Tín Ngưỡng Thờ Cúng Tổ Tiên Của Người Việt Thực Trạng Và Giải Pháp

Trang chủ Trang chủ Tìm kiếm Trang chủ Tìm kiếm Luận văn tốt nghiệp Đại học: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thực trạng và giải pháp doc Số trang Luận văn tốt nghiệp Đại học: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thực trạng và giải pháp 107 Cỡ tệp Luận văn tốt nghiệp Đại học: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thực trạng và giải pháp 2 MB Lượt tải Luận văn tốt nghiệp Đại học: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thực trạng và giải pháp 74 Lượt đọc Luận văn tốt nghiệp Đại học: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thực trạng và giải pháp 760 Đánh giá Luận văn tốt nghiệp Đại học: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thực trạng và giải pháp 4.1 ( 14 lượt) Xem tài liệu Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Tải về Chuẩn bị Đang chuẩn bị: 60 Bắt đầu tải xuống Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Chủ đề liên quan Luận văn tốt nghiệp đại học Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Thờ cúng tổ tiên của người Việt Vấn đề thờ cúng tổ tiên Việc thờ cúng tổ tiên Thực trạng thờ cúng tổ tiên

Nội dung

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ ---------- LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Đề tài: TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân Mã ngành: 52140204 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN ThS – GVC Nguyễn Thanh Sơn SINH VIÊN THỰC HIỆN Trần Văn Chương MSSV: 6106603 Cần Thơ: 12/2013 LỜI CẢM ƠN Cần Thơ, Tháng 05 Lời đầu tiên, em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến Quý thầy cô khoa Khoa học Chính trị - Trường Đại học Cần Thơ đã truyền đạt cho em những kiến thức vô cùng quý báu, bổ ích giúp em có đủ điều kiện, tự tin khi nghiên cứu và hoàn thành đề tài của mình, đặc biệt em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến ThS - GVC Nguyễn Thanh Sơn là người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài. Kết quả mà em có được là đã hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình. Song, do điều kiện, trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp chân thành của Quý thầy cô và bạn đọc để đề tài nghiên cứu của em hoàn thiện hơn. Ngoài ra, em cũng gởi lời cảm ơn đến tất cả các bạn sinh viên đã có lời động viên trong khi em nghiên cứu đề tài này. Chân thành cảm ơn! Trần Văn Chương MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................2 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................3 3. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................3 4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................3 6. Kết cấu luận văn......................................................................................3 NỘI DUNG..................................................................................................... 4 Chương 1 NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT......................................................................4 1.1. Khái quát chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên..................4 1.1.1. Nguồn gốc...........................................................................4 1.1.2. Khái niệm tín ngưỡng..........................................................9 1.1.2.1. Các quan điểm về tín ngưỡng........................................9 1.1.2.2. Khái niệm tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên...15 1.1.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.............................19 1.1.4. Phân loại tín ngưỡng............................................................21 1.2. Bàn thờ gia tiên – nét đặc trung của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt.................................................................................................... 27 1.2.1. Nguyên tắc thiết kế bàn thờ gia tiên.................................27 1.2.2. Ý nghĩa của bàn thờ gia tiên.............................................33 1.3. Thờ cúng tổ tiên trong những ngày Tết, ngày lễ........................34 1.3.1. Thờ cúng tổ tiên trong ngày Tết.............................................34 1.3.1.1. Nguồn gốc của ngày Tết................................................34 1.3.1.2. Lễ cúng ông Công, ông Táo...........................................35 1.3.1.3. Lễ cúng giao thừa..........................................................36 1.3.1.4. Lễ cúng Tết ngày đầu năm.............................................39 1.3.2. Thờ cúng tổ tiên trong ngày lễ tiết, ngày sóc, ngày vọng.......39 1.3.2.1. Tiết thanh minh..............................................................39 1.3.2.2. Tết Trung Nguyên..........................................................42 1.3.2.3. Tết Trung thu.................................................................43 1.3.2.4. Tết Hạ nguyên................................................................44 1.4. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng tộc và trong cả nước.....44 1.4.1. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng tộc.........................45 1.4.2. Thờ cúng tổ tiên trong cả nước.........................................48 Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY............................................................................51 2.1. