Tìm Hiểu Chi Tiết Văn Bản: Việt Bắc - Tố Hữu | Thầy Phạm Trung Tình

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

* Lai lịch:

– Tố Hữu (1920 – 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành; quê Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

– Sinh trưởng trong gia đình nho học ở Huế và yêu văn chương.

– Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động cách mạng và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân.

– Tố Hữu đảm nhiệm nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa và trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

* Sự nghiệp sáng tác:

– Đường thơ, đường cách mạng: con đường thơ và con đường hoạt động cách mạng của ông có sự thống nhất, không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông là một chặng đường cách mạng.

+ Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946)

+ Tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954)

+ Tập thơ “Gió lộng” (1955-1961)

+ Tập thơ “Ra trận” và tập “Máu và hoa”

+ Các tập thơ còn lại: thể hiện những chiêm nghiệm về cuộc đời của tác giả

* Phong cách thơ Tố Hữu:

+ Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình – chính trị.

+ Thơ Tố Hữu thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ Thơ Tố Hữu có giọng tâm tình, ngọt ngào.

+ Thơ Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà.

⇒ Thơ Tố Hữu là tấm gương phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu, hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, cuộc sống hạnh phúc của con người.

2. Tác phẩm

a. Vị trí – giá trị:

– Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

– Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

b. Hoàn cảnh sáng tác

– Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7-1954, Hiệp định Giơ – ne – vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, một trang sử mới mở ra cho toàn dân tộc

– Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng, Chính phủ rời chiến khu Việt bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Lời người Việt Bắc và nỗi lòng của cán bộ lúc chia tay (8 câu thơ đầu)

– Bốn câu thơ đầu là lời của người Việt Bắc:

Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?

+ Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước. Hai đại từ mình – ta được lặp lại nhiều lần. Đó là cách xưng hô thân mật lấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu lứa đôi, nghe tiếng thiết tha bâng khuâng được Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt.

+ Trong bài thơ Việt Bắc, mình là người cán bộ về xuôi, ta là người Việt Bắc. Cụm từ Mười lăm năm ấy gợi nhắc câu Kiều của Nguyễn Du: Mười lăm ấy biết bao nhiêu tình. Đó là sự kế thừa thơ ca truyền thống của dân tộc của Tố Hữu.

+ Câu hỏi tu từ có nhớ ta, có nhớ không nghe da diết, nhắn nhủ, tâm tình. Lời hỏi cũng là lời nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc.

– Bốn câu thơ tiếp là lời cán bộ về xuôi:

Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi. Áo chàm từ buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

+ Ai là đại từ phiếm chỉ, chỉ người Việt Bắc.

+ Từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến, bịn rịn.

+ Hình ảnh áo chàm là nghệ thuật hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc, vì người Việt Bắc thường mặc loại áo này. Màu chàm là màu đơn sơ, chân thực, không lòe loẹt mà giản dị, chân thành, chung thủy.

+ Câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng ở cuối câu: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” thể hiện tình cảm tha thiết, mặn nồng, ấm áp. Ngôn ngữ bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động.

+ Cum từ “Biết nói gì” không phải là cả người ra đi và người ở lại không biết nói gì, không có gì để nói mà là không biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương.

=> Việt Bắc với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ dậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.

2. Lời nhắn nhủ thiết tha của Việt Bắc – người ở lại (12 câu tiếp)

– Hình thức lặp “mình đi, mình về, có nhớ” đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ tràn đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai tiếng “mình đi, mình về” được luân phiên, chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một xa dần:

Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

+ Hình ảnh ẩn dụ “mưa nguồn, suối lũ, mây mù” nhằm miêu tả thời tiết Việt Bắc thật khắc nghiệt, mưa lớn gây lũ sông suối, trời u ám đầy mây đen. Thời tiết càng khắc nghiệt, họ càng gắn bó đoàn kết để vượt qua và chiến đấu.

+ Ngoài ra, những hình ảnh đó nhằm hàm chỉ những gian khó, thử thách mà cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phải trải qua trong những năm tháng dài máu lửa.

– Nhớ về cuộc sống khó khăn, vất vả, mối thù đè nặng lên đôi vai:

Mình về có nhớ chiến khu, Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

+ Chi tiết có thực miếng cơm chấm muối nhằm phản ánh cuộc sống thiếu thốn gian khổ về vật chất nhưng họ vẫn lạc quan chiến đấu bởi người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc có chung một lý tưởng, một mối thù.

+ Cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp đang đè nặng lên đôi vai dân tộc ta.

