Tìm Hiểu Về NHÂN SINH QUAN
Có thể bạn quan tâm
söndag 29 januari 2012
Tìm hiểu về NHÂN SINH QUAN
Đây là câu hỏi rất phổ thông, thoáng nhìn qua hình như rất đơn giản nhưng kỳ thật nó rất phức tạp...Từ ngàn xưa đến nay, các trường phái triết học và nhiều tôn giáo từ đông sang tây đều có vũ trụ quan và nhân sinh quan... Mặc dầu đã có nhiều người triết học ..v..v..giải đáp hay biện minh về "vấn đề sống" ấy, gọi là nhân sinh quan qua Học thuyết gắn bó chặt chẽ và là hệ quả trực tiếp của : - Nhân : Người
- Sinh : Sự sống
- Quan : Quan niệm
1) Thuyết luân hồi là gì? Trong vũ trụ có vô vàn “sự thực” mà không thể đưa ra những chứng cớ để chứng minh, nhưng chúng ta không nên phủ định sự tồn tại của chúng. Hơn nữa khoa học ngày nay đã có tiến bộ song vẫn còn những hạn chế về thành tựu nên chưa thể giải đáp đầy đủ những thắc mắc về vô vàn hiện tượng bí ẩn có trong vũ trụ. Thích Ca Mâu Ni (ông tổ của Phật giáo) thường nói với đệ tử là: “Ta là người nói thật, nói đúng chứ không nói bừa”. Phật giáo chủ trương “thuyết luân hồi”, hễ chúng sinh nào chưa được giác ngộ đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ sống chết. Do đó, con người mới phải trải qua hàng ngàn, hàng vạn cuộc đời. Thậm chí có người kiếp trước chỉ là động vật như trâu, bò, lợn, chó, rắn rết.. nhưng chúng ta chưa được giác ngộ thực sự, chưa hiểu điều đó một cách trí tuệ nên không biết đó thôi. Mọi người đều biết “không sát sinh” là giới cấm của Phật giáo. Phật giáo chủ trương mọi chúng sinh trong thế gian này đều phải bình đẳng, chính vì vậy con người cần phóng sinh những động vật nhỏ, yếu; không được đang tâm chà đạp chúng. 2) Phật giáo phủ định thuyết định mệnh Thế nào là thuyết định mệnh? Nói giản đơn là con người sinh ra ở đời lành, dữ, phúc, hoạ đều là do định sẵn từ trước không thể nào thay đổi được. Những người tin vào thuyết định mệnh cho rằng tất cả đều do trời xếp đặt kể cả việc sống và chết. Người đã có số thì dù có cố gắng đến đâu cũng không thể thay đổi được số mệnh của mình. Ví dụ số đã không nghèo thì dù có tiêu pha hoang phí đến đâu cũng không thể nghèo đi. Hoặc người hay làm điều ác thì số đã giàu có phong lưu cũng không vì thế mà gặp nghiệp chướng. Phật giáo kịch liệt bác bỏ học thuyết định mệnh đó và khẳng định: “Hễ cố gắng phần nào vất vả thì được phần thu hoạch đó” hay “gắng sức thì không phí công!” Phật giáo cho rằng tiền đồ và định mệnh của một cá nhân tốt hay xấu đều do việc làm hiện nay của mình quyết định. Nói khác đi là tiền đồ của mình nằm trong tay mình. Ðây là một quan niệm hết sức tiến bộ vì nó thể hiện được một thế giới quan khoa học nhìn nhận thế giới và hành vi của con người. Sở dĩ chúng tôi dành một số lớn trang trong cuốn sách này để đề cập đến nhân sinh quan của Phật giáo trước khi đi vào vấn đề “sống và chết” vì nhiều lẽ: Thứ nhất, trong mọi tín ngưỡng của loài người từ xưa tới nay thì chỉ có Phật giáo là có nhiều giải thích về vấn đề “sống và chết” của con người một cách đầy đủ cặn kẽ. Mặt khác trên con đường tìm hiểu về bản chất của cái chết chúng ta không thể bỏ qua Phật học mà không xem xét. Thứ hai, Phật giáo là một học thuyết tin vào trí tuệ chứ không phải là một thứ tôn giáo mê tín, huyền hoặc. Nghiên cứu về Phật giáo có thể bạn sẽ tìm thấy vô số các giải đáp tìm hiểu vể vạn vật, về vũ trụ, đại vũ trụ và cả về thế giởi vi mô xung quanh con người. Những hướng nghiên cứu này, không ngoài mục đích cứu giúp chúng sinh thoát khỏi tai ương, bệnh tật. Thứ ba, Phật giáo là một học thuyết khoa học mang tính nhân sinh cao cả. Trong chúng ta ai ai cũng biết câu “Phật ở trong tâm” nói khác đi là “ai cũng có thể trở thành Phật”. Khác với nhiều đạo giáo khác như cơ đốc giáo chỉ cần đưa ra một bộ kinh duy nhất là kinh thánh mang tính tóm tắt là có thể giải thích đầy đủ tính huyền diệu của sự sống? Còn Phật giáo lại cho rằng “Hiện tượng nhân sinh, vũ trụ không phải là đơn giản”. Việc truy tìm tính chân thực của hiện tượng nhân sinh và vũ trụ rất phức tạp mà không thể giải thích mang tính áp đặt như kiểu vũ trụ hay con người do một vị thần linh sáng tạo ra như kiểu chúa trời hay Adam và Eva, Phật giáo quan niệm mọi việc không có sự bắt đầu, nếu có chỉ là sự kết thúc của một quá trình nào đó để chuyển hoá sang một quá trình mới. Thứ tư, Phật giáo cho rằng trên con đường tìm hiểu sự vật thì việc hoài nghi không phải là một tội ác hay ngu xuẩn mà hoài nghi là con đường đi đến giác ngộ, “Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ” là câu minh chứng cho tính chân thực đó. Thứ năm, Phật giáo cho rằng “chân lý” không có ranh giới, Bản thân nó không phụ thuộc vào bất cứ một tôn giáo nào cả cũng như không hề phụ thuộc vào một cá nhân nào trong lịch sử. Nói như vậy chân lý mà ngay Đức Phật nói ra cũng không phải của riêng người. Từ đó có thể hiểu được rằng Phật giáo không hề sùng bái cá nhân nào, quan niệm mọi giáo lý tồn tại vài nghìn năm ở loài người ít nhiều đều có ích, nếu không nó đã bị trí tuệ của loài người đào thải và bị thời gian mai một đi.
4) Quan niệm của Phật giáo về hạnh phúc thật sự của loài người Con người muốn được an lạc thực sự đại khái phải thoả mãn được các yêu cầu sau đây: l) Tâm thần thanh thản, không phiền não. 2) Ðối với những khổ đau trước mắt thì tuỳ cảnh ngộ mà giải quyết ổn thoả, không oán trời trách người. 3) Ðối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh được giải đáp hợp lý. 4) Ðối với tương lai (đời sau) có đáp án thoả đáng. 5) Tiền đồ, vận mạng, cuộc đời, thành bại, vui khổ của mình không được do người khác thao túng. Trong mọi tôn giáo trên hành tinh thì Phật giáo có thể thoả mãn được hoàn toàn những yêu cầu đó của nhân loại. Nguyên nhân nào khiến cho Phật giáo có thể thoả mãn những yêu cầu trên? 1. Phật giáo khuyên con người phải biết “tri túc thường lạc” phải học thiên định, lạc quan tiến thủ. Cứ theo đó mà tiến hành thì tâm thần tự nhiên thanh thản, không sinh phiền não (con người nói chung như trẻ con lên 3 mất cái kẹo thì kêu khóc ầm ĩ, còn Phật tử như người lớn hiểu biết không vì thế mà phiền não. Ðó là vì quan điểm trí tuệ, cảnh giới khác nhau). 2. Phật giáo cho rằng những việc không vừa ý trước mắt là những kết quả của những nguyên nhân mình làm trước đây, nên phải dũng cảm tiếp nhận không được vì thế mà phiền não, không được oán trời trách người. 