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay................51 2.1.1. Mặt tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt. . .51 2.1.2. Mặt hạn chế của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt....57 2.2. Phương hướng và giải pháp việc thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay......................................................................62 2.2.1. Phương hướng việc thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay...................................................................62 2.2.1. Những giải pháp cơ bản nhằm định hướng hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay.........................................65 KẾT LUẬN.....................................................................................................71 PHỤ LỤC........................................................................................................74 Phụ lục 1 - Giới thiệu một số bài văn khấn..................................................74 Phụ lục 2 – Một số hình ảnh..........................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................91 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Văn hóa phương Tây khác văn hóa phương Đông ở nhiều điểm, trong đó phương Tây không thờ cúng ông bà, tổ tiên, không để bàn thờ tổ tiên trong nhà. Còn các dân tộc phương Đông đều có các hình thức thờ cúng ông bà, tổ tiên để tưởng nhớ đến những người đã khuất. Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một hệ thống và có ý nghĩa sâu sắc của nó. Việc thờ cúng tổ tiên có một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội của chúng ta. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một thứ giáo lý, tôn giáo độc đáo mà không phải bất cứ dân tộc nào trên thế giới cũng có thể có được. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt tạo nên mối gắn kết tinh thần nối liền con người với những lực lượng siêu nhiên trong thế giới tâm linh. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần được hình thành trong tiến trình lịch sử văn hóa. Trên thế giới có hàng nghìn loại hình tín ngưỡng khác nhau, nhưng hiếm thấy loại hình tín ngưỡng nào lại chứa đựng đạo lý sâu sắc như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của dân tộc, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng rất giản dị bởi họ tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn luôn bên cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp khó khăn, vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu gặp điều lành và cũng trách phạt con cháu khi làm những điều tội lỗi. Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, hình thức này đã và đang chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần người Việt. Ý thức con người có tổ có tông được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác dù họ sống trên tổ quốc mình hay sống nơi xứ người. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam. Trang 1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong quá trình hình thành và tồn tại đã góp phần tạo ra những giá trị, triết lý đạo đức mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc như lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, lòng yêu nước, tinh thần sáng tạo, còn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ được nâng cao lên là hiếu với dân, với nước. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là là một trong những nhân tố góp phần để bảo tồn và duy trì văn hóa truyền thống, tập tục mang đậm nét văn hóa của người Việt. Ngày nay, trong xu thế chung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự may rủi trong cơ chế thị trường, phân hóa giàu nghèo trong xã hội, xuất hiện những yếu tố tiêu cực do công cuộc toàn cầu hóa, cùng với trình độ dân trí thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngường thờ cúng tổ tiên của người Việt là lối sống cộng đồng của nhân dân ta. Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với những truyền thống lâu đời và đã trở thành một hệ thống. Đó cũng chính là nét riêng của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, tự do tín ngưỡng không có nghĩa là để cho tín ngưỡng phát triển một cách không có sự quản lý của các cấp, ban ngành. Chúng ta cần đầy lùi những biểu hiện của mê tín, dị đoan thì tín ngưỡng thờ cúng mới giữ được đúng bản chất của nó. Với những lý do như trên về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, tác giả đã chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt – Thực trạng và giải pháp” để làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu: Mục đích của đề tài là nghiên cứu về sự hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt từ xưa cho đến nay, từ đó làm nổi bật những thành tựu và hạn chế. Bên cạnh đó, đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm khắc phục kịp thời những tồn tại, yếu kém của tín ngưỡng thờ cúng trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ: Tìm hiểu cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong giai đoạn hiện nay. Trang 2 Xác định nội dung chủ đạo trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, trên cơ sở đó thấy được giá trị và ý nghĩa của việc phát huy những mặt tích cực của tín ngưỡng thờ cúng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời cũng đưa ra những ý kiến riêng về những thực trạng của việc thờ cúng hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Việt Nam từ nghìn xưa đến ngày nay. Từ đó tìm ra nguồn gốc xuất xứ của phong tục này, bên cạnh đó đề tài cũng nêu ra những thực trạng và đề xuất những giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giai đoạn hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu. Trong thời gian có hạn, đề tài được xác định nghiên cứu trong phạm vi là những lý luận chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và giá trị của tín ngưỡng ấy trong đời sống tâm linh của người Việt. 5. Phương pháp nghiên cứu. Dựa trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Đồng thời, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp khác như so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê… để nghiên cứu đề tài. 6. Kết cấu luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và hệ thống các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương và 6 tiết. Trang 3 NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT 1.1.. Khái quát chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. 1.1.1. Nguồn gốc: Ở nước ta, từ bao đời nay suốt từ Bắc vào Nam, không một gia đình người Việt nào không đặt bàn thờ tổ tiên ở nơi trang trọng nhất trong nhà hoặc ở nhà từ đường thờ họ. Tuy vậy, một số dân tộc ít người cũng đã có tục thờ cúng tổ tiên nhưng còn lỏng lẻo và mờ nhạt chưa trở thành một thiết chế văn hóa như của người Việt. * Nguồn gốc nhận thức: Trước hết, từ quan niệm người chết linh hồn vẫn tiếp tục sống ở nơi chín suối, thế giới bên kia, linh hồn người chết vẫn có “nhu cầu” như người sống vì thế mà người ta chôn theo người chết những đồ tùy táng, dần về sau người ta đốt vàng mã (ngày nay đốt tiền âm phủ và các thứ hình hài, đồ vật, nhà cửa…). Từ ý niệm trên đây cho ta thấy mối liên hệ giữa người sống và người chết được tiếp tục duy trì nhất là đối với ông bà, cha mẹ qua đời thì việc thờ cúng trở thành một tục lệ. Từ đó, mối quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn hiện diện trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết thực chất là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và tổ tiên sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu. Chính vì vậy nó đã là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. * Nguồn gốc về kinh tế - xã hội: Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống thực sự ra đời và phát triển trong thời kỳ thị tộc phụ hệ. Sự ra đời của thị tộc phụ hệ là kết quả của sự phân công lao động lần thứ hai giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủ công. Trong chế độ phụ quyền, địa vị của người đàn ông được đặt lên hàng đầu, quyền thừa kế tài sản theo dòng họ cha và tiếp nối đến thế hệ sau đã củng cố vững chắc vị trí của Trang 4 người đàn ông trong xã hội. Điều này đúng như đánh giá của Trịnh Đình Bảy: “Những người này, bằng uy tín của mình đã củng cố và thiêng liêng hoá sự thờ cúng tổ tiên đã có manh nha trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền” [2; tr 42]. Khi trình độ sản xuất phát triển, của cải xã hội làm ra ngày càng nhiều làm xuất hiện một tầng lớp tích luỹ được nhiều của cải và dẫn tới có quyền uy chi phối người khác và là mầm mống cho sự phân chia xã hội thành giai cấp. Trong xã hội có gia cấp, vị trí của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng được củng cố - cơ sở đích thực trong quá trình chuyển đổi từ việc thờ cúng tổ tiên tô - tem sang việc thờ cúng tổ tiên là con người thực cùng chung dòng máu. Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu tự cung tự cấp đã tồn tại lâu dài trong xã hội Việt Nam cũng là một cơ sở cho sự hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi một gia đình là một cơ sở kinh tế độc lập, sản xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau trong lao động sản xuất và trong đời sống lấy gia đình là trung tâm. Nước ta là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển và diễn ra theo gia đình phụ quyền mà ta thấy phản ánh trong câu ca dao: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” Người nông dân an cư lạc nghiệp nhất là có nhà để gia đình cư trú, có ruộng để gia đình cày cấy. Dân ta vẫn lưu truyền câu nói: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển” đó không chỉ ở ý nghĩa thiêng liêng cha mẹ sinh thành dưỡng dục nên con cái, mà còn ở chỗ trong nền kinh tế nông nghiệp diễn trình theo gia đình phụ quyền, cha mẹ chưa lo xong cho người con trai ba việc lớn là nhà, ruộng đất và lấy vợ để chúng tự lập sinh sống gia đình phụ quyền tiếp theo, thì cha mẹ nhắm mắt chưa yên. Chính vì vậy mà dân gian lưu truyền câu ca: “Công Cha như núi Thái sơn Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ Mẹ kính Cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con” Chính vì lý do về kinh tế và việc nối dõi tông đường mà người Việt đối với cha mẹ tôn kính khi sống và thờ cúng khi chết. Và cứ như thế, đời này qua đời khác cha mẹ đối với ông bà, con cái đối với cha mẹ kế tiếp nhau thành tục thờ cúng cha Trang 5 mẹ, ông bà cụ kị gọi chung là thờ cúng tổ tiên, hay cũng gọi là tiên tổ (tổ tông đời trước). * Ngồn gốc về tôn giáo Nguồn gốc Tô - tem giáo: Tô-tem giáo là một tín ngưỡng của người nguyên thủy, hình thành trong bối cảnh xã hội còn hoang sơ. Vào thời kỳ này, loài người còn sơ khai, sự hiểu biết về thế giới khách quan chưa nhiều; con người chưa đủ tri thức để nhận biết sự khác biệt giữa mình với các loài động, thực vật khác trong thiên nhiên. Họ mưu sinh bằng những phương thức thô sơ như