Tìm Hiểu Về Các Cấp Bậc Của Sĩ Quan Pháp Thời Pháp Thuộc
Có thể bạn quan tâm
Trong số các sĩ quan Pháp hoạt động tại Việt Nam thời Pháp thuộc, Henri Rivière là trường hợp gây ra không ít bất đồng và tranh cãi. Một số ít người cho rằng ông ta là Thiếu tá, căn cứ vào dòng chữ “le commandant Rivière” trong một vài tài liệu in bằng chữ Pháp; còn đa số, trong đó có nhà viết sử Trần Trọng Kim thì chép rằng Rivière là Đại tá. Song không phải chỉ có thế, có tài liệu cho rằng ông ta là … Trung tá.
Để có cơ sở suy luận về vấn đề này, ta thử lướt qua cách gọi tên các cấp bậc (quân hàm) của sĩ quan Pháp thời Pháp thuộc, giới hạn trong hai quân chủng lục quân và hải quân phổ biến nhất vào thời kỳ này.
CẤP TƯỚNG - QUÂN CHỦNG LỤC QUÂN
Không rõ căn cứ vào đâu mà các nhà “tự điển mở” trên Wikipedia xác định rằng cấp bậc thấp nhất trong hàng ngũ tướng Lục quân của Pháp là … chuẩn tướng. Theo các nguồn tư liệu khả tín thì cấp bậc thấp nhất của tướng Lục quân Pháp là Thiếu tướng, cầu vai hay ống tay áo dài tay có gắn hai ngôi sao. Tiếng Pháp gọi cấp bậc này là Général de brigade. Brigade là lữ đoàn, điều này có nghĩa là Thiếu tướng chỉ huy cấp lữ đoàn.
- Cấp Trung tướng, tiếng Pháp ghi là Général de division. Division là sư đoàn, có nghĩa rằng Trung tướng là người chỉ huy cấp sư đoàn, cầu vai gắn 3 sao.
- Cấp Đại tướng, tiếng Pháp là Général de corps d’armée. Corps d’armée là quân đoàn, như vậy Đại tướng là người chỉ huy cấp quân đoàn, cầu vai gắn 4 sao.
- Cấp Thống tướng, tiếng Pháp là Général d’armée, có nghĩa là người chỉ huy toàn bộ quân đội của một nước, cầu vai gắn 5 sao.
Ảnh Henri Rivière chụp vào thập niên 1870,, ống tay áo có 5 vạch
Có một sự ngộ nhận khi cho rằng Thống chế (Maréchal), cầu vai gắn 7 sao, là cấp bậc cao nhất trong quân đội Pháp. Kỳ thực, Thống tướng mới là cấp bậc cao nhất, Thống chế không phải là cấp bậc (grade), mà là danh hiệu hay phẩm tước (dignité) được ban tặng đặc biệt cho những tướng lãnh có công trạng lớn trong một cuộc chiến tranh hay một biến động lớn nào của đất nước.
Cần xác định là trong cấp bậc của tướng lãnh Pháp, cầu vai 2 sao của Thiếu tướng là nhỏ nhất. Thế nhưng, cách nay nhiều thập niên, có “giai thoại” kể rằng khi ông Năm Lửa Trần Văn Soái mang lực lượng Hòa Hảo dưới quyền ông về hợp tác với Pháp, thực dân Pháp đã giữ lời hứa phong ông là Thiếu tướng, song họ đã “chơi xỏ” ông khi gắn cho ông cầu vai chỉ có 1 sao! Đây là loại chuyện nghe qua rồi bỏ, vì chẳng ai biết nó thật đến đâu.
CẤP TƯỚNG - QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN-
- Tương ứng với Thiếu tướng lục quân là Contre-amiral, theo hệ thống cấp bậc thời VNCH là Đề đốc; gần đây có người dịch là Chuẩn đô đốc. Ngoài ra, do trong quân lực VNCH trước 1975, có cấp Chuẩn tướng Lục quân nên cấp tương đương trong Hải quân là Phó Đề đốc. Pháp không có cấp Chuẩn tướng hay Phó Đề đốc
- Tương ứng với Trung tướng Lục quân là Vice-amiral, hiện nay đa số tài liệu dịch thống nhất là Phó đô đốc
- Tương ứng với Đại tướng Lục quân là Amiral d’escadre, dịch phổ biến là Đô đốc.