3. Tất cả những kinh điển của Phật giáo không phải là thể hiện quyền uy và sự tài giỏi của đức Phật mà giải thích một cách hoàn toàn triệt để vấn đề cơ bản của vũ trụ và nhân sinh, khiến con người được giải thích một cách hợp lý. Do vậy mà nhà triết học người Anh vừa mới qua đời là Rô-xơ đã nói: “Trong các tôn giáo ở trên thế giới tôi thích nhất là Phật giáo”. Ông Tôn Trung Sơn nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật giáo có thể bổ khuyết những điều lệch lạc của khoa học”. Khang Hữu Vi nói: “Sự uyên bác, tinh vi của Phật học..tuy có triết học của các bậc thánh nhưng không có vấn đề nào là không đề cập đến, nội dung của nó thâm diệu”. Chương Thái Viên nói: “Lý luận của Phật giáo khiến cho bậc trí trên thế giới không thể không tin”. Lương Khải Siêu nói: “Tín ngưỡng Phật giáo là chữ tín chứ không phải là mê tín” Con người chính nó là con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết làm thế nào để đạt hạnh phúc trong hiện tại và tại đây. 4. Kinh Phật viết: “Phật xuất hiện trên thế gian vì một nhân duyên lớn”. Nhân duyên lớn đó (tức là mục đích của Phật đến thế gian này) là gì? Ðó là để chuyển mê thành ngộ, giải thoát mọi khổ đau để con người vĩnh viễn hưởng tự do và sung sướng. 5. Phật giáo cho là con người là kẻ “đầu đội trời, chân đạp đất”. Trên con người, không có vị thần nào có thể thao túng sống chết, thành bại, hoạ phúc của chúng ta, con người là chủ nhân của mình, là chúa tể của mình, chỉ có mình nỗ lực, phấn đấu thì nhất định có ngày mai huy hoàng, tươi sáng. Do vậy niềm tin Phật giáo có thể làm cho con người được hưởng sung sướng thực sự. Vậy hạnh phúc chân thật là gì? Ðức Phật dạy: ‘Mình là chủ nhân của chính mình, không ai khác là chủ nhân của mình. Người khéo tự chế ngự mình, sẽ thấy được vị chủ nhân khó tìm thấy.’ ‘Người trí huệ giữ gìn tâm mình, vì cái tâm có nhận thức, rất tế nhị, nó chạy theo các dục. Cái tâm được khéo giữ gìn, đem lại an lạc, hạnh phúc.’
5) Thế giới vĩ mô và vi mô của Phật giáo Ông Tôn Trung Sơn có nói: “Nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho những thiếu sót của khoa học.” Nói một cách khác là Phật học không những phù hợp với khoa học hiện đại mà còn chỉ ra những điều của thế giới cách đây hơn 2000 năm mà ngày nay mới bắt đầu chứng minh phần nào. Thí dụ như học thuyết tương đối về không gian và thời gian. Chúng ta có thể xem kĩ ví dụ này a) Vũ trụ quan của Phật giáo. Trước đây có những nhà thiên văn cho rằng vũ trụ là có tận cùng, có giới hạn, nhưng quan điểm này bị những phát hiện mới ngày càng nhiều bác bỏ. Trước đây theo học thuyết của Ptolem Atis thì trái đất là trung tâm của vũ trụ, là bất động, mặt trời vận hành vòng quanh trái đất. Lúc bấy giờ, học thuyết đó được giáo hội Rô-ma cho là chân lý vững chắc không còn nghi ngờ gì nữa. Về sau học thuyết này bị Cô-péc-nich và Ga-li-lê bác bỏ. Do vậy mà các ông này suýt bị sát hại. Thế nhưng quyền lực của Rô-ma cuối cùng không ngăn cản được chứng cứ khoa học. Hiện nay ngay một cậu học sinh nhỏ cũng biết rằng trái đất cũng chỉ là một hành tinh nhỏ trong vô số vật chất khác quay xung quanh mặt trời. Chúng ta hãy xem tổ chức vĩ đại của vũ trụ trong quan niệm của Phật giáo có phù hợp với khoa học không? Phật giáo cho rằng 1000 thái dương hệ hợp thành 1000 tiểu thế giới 1000 tiểu thế giới hợp thành 1000 trung thế giới và 1000 trung thế giới hợp thành 1000 đại thế giới gọi là một quốc độ Phật (nơi mà Phật giáo hoá). Như vậy là một quốc độ Phật có bao nhiêu thái dương hệ? Có tất cả là 10003 bằng 1.000.000.000 thái dương hệ, tương đương với một tinh vân thiên văn học (một hằng tinh do quần hằng tinh, vệ tinh xung quanh cấu thành một hệ thống gọi là thái dương hệ). Thí dụ như thái dương hệ của chúng ta có 9 hành tinh lớn xoay quanh là Trái đất, sao Thuỷ, sao Kim, sao Hoả, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên hoàng, sao Hải hoàng, sao Minh vương cùng với 27 vệ tinh và hơn 1.100 hành tinh nhỏ. Thế thì trong vũ trụ cuối cùng có bao nhiêu quốc độ Phật? Kinh A di đà nói rõ: “Từ Tây phương vượt qua 10 vạn triệu triệu quốc độ Phật có thế giới gọi là cực lạc!” nghĩa là từ trái đất ta ở Cực lạc Tây Phương có đến 10 vạn ức Phật độ. Cho nên Đức Phật Thích Ca nói: “10 phương hư không là vô cùng tận, thế giới là mênh mông không bờ bến” (10 phương hư không đồng nghĩa với chữ “Thái không” mà ta thường nói). Ðiều này nói với chúng ta rằng, trong hư không có vô vàn hành tinh không kể xiết, hư không là mênh mông, không bờ bến. Sau thời kỳ phục hưng văn nghệ ở Châu Âu, Ga-li-lê dùng kính viễn vọng quan sát các hành tinh trong hư không, nền thiên văn mới dần dần có nhiều tiến bộ. Cho đến ngày nay, chúng ta mới hiểu biết chút ít về cõi hư không mênh mông vô tận, mới biết được rằng trái đất của chúng ta chẳng qua chỉ là một hành tinh nhỏ trong thái dương hệ mà thôi. Còn trong hư không thì có vô vàn thái dương hệ không kể xiết, có hàng triệu triệu mặt trời. Nhưng 2500 năm trước đây, Thích Ca Mâu Ni chưa có kính viễn vọng mà đã báo cho chúng ta biết hư không là vô tận, còn số lượng hành tinh trong hư không thì không kể xiết (Ðức Phật dùng chữ “không thể nghĩ bàn” để hình dung, ý muốn nói là chẳng những không thể đếm hết mà ngay cả đến tưởng tượng cũng không nổi). Nếu không phải là một bậc “tiên tri, tiên giác” có một trí tuệ vĩ đại uyên bác như vậy thì không sao miêu tả được bộ mặt thật về vũ trụ vĩ đại, thần bí, bao la mênh mông như thế. b) Trong một bán ước có 8 vạn 4 ngàn chúng sinh Khi đức Phật thuyết pháp. Người đã báo rất rõ cho chúng ta biết rằng: “Chúng sinh trong vũ trụ là không thể đếm được, là không thể tưởng tượng được”. Ngoài trái đất chúng ta ở có chúng sinh ra vô vàn hành tinh trong vũ trụ, cũng có chúng sinh mà chúng ta không thấy được. Đức Phật chỉ một bát nước trên bàn nói: “Trong bát nước này có 8 vạn 4000 chúng sinh” (có nghĩa là số lượng rất nhiều). Ngày nay với sự tiến bộ của nền khoa học, không dám phủ nhận rằng ở các hành tinh khác trong vũ trụ có khả năng tồn tại những sinh vật khác. Nhưng chúng ta tin rằng điều mà Phật giáo nói là chính xác tức là trong vũ trụ còn tồn tại vô vàn chúng sinh. Thực tế nếu nhìn qua kính hiển vi, người ta thấy trong bát nước có đến hàng ngàn, hàng vạn sinh thể như vi trùng. Cách đây 2500 năm, Thích Ca Mâu Ni không hề dùng kính hiển