săn bắt thú rừng, nhặt hoặc hái quả trên cây để ăn. Sự non nớt trong nhận thức này đã đưa con người đến một khái niệm rất sai lầm về nguồn gốc của mình. Người nguyên thủy nghĩ rằng mình có quan hệ huyết thống với một loài động, thực vật nào đó và họ xem chúng như tổ tiên của mình và thờ cúng động, thực vật ấy. Đây là hình thức thờ Vật tổ. Bắt nguồn từ nhận thức sai lầm trên, tôn giáo của xã hội thị tộc bộ lạc ra đời, đó là Tô - tem giáo. Mỗi thị tộc bộ lạc, tùy theo quan điểm riêng, thờ cúng một loại động, thực vật khác nhau. Tuy rằng các đối tượng thờ cúng của mỗi thị tộc, bộ lạc đều khác biệt nhau, nhưng đều trong cùng một ý niệm thờ Vật tổ. Tô - tem giáo là hình thức điển hình cho tôn giáo nguyên thủy. Trong Tô - tem giáo, người ta tin rằng linh hồn người chết tồn tại trong một thế giới khác, vì thế người chết cũng cần dùng những vật dụng sinh hoạt như người sống. Do đó khi trong gia đình có người chết, những người sống phải thực hiện nghĩa vụ phân chia tài sản cho người chết. Những đồ dùng cho sinh hoạt cá nhân của người chết và tài sản mang theo không chôn dưới đất mà được để cạnh mộ phần. Nguồn gốc Nho giáo: Dân tộc Việt hình thành trong một khu vực địa lý đặc biệt, nằm giữa miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung quốc. Do đó, người Việt từ xa xưa đã học chữ Trung Quốc, đọc sách Trung quốc và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Khổng Tử, một nhà hiền triết của Trung quốc, hệ thống hóa và phát huy học thuyết của Nho gia, lập ra những qui tắc để răn dạy người đời học biết cách sống phù hợp với luân thường đạo lý trong xã hội. Triết lý về xử thế, giáo dục đạo đức con người được Khổng Tử xem như phần quan trọng nhất. Chữ “hiếu” trong đạo “nhân” của Trang 6 Khổng Tử được đặt làm nền móng cho Khổng giáo. Từ đó hình thành nên một tôn giáo gọi là Khổng giáo hay Nho giáo. Khổng Tử quan niệm: Đối với cha, mẹ và anh chị em, ta phải kính yêu, vì họ là những người gần gũi và thân thiết nhất của chúng ta. Đối với tha nhân, chúng ta lấy lòng từ ái, khoan nhượng mà đối xử với nhau. Đạo làm người trong Khổng Giáo lấy việc hiếu thuận làm đầu và khởi sự với hai từ: “Yêu” và “kính”. Khởi đầu là kính yêu cha mẹ, kính nể huynh trưởng của mình. Một người được gọi là hiếu khi người ấy biết dưỡng nuôi song thân khi người cần đến. Lúc cha mẹ còn sống, phải yêu và kính cha mẹ, không làm những việc gây tổn hại đến thanh danh của cha mẹ. Từ quan niệm hiếu trong Khổng giáo, người Việt tiếp nhận và thể hiện qua cái bàn thờ tổ tiên. Người Việt cô đơn, nhỏ bé trong vũ trụ bao la, khiếp sợ trước sức mạnh của thiên nhiên, nên tìm cầu một Đấng Thần linh để mong nhờ sự che chở bảo vệ. Nhưng vì tầm nhìn bị giới hạn trong thể xác vật lý, loài người lại còn đang trong giai đoạn sơ khai, trí óc chưa phát triển, mắt vật lý của loài người không thể nhìn thấy được những gì khác hơn ngoài khoảng không gian bao la vây phủ chung quanh mình. Nhìn lên trên, chỉ thấy bầu trời cao vời vợi nhìn xuống chân, cũng chỉ thấy được mặt đất mênh mông. Lại chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo, nên người Việt chọn cách gửi gắm tâm tư tình cảm và sự trông cậy của mình vào ông bà cha mẹ đã khuất và mong chờ ở họ sự phù hộ độ trì qua việc thờ cúng tổ tiên. Do ảnh hưởng của Khổng giáo, người Việt xem chữ “hiếu” như là một chuẩn mực đạo đức và là một nguyên tắc trong đạo lý làm người. Trải qua nhiều thế hệ tiếp nối nhau, người Việt đã thể hiện việc hiếu đạo thành một tập tục gọi là thờ cúng tổ tiên. Xã hội Việt Nam là một xã hội theo chế độ thị tộc phụ quyền, vai trò của người đàn ông chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong gia đình, điều này thể hiện rõ nét trong đại đa số các gia đình của người Việt. Mặc dù xã hội đã tiến bộ hơn trước rất nhiều, khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” thường xuyên được nhắc đến. Nhưng trong thực tế tại Việt nam, trong gia đình, cũng như ngoài xã hội, người đàn ông vẫn chiếm giữ được nhiều ưu thế hơn người phụ nữ. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn hiện hữu trong xã hội Việt Nam: đa số người Việt đều vẫn chuộng Trang 7 có con trai để nối dõi tông đường hơn là có con gái (vì quan điểm “nữ sinh ngoại tộc”). Người con trai trưởng mang họ cha sẽ là người kế tục sự nghiệp của cha ông để lại, được thừa hưởng phần tài sản gọi là hương hỏa, kèm theo trách nhiệm duy trì và tiếp nối tập tục thờ cúng tổ tiên của dòng họ. Đối với những gia đình có truyền thống Nho học, quyền hạn của người trưởng tộc, người chủ gia đình hay con trưởng nam rất được tôn trọng. Tất cả những thành viên trong gia đình có bổn phận phục tùng và chấp hành những quyết định của người trưởng tộc, người chủ gia đình hoặc của người con trai trưởng. Cảm giác tùng phục gần như khiếp sợ này khắc sâu trong tâm trí của người Việt, vì thế tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt cứ như thế mà lưu truyền từ đời này sang đời khác. Chính vì vậy, trong dân gian lưu truyền câu căn rặn đối với con cháu: “Tổ tiên con ráng phụng thờ Mấy lời mẹ bảo ngày giờ chớ quên” Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho con cháu. Trải qua nhiều thế hệ, người Việt hệ thống hóa dần dần tập tục thờ cúng tổ tiên và xem tập tục này gần như là một tôn giáo. Bất cứ người Việt nào, nếu không có tôn giáo nào khác, khi được hỏi đến đều cho rằng mình theo đạo thờ cúng ông bà. * Các yếu tố tâm lý khác Sự sợ hãi: Trong cuộc sống con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh, sa cơ, lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo…luôn đe doạ sự bình an của con người. Con người còn thiếu tự tin vào chính bản thân khi phải đối mặt giải quyết với các vấn đề trên trong cuộc sống của chính bản thân họ. Họ luôn mong muốn có sự giúp đỡ của các thế lực khác nhau, trong đó họ cần đến sức mạnh của ông bà tổ tiên ở “thế giới bên kia” che chở, nâng đỡ. Từ quan niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ mang lại rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống. Đồng thời, ở chế độ phụ hệ quyền lực của người đàn ông, nhất là gia trưởng, tộc trưởng đã làm nảy sinh ở phụ nữ, con cháu sự quy thuận lẫn cảm giác sợ hãi. Tâm trạng Trang 8 này không phải chỉ tồn tại ở vợ và con cháu khi họ đang sống mà cả khi họ đã chết. Trong cuộc sống của mỗi con người, càng về già, cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với mỗi người, con người không muốn nó diễn ra, ngay cả khi họ có cuộc sống nơi dương thế luôn gặp khó khăn và trắc trở, nhưng họ lại luôn phải đối mặt với nó. Thực hiện các lễ nghi thờ cúng tổ tiên trong không gian thiêng đó, mỗi người được trải nghiệm và cũng như một lần được chuẩn bị tâm thế chấp nhận cái chết một cách thanh thản, bình tĩnh và nhẹ nhàng hơn. Sự kính trọng, biết ơn: Nỗi lo sợ bị trừng phạt của con người không phải là yếu tố duy nhất và chủ yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Nếu chỉ vì sợ hãi mà con người phải thờ cúng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã không thể tồn tại lâu bền và đầy giá trị nhân văn như vậy. Yếu tố tâm lý có vai trò quyết định trong việc duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là sự tôn kính, biết ơn đối với các thế hệ trước, là tình yêu và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ. 1.1.2. Khái niệm tín ngưỡng: 1.1.2.1. Các quan điểm về tín ngưỡng. * Quan điểm ngoài triết học Mác - xít về tín ngưỡng Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Trên thế giới có hàng nghìn loại hình tín ngưỡng khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Do cách tiếp cận hay mục đích tiếp cận khác nhau, nên các cách hiểu tín ngưỡng vì vậy cũng rất khác nhau. Để đưa ra một cách hiểu khoa học có thể khái quát được những nét đặc trưng nhất của tín ngưỡng, cần điểm qua một số quan điểm khác nhau trong giới nghiên cứu trên thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về thế giới Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu như Platon, Hêghen…đều xuất phát từ thực thể tinh thần như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để lý giải các hiện tượng lịch sử trước đó trong đó có tín ngưỡng. Nhìn chung họ đều cho rằng, lịch sử xã hội là lịch sử biến đổi của tinh thần, ý thức. Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh kỳ bí thuộc “tinh thần” tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người. Như vậy, lấy “tinh thần” hay “ý thức” để thay thế con người hiện thực, Trang 9 con người xã hội, chủ ngĩa duy tâm tự biện đã thần bí hóa hiện tượng tín ngưỡng, không thấy được mối quan hệ giữa con người với tín ngưỡng, không thấy được mối quan hệ giữa con người với thế giới hiện thực, không thấy được mặt xã hội của tín ngưỡng. Ốttô và một số nhà triết học duy tâm chủ quan cho tín ngưỡng là thuộc tính vốn có trong cái ý thức của con người, là sản phẩm mang tính nội sinh của ý thức, tồn tại không lệ thuộc vào thế giới khách quan. Quan điểm thần học về tín ngưỡng Các nhà thần học như Tô mát Đa canh, Phôntilích, J. Oát… xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa ẩn nhiều sức mạnh siêu nhiên có thể giúp ích cho con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc. Niềm tin vào cái thiêng, cái siêu nhiên ở đây chính là niềm tin vào thượng đế. Như vậy niềm tin vào cái “tối thượng” là tiêu chí quyết định của tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng được xem như là niềm tin tôn giáo. Quan điểm thuần túy xã hội học về tín ngưỡng Các nhà xã hội học tư sản như, M. Weber từ giác ngộ xã hội học đã có cái nhìn mới về tín ngưỡng, tôn giáo. Spenser, Durkheim coi xã hội như một hiện tượng siêu hình được nuôi dưỡng bằng một ý thức tập thể. Mà ý thức tập thể được tạo bằng niềm tin, những tình cảm của mỗi thành viên. Niềm tin và ý thức tôn giáo chính là phản ảnh của đời sống xã hội. Trong xã hội, các thành viên của một tập thể có một tín ngưỡng chung. Tín ngưỡng là một yếu tố tạo nên sự cố kết và thống nhất của các tập thể, của nhóm xã hội. Đó là niềm tin vào cái thế tục và cái thiêng liêng. Cái thế tục và cái thiêng liêng là tính chất chung của mọi tín ngưỡng, tôn giáo. Durkheim cho rằng, tín ngưỡng là những trạng thái tư tưởng, nằm ở các biểu tượng và được thể hiện thông qua các nghi lễ thờ cúng. Theo ông, tín ngưỡng “tô - tem” của người nguyên thủy vừa là biểu tượng của thần linh (cái thiêng) vừa là biểu tượng của cộng đồng xã hội (cái thế tục) là tín ngưỡng phổ biến trong xã hội nguyên thủy. M. Weber xem tín ngưỡng, tôn giáo như là một cách nhìn của con người về thế giới, là thái độ ứng xử của các cá nhân và nhóm xã hội, đặc biệt là thái độ đối với kinh tế. Tín ngưỡng, tôn giáo trong một kiểu, dạng cụ thể như một dạng đặc Trang 10 biệt của hoạt động trong cộng đồng, gắn với các thế lực siêu nhiên, thông qua các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể ông đã thấy sự tác động đáng kể của tín ngưỡng, tôn giáo đối với tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Như vậy, các cách tiếp cận trên về tín ngưỡng do hạn chế của lịch sử và lợi ích giai cấp đã đi đến những kết luận chưa có cơ sở khoa học. Theo quan điểm duy tâm, tín ngưỡng là hiện tượng thần bí, siêu thực chỉ có thể tin chứ không cảm nhận được hoặc chỉ là những hiện tượng tự nhiên mang tính bẩm sinh. Ở đây, các nhà duy tâm, thần học đã sai lầm vì họ xuất phát từ một thực thể tinh thần, ý thức để lý giải một hiện tượng khác cũng thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần. Quan điểm xã hội học chủ yếu đi sâu phân tích chức năng xã hội, vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo tách rời đời sống tinh thần phong phú của con người, không thấy được ranh giới các hiện tượng tôn giáo và các hiện tượng phi tôn giáo. * Quan điểm triết học Mác - xít về tín ngưỡng Karl Marx cho rằng: “Đời sống xã hội, về thực chất là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”. [4; tr 12]. Như vậy, tín ngưỡng về bản chất, không phải là sản phẩm của thần thánh, là cái siêu nhiên thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Là một hiện tượng xã hội, không tách rời xã hội, mang bản chất xã hội, tín ngưỡng cũng là hiện tượng của đời sống tin thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. Tinh thần, ý thức mà chúng ta đề cập ở đây không quyết định đời sống hiện thực mà là ngược lại. Ý thức, trong đó có ý thức tôn giáo chỉ là ý thức của những cá nhân, cộng đồng người trong xã hội. Tín ngưỡng, tôn giáo có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, có đặc điểm riêng và ngày càng phân hóa từ thực tiễn vật chất trong quá trình phát triển của lịch sử. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, của tiến bộ và văn minh nhân loại, hoạt động thực tiễn, tính thần bí của tín ngưỡng dần dần được làm rõ. Đó là mối quan hệ giữa tín ngưỡng và hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ những phạm trù mang tính tự “tự ý thức”, “tinh thần tuyệt đối”, “ý chí thánh linh” để giải thích cho lịch sử và coi đó là tiền đề để hư cấu nên lịch sử. Ngược lại, chủ nghĩa Mác – LêNin cho rằng, hoạt động sản xuất vật chất là điểm Trang 11 xuất phát của lịch sử nhân loại. Lịch sử, xét cho cùng là lịch sử hoạt động sản xuất vật chất. Lịch sử nhân loại bắt đầu từ đâu thì tư duy logic cũng bắt đầu từ đó, lịch sử nhân loại phát triển như thế nào thì tư duy logic cũng diễn biến thế ấy. Như vậy, khác hẳn với các nhà triết học duy tâm lấy ý thức, tín ngưỡng, tôn giáo để giải thích lịch sử, coi tín ngưỡng tôn giáo là phạm trù vượt qua lịch sử, là cái thần bí vĩnh hằng. Họ lấy sự biến thiên của tín ngưỡng, tôn giáo để phân định lịch sử. Các nhà triết học Mác - xít lấy lịch sử để giải thích tín ngưỡng và đi đến nhận định chung mang tính khách quan, khoa học là: tín ngưỡng cũng là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội của các thời đại, có quá trình hình thành biến đổi và có ảnh hưởng nhất định đối với tiến trình lịch sử. Xuất phát từ quan điểm hệ thống – cấu trúc, triết học mác xít xem tín ngưỡng như là một hiện tượng lịch sử và đồng thời cũng là một bộ phận của ý thức xã hội có quy luật hình thành và tồn tại riêng. Tín ngưỡng vừa là một “chỉnh thể” hoàn chỉnh, song lại là một “yếu tố” trong chỉnh thể lớn hơn, đó là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nghiên cứu tín ngưỡng, vì thế không thể tách tín ngưỡng khỏi các lĩnh vực của đời sống tinh thần, trong các mối quan hệ qua lại với các loại hình thức xã hội khác như tôn giáo, đạo đức, chính trị, pháp quyền… Là một hiện tượng lịch sử, tín ngưỡng có quá trình hình thành rất sớm, hình thức biểu hiện lại rất phong phú, đa dạng. Do đó, nghiên cứu tín ngưỡng không nên chỉ dừng lại ở những yếu tố đặc trưng nhất như niềm tin vào thực thể thiêng liêng và nghi lễ thờ cúng mà còn cần phải nghiên cứu tính đa dạng qua các loại hình tiín ngưỡng. Mỗi loại hình tín ngưỡng là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có của một kiểu quan hệ xã hội, điều kiện tồn tại của các tộc người, các đẳng cấp, giai cấp, các nền văn hóa khác nhau. Một loại hình tín ngưỡng, do đó mang tính địa phương, cục bộ. Yếu tố bên trong của tín ngưỡng thường quy định nội dung của tín ngưỡng. Đó là ý thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của chủ thể. Yếu tố bên ngoài của tín ngưỡng thường được quy định bởi hình thức biểu hiện, đó là hệ thống lễ nghi được biểu hiện thông qua tập tục, thói quen, truyền thống…Tín ngưỡng nói chung là một bộ phận của thức xã hội. Tín ngưỡng theo cách hiểu thông thường thì đó chính là tôn giáo. Thực ra về mặt nội dung và hình thức phản ánh thì tín ngưỡng và tôn giáo, tuy có sự tương đồng nhưng cũng có sự khác biệt. Sự tương đồng biểu hiện ở chỗ: Trang 12 Tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự phản ánh hư ảo của ý thức xã hội về tồn tại xã hội và chịu sự quy định của chính xã hội đã sinh ra chúng. Đó còn là sự phản ánh của nhận thức, là một cách lý giải của con người về các hiện tượng xung quanh cuộc sống của chính con người. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có nguồn gốc từ xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý trong quá trình hình thành và tồn tại, đều có chức năng đền bù và xoa dịu nỗi đau hiện thực và hướng tới sự giải thoát về tinh thần. Ph. Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế ” [5; tr.447] và “bên cạnh những lực lượng siêu nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động – những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy” [6; tr 437 – 438]. Bàn về vấn đề này, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu” [21; tr 169 - 170]. Như vậy, tín ngưỡng và tôn giáo đều là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng đã sinh ra chúng, thể hiện ở sự bất lực của con người trước những lực lượng tự nhiên và xã hội. Nhìn tổng quát, bên cạnh một số yếu tố mang tính tích cực thì mặt tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo là chủ yếu. Tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào một thực thể siêu việt nào đó như Thượng đế, Thần, Phật, Tổ tiên… Niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là trạng thái tâm lý đặc biệt của chủ nghĩa nhận thức. Chủ thể của niềm tin là các cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp trong xã hội. Niềm tin được hình thành trên cơ sở những thông tin nhất định về khách thể để bù đắp sự thiếu hụt thông tin của chủ thể, được thể hiện thông qua các ý niệm, biểu tượng tôn giáo. Nội dung của nó là trạng thái tâm lý của chủ thể với những hướng giá trị nhất định. Trạng thái tâm lý này là cơ sở cho sự tri giác về sự chuyển dịch Trang 13 tính khả năng thành sự tin tưởng trong nhận thức của chủ thể. Sự xuất hiện và tồn tại của niềm tin được quy định bởi trình độ, khả năng nhận thức của chủ thể. Niềm tin tôn giáo được hình thành trong hoàn cảnh tù túng, bất lực của con người trước hiện thực cuộc sống. Họ không làm chủ được mình hoặc “đánh mất mình” và có nhu cầu được đền bù, xoa dịu niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên. Nó được hình thành và tồn tại trên cơ sở tình cảm, tâm lý tôn giáo. Bản chất của niềm tin tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và khả năng cứu giúp con người của thần thánh. Như vậy, niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng là hạt nhân của tín ngưỡng và tôn giáo. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có chức năng đền bù hư ảo nỗi khổ đau hiện thực của con người. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có hệ thống nghi lễ, bao gồm những biểu tượng mang tính thần thánh, những điều răn dạy, kiêng kỵ, những điều được làm và không được làm. Hệ thống nghi lễ là hình thức, phương tiện để truyền tải ý thức, niềm tin tôn giáo. Nó giữ vai trò quan trọng cho sự hòa nhập cộng đồng, nâng sức mạnh của con người lên trên bản thân mình và giúp họ cảm nhận về thế giới thần linh. Trong các hình thức tín ngưỡng và tôn giáo, nghi lễ thường là cái ràng buộc khắt khe tín đồ, vào các lực lượng siêu nhiên, làm họ mất tự do với mối quan hệ với hiên thực. Bên cạnh những điểm giống nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo cũng có những điểm khác nhau. Tín ngưỡng được hình thành trực tiếp từ cuộc sống phong phú và đa dạng, chủ yếu do xúc cảm, kinh nghiệm mang lại. Nó là sự phản ánh thiếu sự tinh chắt, sàng lọc, khái quát, hệ thống và thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ. Do đó nó mang tính dân gian đời thường. Còn tôn giáo thường được hình thành và tồn tại trong cơ sở lý luận chặt chẽ, có cơ sở thế giới khách quan là chủ nghĩa duy tâm. Tín ngưỡng có kết cấu đơn giản, nó hình thành và tồn tại trên cơ sở niềm tin vào các phép lạ, các đấng siêu nhiên, vào thế giới vô hình như thần linh, tổ tiên, ma, quỷ…Niềm tin ấy mang tính mờ ảo không rõ ràng, chưa đạt đến trình độ khái quát cao, mang tính đơn giản, dựa vào cảm nhận của chủ thể. Nó thường không cần nhiều đến sự lý giải một cách logic và gắn liền với các tập tục, thói quen truyền thống của cộng đồng người. Còn tôn giáo thì có kết cấu phức tạp với các yếu tố thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức, tâm lý, tình cảm…Trong các yếu tố của tín ngưỡng và tôn giáo cùng với niềm tin thì nghi lễ có vai trò hết sức quan trọng, song nghi lễ được thực hiện trong tín Trang 14 ngưỡng mang tính chất đơn giản. Còn với tôn giáo nghi lễ là yếu tố đặc biệt được coi trọng, nó mang tính hệ thống được quy định chặt chẽ bởi giáo lý, giáo luật, được duy trì thường xuyên, có tổ chức và mang tính chất bắt buộc đối với tín đồ. Tín ngưỡng là một thành tố của văn hóa tổ chức cộng đồng, thuộc phạm vi đời sống cá nhân, được hình thành tự phát nhưng có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người. Tín ngưỡng của Việt Nam thể hiện qua rất nhiều mặt khác nhau như: Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Ra đời trên nền tảng xã hội nông nghiệp cổ truyền, tố chất nông dân mạnh mẽ về tư duy tổng hợp, thiếu tư duy phân tích nên tín ngưỡng của người Việt là tín ngưỡng dân dã đang ở giai đoạn hình thành những mầm mống của tôn giáo sơ khai. Nghĩa là tín ngưỡng Việt Nam chưa chuyển được thành tôn giáo. Cũng như các thành tố khác của văn hóa Việt Nam, tín ngưỡng Việt Nam phản ánh rất rõ những đặc trưng nông nghiệp lúa nước của nền văn hóa Việt Nam. Đó là: sự tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên (tín ngưỡng sùng bái tự nhiên). là sự phản ánh đậm nét nguyên lý Âm – Dương (từ đối tượng thờ cúng như Trời – đất, chim – thú, rừng – nước, cơ quan sinh dục Nam – Nữ…cho đến cách thức giao lưu giữa con người với thần linh, trần gian và cõi linh thiêng) là khuynh hướng đề cao nữ tính với hàng loạt nữ thần được đề cao ở những làng quê (Mẹ trời, mẹ đất, nữ thần mây, mưa…) là tính tổng hợp thể hiện tính đa thần, tính cộng đồng. Từ những đặc trưng ấy, ta