- Tương ứng với Thống tướng Lục quân là Amiral, dịch là Thủy sư Đô đốc
Hầu hết các tướng hải quân Pháp giữ chức Thống đốc Nam kỳ trong những năm đầu Pháp thuộc (1861-1877) là Contre-amiral và Vice-amiral. Để dễ gọi và dễ hiểu, sử gia Trần Trọng Kim đã dùng từ Thiếu tướng Hải quân để chỉ một Contre-Amiral và từ Trung tướng Hải quân để chỉ một Vice-Amiral
Cầu vai của tướng Hải quân Pháp, từ trái sang: Đề đốc, Phó đô đốc, Đô đốc, Thủy sư đô đốc. Tiếng gọi chung (appellation) là "Amiral" (Đô đốc)
SĨ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI PHÁP
Sĩ quan Lục quân hay Hải quân đều có 6 cấp. Từ thập niên 1950, cách gọi phổ biến cho 6 cấp từ thấp đến cao là: Thiếu úy, Trung úy, Đại úy, Thiếu tá, Trung tá, Đại tá. Tên gọi bằng tiếng Pháp của mỗi cấp trong quân chủng Lục quân và Hải quân rất khác nhau, song cách gọi chung của người Việt không thay đổi. Trong khi 6 cấp trong Lục quân lần lượt từ Thiếu úy đến Đại tá là:
- Sous-lieutenant
- Lieutenant
- Capitaine
- Commandant
- Lieutenant-colonel
- Colonel.
Cầu vai của sĩ quan cấp Tá quân chủng Hải quân Pháp, từ trái sang: Thiếu tá, Trung tá, Đại tá; cách gọi chung (appellation) cả 3 cấp: Commandant. Trong ảnh, phân biệt rõ Đại tá (5 vạch vàng) và Trung tá (3 vạch vàng, 2 vạch trắng)
Thì 6 cấp trong quân chủng Hải quân là:
- Enseigne de vaisseau de 2e classe
- Enseigne de vaisseau de 1re classe
- Lieutenant de vaisseau
- Capitaine de corvette
- Capitaine de frégate
- Capitaine de vaisseau.
CÁCH GỌI SĨ QUAN PHÁP TRONG CÔNG CHÚNG THỜI PHÁP THUỘC
Thông thường, người dân thường trong xã hội Việt Nam trước thập niên 1950 gọi các sĩ quan Pháp theo số vạch trên cầu vai (hay ống tay áo dài) của họ. Một vạch (thiếu úy) thì gọi là quan một (hay ông một), hai vạch (trung úy) thì gọi là quan hai, và cứ thế cho đến quan năm. Song, dù cho sĩ quan Pháp có 6 cấp bậc, người dân cũng chỉ gọi đến quan năm, đơn giản vì cầu vai của họ chỉ có tối đa 5 vạch, không có vạch thứ sáu
Vì thế trong dân gian ngày xưa, không hề có cách gọi “quan sáu” để chỉ cấp Đại tá ngày nay. Để gọi cấp Trung tá như cách gọi ngày nay (lieutenant-colonel hay capitaine de frégate), họ gọi là “quan năm vành bạc”, còn cấp Đại tá (colonel hay capitaine de vaisseau), họ gọi là “quan năm vành vàng”. Sở dĩ có sự phân biệt giữa hai cấp này là vì trong khi quan năm vành vàng (Đại tá), ở cầu vai có 5 vạch xuôi màu vàng, thì ở quan năm vành bạc (Trung tá), cầu vai có 3 vạch màu vàng và 2 vạch màu trắng. Trở lại trường hợp Henri Rivière, giả thuyết cho rằng ông ta là Thiếu tá bị phá sản vì ít nhất hai lý do:
- Ông ta là sĩ quan hải quân, từ “commandant” trong “le commandant Henri Rivière” không có nghĩa là Thiếu tá, mà là cách gọi chung (appellation) sĩ quan Hải quân cấp tá (xin xem thêm ảnh minh họa)
- Ở hình chụp của Henri Rivière vào thập niên 1870, ống tay áo có 5 vạch, do đó ông ta chỉ có thể là Trung tá hay Đại tá, chứ không thể là Thiếu tá. Song điều này cũng vẫn gây bất đồng, vì ảnh (đen trắng) ngày xưa đâu có màu để phân biệt được vạch vàng (Đại tá) với vạch trắng (Trung tá)!