– Tình cảm của người ở lại được dấu kín trong lòng:

Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già

+ Nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, người ở lại đã lấy nỗi buồn của rừng núi để thổ lộ thầm kín nỗi buồn của mình trong niềm vui chung đất nước được giải phóng. Việt Bắc có nỗi buồn riêng, có nỗi nhớ riêng đó là phải chia tay với cán bộ cách mạng.

+ Họ buồn đến nỗi không còn tha thiết trong lao động: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Trám măng là những nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi cán bộ đánh giặc, nay cán bộ về xuôi thì họ đi hái trám, bẻ măng để làm gì? Câu thơ gợi nỗi buồn thiếu vắng trong lòng người ở lại.

– Nỗi nhớ về bản làng nghèo khó mà thủy chung:

Mình đi có nhớ những nhà, Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

+ Cụm từ “những nhà” được nhà thơ nhắc đến ý chỉ đồng bào Việt Bắc.

+ Câu tiểu đối “hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” chứa đựng sự tương phản giữa cuộc sống nghèo khó về vật chất và phẩm chất cao đẹp của người Việt Bắc, đó là nhiệt tình và thủy chung cách mạng.

– Nhớ Việt Bắc là nhớ cội nguồn quê hương cách mạng cùng với những địa danh lịch sử:

Mình đi có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

+ Điệp từ nhớ và hình ảnh liệt kê Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa nhằm nhắc nhở người cán bộ cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn, nhớ địa điểm thành lập quân đội đầu tiên của nước ta đó là cây đa Tân Trào.

+ Nhớ đình Hồng Thái là nơi hội họp quốc dân lần đầu khai sinh ra chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

=> Đây là cuộc chia tay của những người từng sống, gắn bó suốt mười mấy năm với biết bao kỉ niệm ân tình, từng chia sẻ mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định tình cảm thủy chung và hướng về tương lai tươi sáng.

=> Chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng tình yêu đôi lứa. Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng.

3. Nỗi nhớ nhung da diết của người cán bộ về xuôi (10 câu tiếp)

– Khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến

Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

+ Cách ngắt nhịp 3/3, ta với mình/ mình với ta làm cho người đọc cảm nhận, ta với mình tuy hai mà một, gắn bó không thể tách rời.

+ Cấu trúc so sánh, tăng tiến kết hợp với từ láy mặn mà, đinh ninh nằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc bao la và sâu nặng.

+ Câu thơ gợi nhớ câu Kiều của Nguyễn Du

Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song

– Nỗi nhớ được cụ thể hóa:

Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

+ Từ mình được dùng đa nghĩa thể hiện sự sáng tạo, độc đáo trong việc bộc lộ tình cảm.

+ Từ “lại” như nhân tình cảm lên gấp đôi.

+ Nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” thể hiện cụ thể và sinh động hơn nghĩa tình sâu đậm của người cán bộ kháng chiến với quê hương Việt Bắc. Câu thơ gợi liên tưởng đến câu ca dao:

Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu

– Nỗi nhớ lại được khắc họa cụ thể:

Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy.

+ Qua hồi tưởng của cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp, vừa hiện thực lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt không nơi nào có được.

+ Nỗi nhớ Việt Bắc được tác giả so sánh “nhớ gì như nhớ người yêu”, mà nhớ người yêu thì thật da diết, cồn cào. Ca sao có viết:

Nhớ ai bồi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than.

+ Đó là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian và thời gian, nhớ ánh nắng ban chiều, ánh trăng ban tối, đến bản làng mờ sương sớm, bếp lửa hồng trong đêm khuya lạnh.

+ Núi rừng, sông suối mang những tên quen thuộc được thể hiện bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê.

=> Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc ắp đầy kỉ niệm. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu, càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình, nổi sắc.

4. Nhớ tình người Việt Bắc đậm đà, sâu lắng (12 câu tiếp)

– Nhớ sự gần gũi, quấn quí chia ngọt sẻ bùi của tình quân dân:

Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

+ Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày gần gũi “mình đây ta đó”, cùng chia sẻ đắng cay ngọt bùi.

+ Có những ngày lũ rừng về xối xả, mưa rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trôi, địch phục kích sau lưng… Những đêm bị sốt rét rừng hành hạ được các mẹ, các chị chăm sóc… thấm thía vô cùng tình quân dân keo sơn gắn bó.

+ Hàng loạt tính từ “đắng cay” “ngọt bùi” thể hiện những khó khăn tột cùng của cuộc sống trong kháng chiến. Nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng, họ đã thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chi từng củ khoai, sẻ từng bát cơm và cùng đắp chung chăn để vượt qua mùa đông lạnh lẽo.

Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

– Nhớ hình ảnh người lao động khó nhọc:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

+ Hình ảnh người mẹ giúp người đọc cảm nhận hình ảnh người dân Việt Bắc lao động tạo ra của cải vật chất thật khó nhọc, thế mà họ vẫn sẵn sàng nuôi dưỡng cách mạng.

+ Nhớ Việt Bắc là nhớ những hình ảnh mộc mạc, thân thương, chân thực:

Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa

+ Điệp từ “nhớ sao” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác giả càng lúc càng day dứt.

+ Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm vui trong đêm liên hoan, nhớ tinh thần lạc quan yêu đời của nhân dân Việt Bắc, đặc biệt là nhớ âm thanh đặc trưng của núi rừng với tiếng mõ, tiếng chày giã gạo.

+ Nếu thờ ơ nhà thơ sẽ chẳng thấy có gì nên thơ nhưng sự lưu luyến, gắn bó yêu thương thực sự khiến tác giả thấy có ngọn lửa lung linh, bền bỉ của sự sống.

=> Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào. Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái.

5. Vẻ đẹp của bức tranh tứ bình (10 câu tiếp)

– Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

+ Tác giả sử dụng điệp ngữ “ta về” hai lần. Cùng một thời điểm chia tay nhưng ở trên là hỏi người, ở dưới là giãi bày lòng mình.

+ Cặp từ “ta”, “mình” được xưng hô như cách đối đáp giao duyên của trai gái trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc thành cuộc “giã bạn” của lứa đôi.

+ Ta là người cán bộ kháng chiến, mình là nhân dân Việt Bắc đang lưu luyến chia ta. Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” thể hiện sự lưu luyến của người đi, kẻ ở.

+ Nhớ hoa là nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng làm đắm say lòng người. Nhớ người là nhớ người dân Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam cộng khổ với cán bộ cách mạng.

– Bức tranh mùa đông:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

+ Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của lá. Sự tương phản của hai mùa xanh, đỏ làm cho núi rừng bớt hoang vu, lạnh lẽo mà trở nên ấm áp hơn. Hoa chuối là bông hoa có thật chứ không mông mênh chóng tàn như những loài hoa khác.

+ Vượt qua mùa đông lạnh giá, con người lên nương, lên rừng. Nghệ thuật đảo ngữ nắng ánh (động từ) là các luồng sáng của nắng chói lên bởi sự phản quang của lưỡi dao rừng thắt trên lưng người dân khi họ đi khai thác lâm, thổ sản. Đó là cái đẹp rất đời thường, rất giản dị của người lao động.

– Bức tranh mùa xuân:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đang nón chuốt từng sợi giang

+ Hoa nở tinh khôi, thanh khiết phủ trắng cả cánh rừng, gợi cảm giác choáng ngợp trước cảnh thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của hai từ “trắng rừng” bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng hạnh phúc của con người.

+ Hình ảnh người lao động chuốt từng sợi giang rất nhịp nhàng, khoan thai. Động từ chuốt là làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón. Hai từ chuốt và từng gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, chịu thương, chịu khó của người đan nón. Họ làm ra sản phẩm để phục vụ cho lao động và còn để tặng cho cán bộ kháng chiến.

– Bức tranh mùa hạ:

Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình

+ Câu thơ sáu chữ xôn xao cả màu sắc lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả một rừng phách như hối hả. nhanh chóng thay màu, cùng đồng loạt đổ vàng.

+ Hai động từ “kêu” và “đổ” thể hiện không khí rạo rực rất đặc trưng của mùa hạ. “Đổ vàng” là ngả vàng hàng loạt hoặc là cây trút lá vàng.

+ Hình ảnh người lao động: cô gái đi hái măng, khơi dậy trong ta những rung động ngọt ngào, sâu lắng. Đọc câu thơ, ta nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ sĩ gieo vần lưng (gái, hái) và điệp phụ âm đầu m (măng, một, mình). Cô hái say sưa lao động trong một không gian vui tươi, trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng, trẻ trung cho bức tranh mùa hạ.

– Bức tranh mùa thu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

+ Ánh trăng vàng êm dịu trải dài lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả.

+ Từ hòa bình vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, vừa nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuya. Đêm trăng thu huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc thấp thoáng ước mơ thầm kín về cuộc sống thanh bình, êm ả.

+ Trên cái nền gợi cảm ấy, văng vẳng tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó nghe thật bâng khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của người Việt Bắc, dù nghèo khó nhưng suốt đời thủy chung với cách mạng.

=> Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc… Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách… Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

6. Nhỡ những kỉ niệm và nỗi nhớ về kháng chiến (10 câu tiếp)

– Đứng trước gia khổ khó khăn, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta được nhân lên gấp bội. Theo dòng hồi tưởng của nhà thơ, ta như được chứng kiến sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp với bao chiến thắng lẫy lừng:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

+ Nhớ những lần giặc càn quét săn lùng, chúng như bầy dã thú khát máu, tìm mọi cách khủng bố, đàn áp nhân dân ta, để lại bao oán hận.

+ Nghệ thuật nhân hóa đã làm sinh động hơn hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên cũng như con người Việt Bắc kiên cường, anh dũng. Đoạn thơ trên, tác giả đã làm rõ sứ mệnh của rừng núi che bộ đội, vây quân thù.

+ Các điệp từ “rừng”, “núi” và nghệ thuật đối lập che bộ đội, vây quân thù càng làm nổi bật vai trò của những cánh rừng trùng điệp, nhấn mạnh một trong ba yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc chiến: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

– Việt Bắc quả là một vùng địa linh quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho ta đánh giặc:

Mênh mông bốn cõi sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

+ Cả núi rừng Việt Bắc cùng nhịp đập trái tim quyết hoàn thành sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu mến.

+ Cụm từ “cả chiến khu một lòng” cho thấy sự đồng tâm hiệp lực của quân dân ta, sự nhất trí cao độ của ý Đảng, lòng dân. Đó cũng là bí quyết thành công của ta trong kháng chiến.

– Chính sức mạnh đoàn kết và ý chí quyết tâm đã giúp quân dân Việt Bắc lập nên những chiến công vang dội:

Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ phủ Thông đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà

+ Hàng loạt những địa danh gắn với những thắng lợi vinh quang: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng,… đó là chiến công nhập tràn không gian, trải dài theo nỗi nhớ.

+ Câu hỏi tu từ “Ai về ai có nhớ không?” nghe đậm đà âm hưởng ca dao. Hỏi mà như khẳng định: người ra đi làm sao quên được những trận đánh, những chiến công. Bởi trong vinh quang còn bao đau thương phải trả giá bằng máu sương của đồng đội. Nhớ về chiến công cũng là nhớ về những người đã ngã xuống để mà tự hào, để mà nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong hiện tại.

=> Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảnh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.

7. Tái hiện chiến thắng Điện Biên Phủ hào hùng (12 câu cuối)

– Cả núi rừng đất trời vang dậy trong bước hành quân. Cả nước ta đang chuyển sang giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Hàng vạn người ra trận, từng đoàn bộ đội, dân công đi như sóng cuộn, rung chuyển cả núi rừng, đêm đốt đuốc sáng rừng:

Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

+ Một loạt điệp từ, điệp âm, điệp vần và từ láy: đêm đêm, rầm rập, điệp điệp, trùng trùng miêu tả cảnh hành quân thật sinh động, khiến người đọc cảm thấy hối hả, luân chuyển không ngừng của những đoàn quân ra trận dài, dài mãi dường như không dứt. Âm hưởng thơ thật hào hùng.

+ Hình ảnh thơ chân thực, đậm chất lãng mạn: Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

– Cùng với đoàn chiến binh còn có đoàn dân công xung phong ra tuyến lửa:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm dương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

+ Nghệ thuật đảo ngữ và điệp phụ âm đ (đỏ, đuốc) tạo âm hưởng mạnh mẽ, vững vàng.

+ Nhịp thơ 2/2 như nhịp bước hành quân sôi nổi, háo hức.

+ Lối nói quá khắc họa sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội: Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

+ Nghệ thuật đối lập: Nghìn đêm thăm thẳm và đèn pha bật sáng và nghệ thuật so sánh như ngày mai lên thể hiện tinh thần lạc quan, khí thế hào hùng của quân dân Việt Bắc.

– Sự hào hùng ấy biểu hiện rõ trên con đường Việt Bắc trải dài bất tận, có sự hòa hợp tiếp nối của mọi lực lượng từ bộ đội du kích dân công đến những đoàn xe vận tải. Con đường đi đến tiền tuyến là con đường đến chiến thắng:

Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

+ Trong bốn câu thơ, tác giả đã liệt kê một loạt 8 địa danh, kết hợp với điệp từ vui, nhịp thơ nhanh, mạnh, dồn dập bộc lộ một cách sâu sắc niềm sung sướng về chiến thắng của dân tộc. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.

=> Đoạn thơ 12 câu diễn tả khí thế hào hùng, sôi sục của Việt Bắc kháng chiến. Đoạn thơ có âm điệu sôi nổ, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.

III. Tổng kết

1. Nội dung

– Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.

– Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.

2. Nghệ thuật

+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.

+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình

+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ)

+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc

Từ khóa » Việt Bắc Soạn đầy đủ