vi quan sát mà nói được ra một sự thực phù hợp với khoa học hiện đại, thực đáng để chúng ta khâm phục. c) Sắc tức là không, không tức là sắc. Theo vật lý học cổ điển thì có hai định luật quan trọng: Một là định luật bảo toàn vật chất, hai là định luật bảo toàn năng lượng. Ðiều đó cho thấy quan niệm về tính độc lập vật lý giữa vật chât và năng lượng. Chúng không thể trao đổi cho nhau được. Vật chất trong kinh Phật được gọi là “sắc” (chớ lầm vởi chữ “nữ sắc”). Phật giáo cho rằng “sắc tức là không”, như vậy là đối lập với khoa học. Theo sự giải thích của Phật pháp, thì tất cả mọi sự vật trong vũ trụ đều là “vô thường”, bản thể là “không”, không có cái gì là bất diệt cả như vậy cũng không hợp với khoa hoc. Khi định luật Anh-Xtanh được công bố, cho thấy khi một lượng vật chất bị huỷ diệt thì có thể giải phóng một năng lượng lớn khủng khiếp theo công thức E=mc2 thì chúng ta thấy năng lượng và vật chất có thể chuyển hoá cho nhau. Lý thuyết này của Anh-xtanh đã được thực nghiệm minh chứng khi loài người tiến hành thử nghiệm bom nguyên tử vào năm 1945. Rõ ràng bản thể của vật chất (sắc) chẳng phải là không đó sao? Ðịnh luật vật lý cũ bị phủ định, Phật học đã một lần nữa được xác minh từ khoa học quan điểm của mình là đúng đắn. Nói cụ thể hoá, thì học thuyết tương đối của Anh-tanh là vấn đề chứng minh tính tương đối của không gian và thời gian. Trong kinh “Diệu pháp liên hoa” thì đã ghi rõ Ðức Phật nói với những người đến nghe thuyết pháp: “Các người ở đây nghe ta giảng kinh cảm thấy thời gian không lâu lắm nhưng thế giới bên ngoài thì đã kinh qua hàng ngàn vạn năm rồi”. Rõ ràng Phật học đã có những đóng góp vô cùng to lớn trong bước đường tìm hiểu về thế giới vạn vật của khoa học nhân loại.
6) Ngũ phúc là gì? Ngũ Phúc, danh từ này nguyên ở trong thiên “Hồng Phạm” của Kinh Thư. Bây giờ đã trở thành từ ngữ mà mọi gia đình đều biết. Hầu như ai ai đểu quen thuộc thành ngữ “ngũ phúc lâm môn”. Nhưng rất ít người bìết cái mà ngũ phúc là chỉ 5 loạì ngũ phúc nào. Còn nói về nguyên lý của ngũ phúc lâm môn, người hiểu nó lại càng ít. Phúc thứ nhất là “trường thọ”, phúc thứ hai là “phú quý”, phúc thứ ba là “khang ninh”, phúc thứ tư là “hiếu đức”, phúc thứ năm là “thiện chung”. Trường thọ là không bị chết non, phúc thọ là lâu dài. Phú quý là tiền của rất nhiều, địa vị tôn quý. Khang ninh là thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên lành. Hiếu đức là tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh. Thiện chung là có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian. Được cả ngũ phúc có thể coi là cuộc đời hạnh phúc mỹ mãn, một khi thiếu điều nào có thể gọi là không hay. Ví dụ nói có người tuy trường thọ mà ít phúc, có người thọ 100 tuổi mà sống nghèo, có người phú quý lai đoản mệnh, có người phú quý nhưng vô cùng lao tâm khổ tứ, có người thoả mãn với cuộc sống thanh bần nhàn du, có người nghèo hèn mà thiện chung, có người phú quý trường thọ nhưng cuối đời gặp tai hoạ chết bất đắc kỳ tử. Cảnh ngộ cuộc đời phức tạp nhiều không kể hết. Ðó là mới nói đến sự biến hóa của 5 phúc. Chỉ có 5 phúc toàn bộ đều có cả mới được gọi là thập toàn thập mỹ, còn