Báo Le Figaro ngày 10.7.1886 ghi rõ cấp bậc "Capitaine de vaisseau" (Đại tá) của Henri Rivière trong danh sách các sĩ quan và binh sĩ Pháp tử trận và bị thương tại Bắc kỳ vào những năm từ 1873 đến 1886.
Và sự mâu thuẫn giữa các tài liệu đã xảy ra. Tác phẩm “Histoire militaire de l’Indochine française” (Lịch sử quân sự xứ Đông Dương – Hà Nội-Hải Phòng 1931 ) với hai tập dày trên 540 trang khổ lớn, khi đề cập đến Henri Rivière, đã ghi rõ cụm từ “capitaine de frégate” (Trung tá). Tác phẩm này là tài liệu đặc biệt, rất chi tiết về quân sự, nên có độ khả tín khá cao.
Song, có một tài liệu khác, mà độ khả tín cũng cao không kém. Đó là số báo Le Figaro ngày 10.7.1886, nghĩa là phát hành chỉ 3 năm sau cái chết của Henri Rivière, trong đó có in một tư liệu quý nhan đề là “Sách vàng về cuộc viễn chinh Bắc kỳ từ 1873 đến 1886”. Tài liệu này ghi danh sách toàn bộ sĩ quan và binh sĩ của cả hai quân chủng Lục và Hải quân chết và bị thương trong các trận đánh tại miền Bắc vào những năm 1873-1886. Trong tài liệu này, cấp bậc của Rivière là “Capitaine de vaisseau” (Đại tá).
Đó là khác biệt tiêu biểu của hai nguồn tư liệu có giá trị cao. Cho đến nay, khuynh hướng chung của những người viết sử vẫn ghi Rivière là Đại tá. Dù vậy, cách viết của tác phẩm “Histoire militaire …” cũng cần được lưu ý để tìm hiểu kỹ hơn nữa.
Nguồn: Lê Nguyễn
Từ khóa » Cấp Bậc Trong Quân đội Pháp
-
Quân Hàm Quân đội Cộng Hòa Pháp
-
Tìm Hiểu Về Các Cách Gọi Tướng Tá Rất Thú Vị Trong Quân đội Pháp
-
Hệ Thống Cấp Bậc Trong Quân đội Năm 2022? Làm Sao để Nhận Biết ...
-
Các Cấp Bậc Quân Sự Theo Thứ Tự Của Pháp. Quân đội Pháp
-
Quân Hàm Quân đội Cộng Hòa Pháp - Wikiwand
-
Cấp Bậc Hàm Trong Quân đội Việt Nam - Luật LawKey
-
Cập Nhật Chi Tiết Hệ Thống Cấp Bậc Trong Quân đội - LuatVietnam
-
Toàn Văn - Trung ương
-
Quy định Hệ Thống Cấp Bậc Quân Hàm Trong Quân đội Nhân Dân
-
Quy định Chế độ Cấp Bậc Của Sỹ Quan Và Hạ Sỹ Quan Cảnh Sát Nhân ...
-
Phân Biệt Quân Nhân Chuyên Nghiệp Và Sĩ Quan Khác Nhau Thế Nào?
-
Cấp Bậc Hàm Của Sĩ Quan Quân đội Gồm? - Luật Hoàng Phi
-
Hệ Thống Cấp Bậc Quân Hàm Quân đội Mỹ Hiện Nay - Luật Lao Động