết).

Hòa Thượng bảo:

– Chưa nhằm.

Hôm sau Hòa Thượng gọi Ngài đến bảo:

– Chuyện hôm qua chưa xong, nói lại xem!

Ngài thưa:

– Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.

Bấy giờ, Hòa Thượng Tử Dung mới chấp nhận và khen ngợi.

Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa Thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện(?), Ngài đem trình bài kệ Dục Phật (tắm Phật).

Hòa Thượng hỏi:

– Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhau, chẳng biết truyền trao cái gì?

Ngài thưa:

– Búp măng trên đá dài một trượng; phất tử lông rùa nặng ba cân.

Hòa Thượng nói:

– Thuyền chèo trên núi cao; ngựa đua dưới đáy bể.

Ngài đáp:

– Cây đàn không dây trọn ngày gảy; trâu đất gãy sừng rống suốt đêm.

Ngài biện tài lanh lẹ, tâm cơ ứng biến như nước với sữa rất phù hợp. Hòa Thượng rất vui mừng ấn khả.

Sau đó, Ngài Liễu Quán vào núi Thiên Thai lập am tu thiền. Hằng ngày Ngài sống khắc khổ đạm bạc bằng vật thực mọc ở ven hồ, chẳng cần lương thực gì khác.

Trú xứ hóa duyên của ngài rất rộng, Ngài thường xuyên ra vào Huế, Phú Yên để hóa đạo. Từ năm Canh Dần (1710) đến năm Tân Sửu (1721), Ngài đã chống tích trượng đi khắp nẻo làng quê của đất Phú Yên, từ hòn Mõ ra tận hòn Chuông để hoằng hóa chánh pháp, tiếp Tăng độ Chúng, khai lập chùa chiền. Ngài đã khai sơn chùa Bảo Tịnh tại Tuy Hòa.

Đến năm Nhâm Dần (1722), Ngài trở ra Huế cùng với vị đệ tử út tên là Tế Vĩ trụ tại Thiên Thai Huyền Tôn Tự tiếp tục việc hoằng hóa ở đất Thần Kinh.

Năm Quý Sửu (1733), năm Giáp Dần (1734) và năm Ất Mão (1735), Ngài được sự thỉnh cầu của Chư Tăng trong tông môn cùng các tể quan, cư sĩ ở Huế, chứng minh bốn Đại Giới Đàn tại đây.

Năm Canh Thân (1740), Ngài tấn đàn Long Hoa phóng giới cho đàn hậu tấn. Thời ấy chúa Võ Vương – Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) rất mến đạo hạnh của Ngài nên thường đến chùa Viên Thông đàm đạo và thỉnh Ngài vào cung để bàn luận Phật Pháp nhưng Ngài thường từ chối khéo không vào.

Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1740), Ngài làm Hòa Thượng Đàn Đầu cho Đại Giới Đàn tại chùa Viên Thông.

Mùa thu năm ấy, Ngài an trú ở chùa Viên Thông. Cuối mùa thu đó, Ngài bị bệnh nhẹ, gọi môn đồ đến di huấn rằng:

– Nhân duyên đã hết, ta sắp về quê xưa.

Các môn đồ đều khóc, Ngài lại dạy rằng:

– Các ngươi khóc lóc mà làm gì? Chư Phật xuất thế cũng đều nhập Niết-bàn. Ta nay đi đến đâu rõ ràng, về đã có nơi, các ngươi không nên khóc và đừng nên buồn thảm lắm.

Tháng 11, vài ngày trước khi tịch, Ngài ngồi dậy vững vàng, bảo thị giả mang giấy viết đến, tự tay cầm bút viết bài kệ rằng:

Thất thập dư niên thế giới trung Không không sắc sắc duyệt dung thông Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý Hà tất bôn man vấn Tổ Tông.

Nghĩa:

Hơn bảy mươi năm trong thế giới Không không sắc sắc thảy dung thông Sáng nay mãn nguyện về quê cũ Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông.