các trường hợp còn lại đều là tốt đẹp không trọn vẹn. còn gọi là 5 phúc khiếm khuyết. Trong 5 phúc, phúc thứ 4 là quan trọng nhất: Hiếu đức. Vì có cái đức lương thiện, nhân hậu, hiền hoà được coi là “phúc tướng” Tốt nhất. Ðức là nguyên nhân và cái gốc của phúc. Phúc là biểu hiện của kết quả của đức. Con người với “phúc hiếu đức” đôn hậu thuần khiết, lúc nào cũng bố thí, hay làm việc thiện, tích nhiều âm đức, mới có thể bồi dưỡng 4 phúc khác, làm cho nó không ngừng phát triển. (Trích từ “Thế giới tái sinh” của Chu Sở, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội)
Kinh Đức Phật đã dạy : “Hương của các loài hoa Không thể bay ngược gió Hương người đức hạnh đó Ngược gió bay muôn phương.” Hay: “Tự mình làm điều ác Tự mình làm nhiễm ô Tự mình ác không làm Tự mình làm thanh tịnh Tịnh không tịnh tự mình Không ai thanh tịnh ai” Tìm hiểu tư tưởng nhân sinh quan trong triết học Khổng Tử 1. Lý do chọn đề tài Khổng Tử và thời đại Khổng Tử đã cách xa chúng ta hàng chục thế kỉ, thế nhưng những giá trị trong học thuyết của ông vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm và nhìn nhận đánh giá lại cho phù hợp. Vấn đề sâu Nhân sinh quan trong triết học Khổng Tử thể hiện bản chất con người, mối quan hệ con người với con người, trong đó những luận điểm về đạo đức, nhân, nghĩa thì thể hiện rõ tính thời đại, thời sự. Về những phương diện nào đó nhân sinh quan của Khổng Tử đã tạo động lực cho sự phát triển văn hóa - xã hội ở những nước phương Đông trong đó có Việt Nam. Có những thời điểm lịch sử tư tưởng Khổng Tử là tư tưởng thống trị ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và một số các nước đồng văn khác. Ngày nay khi nhìn lại lịch sử chúng ta vẫn thấy ở nhân sinh quan trong triết học Khổng Tử còn có những luận điểm có giá trị thời đại, chẳng hạn như lí tưởng về một xã hội đại đồng, xã hội mà xã hội chủ nghĩa đang vươn tới. Tư tưởng về người đứng đầu nhà nước phải nêu cao tinh thần lấy dân làm gốc. Tư tưởng Khổng Tử cũng đề cập đến một kiểu gia đình hòa thuận, con cái hiếu kính với cha mẹ. Đây là những giá trị sâu sắc mà thế hệ sau nên tiếp thu. Khi được hỏi về quan niệm Thần linh, và sau khi chết con người đi về đâu, Đức Khổng Tử đã trả lời: "Chuyện con người còn chưa rõ nói chi đến chuyện Thần linh, và chuyện sống còn chưa rõ nói chi đến chuyện chết. " KẾT LUẬN CHUNG Khổng Tử (551-479 trCN) là một con người kiệt xuất của thời đại, xuất thân trong một gia đình cơ hàn, khổ cực thuộc dòng dõi quý tộc. Cha của ông là Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Trưng Tại. Ngay từ khi mới 3 tuổi ông đã mồ côi cha, đến năm 23 tuổi ông mồ côi mẹ. Cuộc đời ông đã trải qua bao gian nan cay đắng, mặc dù tới lúc 17 tuổi ông được nổi danh và trọng dụng nhưng đến hết cả cuộc đời mình ông vẫn chưa thực hiện được hoài bão ước mơ của mình là “sửa trị thiên hạ ”. Ông qua đời, lúc 73 tuổi. Sống trong thời suy vi, loạn lạc vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con. Nhưng ông vẫn là một tấm gương nhân luân về một nhân cách con người cao thượng, một bậc trí giả, hiền nhân quân tử. Với học thuyết nho giáo ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển nền tư tưởng nhân loại thế giới, thông qua các tác phẩm Tứ Thư, Ngũ Kinh mà ông chỉ thuật lại chứ không sáng tác, ông đã bộc lộ tư tưởng triết học của mình về thế giới quan, nhân sinh quan, các học thuyết chính trị, giáo dục, đạo đức con người... Mặc dù còn mang nhiều yếu tố duy tâm và mâu thuẫn về thế giới quan, nhân sinh quan nhưng ông đã mở ra một cách nhìn nhận mới về con người, xã hội lúc bấy giờ, ông đã lý giải gần giống quan điểm của Marx: “Bản chất con người không phải là cái gì cố hữu, chung chung trừu tượng mà bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Con người sống trong xã hội luôn có sự ràng buộc quan hệ tác động qua lại với nhau, con người của Khổng Tử là con người xã hội, con người cộng đồng, gia đình, con người cần phải có đầy đủ những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp, nhờ vậy mà con người mới trở thành con người có nhân, nhân là nội dung của đạo đức, lễ là hình thức biểu đạt nhân, chính danh là con đường thực hiện điều nhân. CÁC TÀI LIỆU TƯƠNG TỰ Tên thật Hồ Thanh Bửu. Sinh năm 1953. Nguyên quán Bình Định, Miền Trung nước Việt. 11 tuổi xa gia đình. 14 tuổi rời Trung vào Nam. 28 tuổi hành trình lữ thứ. Hiện đang cư ngụ tại Úc Châu. ~~^***^~~Ca dao tục ngữ Việt nam còn chuyên chở những nội dung triết lý sâu sắc trong cuộc sống như sau Anh ơi ! hãy ở cho lành Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau” Hay : “Bởi chưng kiếp trước vụng tu, Kiếp này tu để đền bù kiếp sau. Cây khô tưới nước cũng khô, Kiếp nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo. Kiếp này trả nợ cho xong, Làm chi để nợ một chồng kiếp sau.” |||||| ----- |||||| “Gieo gió gặp bão” “Nhân nào quả ấy” “Nhân nào quả ấy mảy máy không sai” “Không có mây sao có mưa” “Không có bột sao gột nên hồ” Hay : “Đất Bụt mà ném chim trời, Chim trời bay mất bụi rơi vào đầu” <<<<<>>>>>> Qua triết lý nhân quả nghiệp báo của Đạo Phật, Nguyễn Du đã lấy đó để làm câu kết cho tác phẩm của mình như một sự khẳng định, đề cao trách nhiệm con người. “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Hay : “Khôn thiên muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Tìm hiểu và sưu tập trên các trang web ... Uyên Love kính mong quý bạn thứ lỗi khi ghé thăm my blogspot nếu có điều gì thiếu sót trong sự tìm hiểu này “Sư rằng song chẳng hề chi, Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. . . . . . . . .@@@ . . . . . . . .
Etiketter: Tìm Hiểu Inga kommentarer:
Senaste inlägg Äldre inlägg Startsida Prenumerera på: Kommentarer till inlägget (Atom)KÍNH MỜI NGHE LẠI TIẾNG NÓI CỦA NGUYỄN MAI TRUNG TUẤN
Video Âm Nhạc
Dạ Quỳnh Hương (Phạm Anh Dũng)
1̀5 Trang Liên Quan Blogspot
- Tất Cả Mọi Chủ Đề Liên Quan
- ¤¤ Một Góc Suy Tư ... Chia Sẻ ¤¤
- Nhạc Đấu Tranh Cho Quyền Dân Chủ Tự Do Việt ...
- Những Tác Phẩm Đầu Tay UL Cất Tiếng Hát Cho...
- ;-) @@ Cửa Sổ Tâm Hồn Tôi @@ ;-)
- # Nơi Tôi Đang Cư Ngụ #
- § Thành Phố Biển Quê Tôi §
- ^^ Sưu Tập và Giao Lưu Bạn Bè ^^
- ~~~ Sưu Tập Những Vần Thơ ~~~
- zz Chuyện Trong Nhà Ngoài Phố zz
- Cùng nhau Tìm Hiểu và Học Hoỉ
- Gốc Video Dòng Nhạc Ngoại Quốc Của Nhiều Ni...
- Lưu Niệm Tiếng Hát Quý Bạn Ca Sĩ Trên Paltal...
- # Lời hay ý đẹp - Danh ngôn -Videos # Sưu Tập#
- Sưu tập :Trang Nhạc Vĩnh Điện Rất Đặc Biệt
- ***Dòng Nhạc Thời Gian***
Danh Ngôn
Người đàn bà ngu nhất có thể điều khiển một ngườn đàn ông khôn ngoan...Nhưng ngược lại là cần phải có một người đàn bà thật khôn ngoan mới điều khiển được một đàn ông ngu ngốc...By Rudyard KipplingHình ảnh
Đong đưa trên võng em nằm ngủ say ;) Bloggarkiv
- ► 2019 (1)
- ► juni (1)
- ► 2018 (53)
- ► augusti (1)
- ► juni (18)
- ► maj (12)
- ► april (11)
- ► mars (7)
- ► februari (4)
- ► 2017 (37)
- ► december (2)
- ► oktober (2)
- ► september (1)
- ► juni (2)
- ► maj (8)
- ► april (5)
- ► mars (10)
- ► februari (5)
- ► januari (2)
- ► 2016 (144)
- ► december (3)
- ► november (2)
- ► oktober (1)
- ► september (1)
- ► augusti (1)
- ► juli (8)
- ► juni (18)
- ► maj (24)
- ► april (23)
- ► mars (14)
- ► februari (21)
- ► januari (28)
- ► 2015 (196)
- ► december (21)
- ► november (22)
- ► oktober (18)
- ► september (18)
- ► augusti (14)
- ► juli (9)
- ► juni (13)
- ► maj (28)
- ► april (28)
- ► mars (10)
- ► februari (9)
- ► januari (6)
- ► 2014 (57)
- ► december (4)
- ► november (2)
- ► oktober (2)
- ► september (5)
- ► augusti (5)
- ► juli (3)
- ► juni (3)
- ► maj (10)
- ► april (6)
- ► mars (9)
- ► februari (3)
- ► januari (5)
- ► 2013 (149)
- ► december (10)
- ► november (5)
- ► oktober (9)
- ► september (15)
- ► augusti (14)
- ► juli (11)
- ► juni (12)
- ► maj (16)
- ► april (19)
- ► mars (12)
- ► februari (11)
- ► januari (15)
- ► 2011 (22)
- ► december (5)
- ► november (13)
- ► oktober (4)
| Contact me : [email protected]Namn E-post * Meddelande *Leta i den här bloggen |
Translate
Mini Globe
Videos-Love
Video Comments by Crazyprofile.comTuyển Tập Các Ca Khúc Quốc Tế Bất Hủ
Từ khóa » Nhân Sinh Quan Là Cái Gì
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? Tìm Hiểu Nhân Sinh Quan Triết Học Và Phật Giáo
-
Tìm Hiểu Về Nhân Sinh Quan, Triết Lý Nhân Sinh Trong Quan Niệm Của ...
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? Tìm Hiểu Về Triết Lý Nhân Sinh Quan Phật Giáo
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? Ý Nghĩa Nhân Sinh Quan Trong Phật Giáo
-
Nhân Sinh Quan, Thế Giới Quan Là Gì? Khái Niệm Trong Triết Học
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? Nhân Sinh Quan Người Việt - Sen Tây Hồ
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? Ảnh Hưởng Nhân Sinh Quan Phật Giáo đến ...
-
Nhân Sinh Quan Là Gì? Ý Nghĩa Của Nhân Sinh Quan Trong đời Sống
-
Thế Giới Quan Và Nhân Sinh Quan Là Gì - Thả Rông
-
Triết Lý Nhân Sinh Là Gì
-
Nhân Sinh Quan Của Tôi :: Suy Ngẫm & Tự Vấn
-
Nhân Sinh Quan Là Gì - Có Nghĩa Là Gì, Ý Nghĩa La Gi 2021
-
Nhân Sinh Quan Phật Giáo Và Vấn đề Xây Dựng Con Người Mới