Sau khi viết bài kệ xong, Ngài bảo môn đồ rằng:

– Lời sau cùng lão tăng nói gì đây? Vòi vọi nguy nga, sáng lạn rực rỡ, xưa đến nay đi. Muốn hỏi việc đến đi thế nào? Trời xanh biếc lặng trong, trăng thu vằng vặc, đại thiên thế giới nhiều như cát đều hiển lộ toàn thân. Sau khi ta đi, các ngươi phải nhớ: Vô thường mau chóng, phải siêng năng tu học Bát-nhã (tham thiền), hãy tinh tấn. Chớ quên lời ta!

Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ ba, sau khi cúng ngọ và thọ trai xong, Ngài vẫn cùng ngồi uống trà và đàm đạo với các đệ tử. Bất ngờ Ngài hỏi:

– Bây giờ là giờ gì?

Đồ chúng thưa:

– Bạch Thầy, giờ Mùi.

Ngài ngồi kiết già, an nhiên thị tịch, thọ 76 tuổi. 43 hạ lạp.

Chúa Võ Vương – Nguyễn Phúc Khoát nghe tin, sắc ban bia ký và thụy hiệu cho Hòa Thượng Thiệt Diệu – Liễu Quán là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng. Lễ nhập tháp được cử hành ngày 19 tháng 2 năm Quý Hợi (1743).

Tổ Liễu Quán có hàng ngàn đệ tử xuất gia và cư sĩ, trong đó có 49 đệ tử nối truyền tông pháp.

Trước kỳ viên tịch, Ngài phú pháp cho hàng đệ tử với bài kệ truyền pháp phái như sau:

Thiệt tế đại đạo Tánh hải thanh trừng Tâm nguyên quảng nhuận Đức bổn từ phong Giới định phước tuệ Thể dụng viên thông Vĩnh siêu trí quả Mật khế thành công Truyền trì diệu lý Diễn xướng chánh tông Hành giải tương ưng Đạt ngộ chơn không.

Bài kệ truyền phái từ Tổ Liễu Quán lập thành phái thiền Liễu Quán còn truyền đến ngày nay. Tăng Ni, Tín Đồ Phật Giáo miền Trung và miền Nam hiện nay hầu hết là thuộc dòng Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán mà Ngài chính là Tổ Sư và là bậc Cao Tăng có công khai hóa hơn cả. Ngài cũng là Tổ khai sơn chùa Thiên Thai Thiền Tôn ở Huế.

Tổ Sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và linh động, có một nền móng vững chắc ở Đàng Trong (tức là từ Thanh Hóa trở vào). Trước khi Tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung Quốc (vì có các Ngài Nguyên Thiều, Thạch Liêm, Tử Dung v.v…) Chính Tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ…

Ngài có bốn vị đệ tử lớn là các Ngài Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. Bốn vị này đã tạo lập bốn trung tâm hoằng dương chánh pháp lớn khắp đó đây ở Đàng Trong, và từ thế kỷ thứ 18 trở về sau này danh xưng Thiền Phái Liễu Quán của Phật Giáo Việt Nam quả đã thật rỡ ràng, sáng lạn.

Nhục thân Tổ Liễu Quán hiện an trí tại bảo tháp ở tổ đình Thuyền Tôn, núi Thiên Thai, thuộc vùng rừng thông của làng An Cựu, huyện Hương Trà, thành phố Huế. Ngôi bảo tháp được chúa Nguyễn sắc làm bia và xây dựng kiên cố đến nay đã trải qua thời gian hơn hai thế kỷ mà vẫn giữ vẻ uy nghiêm mỹ lệ./.

Fb-Button

Bài tương tự:

  1. Tiểu sử Tổ Sư Minh Đăng Quang
  2. Tiểu sử Tổ Thanh Ninh – Tâm Tịnh
  3. Tiểu sử Tổ Khánh Hòa
  4. Tiểu sử Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Sơ Tổ dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi – Việt Nam)
  5. Tiểu sử Tổ Tuệ Tạng

Từ khóa » Tiểu Sử Tổ Sư Liễu Quán