có thể nói: Tín là sự tin tưởng, ngưỡng là ngưỡng mộ thành kính, do đó tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu nhiên, thần bí hoặc do con người tưởng tượng ra những vị thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời sống, số phận con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy. 1.1.2.2. Khái niệm tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. * Khái niệm tín ngưỡng Hiện nay, khái niệm tín ngưỡng được hiểu theo các hướng khác nhau nhưng đều thống nhất rằng, tín ngưỡng là sự ngưỡng mộ, tin tưởng của con người vào các lực lượng siêu nhiên, hư ảo, có tính chất thiêng liêng huyền bí. Nguyễn Đăng Duy đã viết trong “Văn hoá Việt Nam đỉnh cao Đại Việt” rằng: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu Trang 15 nhiên, thần bí, hoặc do con người tưởng tượng ra những vị thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời sống, số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy” [9; tr. 351]; hoặc tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “Trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng liên quan đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra nó” [12; tr 67]. Theo tác giả M. Scott, tín ngưỡng chính là sự cảm nhận của con người về thế giới mà họ đang sống, về cuộc sống xung quanh họ và về vị trí của bản thân họ trong thế giới đó. Trong đời sống thường ngày, khi đề cập đến tín ngưỡng người ta thường liên tưởng đến những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của linh hồn người chết và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người. Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, tập quán, thói quen, truyền thống của một cộng đồng người hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch sử phát triển văn hoá của cộng đồng dân tộc đó. Dưới cái nhìn của các nhà nghiên cứu thì tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý - xã hội biểu hiện niềm tin của một cộng đồng người nhất định về thế giới vô hình, về lực lượng siêu nhiên và năng lực chi phối của lực lượng này đối với cuộc sống của con người thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng. Quá trình hình thành và phát triển tín ngưỡng gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng nên nó phản ánh cuộc sống thực tế của cộng đồng người đó. Cho đến nay, hiện tượng thờ cúng tổ tiên còn tồn tại ở nhiều quốc gia, dân tộc. Tuy vậy, vị trí và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của con người ở mỗi nơi mỗi khác. Ở một số quốc gia, thờ cúng tổ tiên có vai trò mờ nhạt trong đời sống tinh thần cộng đồng - nhất là những quốc gia và dân tộc đưa một tôn giáo thành độc tôn. Nhưng ở những quốc gia đa thần như: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản,… thì thờ cúng tổ tiên có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi cá nhân, cộng đồng, xã hội. Ở Việt Nam, hầu hết mọi người đều thờ cúng tổ tiên kể cả những tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Mọi người quan niệm tín ngưỡng này vừa như là một phong tục truyền thống, vừa như một đạo lý làm người, lại vừa như một hình thức sinh hoạt tâm linh. Trang 16 * Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay còn được gọi khái quát là Đạo Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là tổ tiên của nhiều dân tộc Đông Nam Á và đặc biệt là phát triển trong văn hóa Trung Hoa. Đối với người Việt, nó đã trở thành một thứ tôn giáo, không có gia đình nào là không có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Thông thường tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hiểu theo hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa hẹp: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ những người có cùng huyết thống đã mất để tưởng nhớ công sinh thành, nuôi dưỡng. Nghĩa rộng: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ có thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống trong gia đình, họ tộc, mà còn mở rộng ra thờ cả tổ tiên của làng xã (thành hoàng làng, tổ nghề…), đất nước (Vua Hùng….): tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ thờ những người có công sinh dưỡng đã khuất, nghĩa là những người có cùng huyết thống, mà thờ cả những người có công với cộng đồng làng xã, đất nước. Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (còn gọi là ngày “kỵ nhật”), thường được tính theo âm lịch. Họ tin rằng đó là ngày mà con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một (ngày sóc), ngày rằm (ngày vọng) và các dịp lễ Tết. Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, đi làm ăn xa, thi cử người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất của việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi khấn cáo tiền nhân, tổ tiên thì che chở dẫn dắt hậu thế. Vì vậy việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm. Thờ ông bà là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đại đặc thù của người Việt Nam. Trong phần lớn người dân xưa và nay, người ta thường nói “đạo thờ ông bà” là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng không là một tôn giáo. “Đạo” ở đây có thể cần phải hiểu đó chính là đường lối. Thờ ông bà là một trách nhiệm có tính luân lý, sự phát Trang 17 lộ tình cảm và lòng tin huyết thống được thể hiện trong môi trường gia tộc không có tính cách thần thánh hóa, đặc biệt là không có tu sở như chùa hay nhà thờ và cũng không cần có người giảng thuyết làm gạch nối liền giữa đạo và đời. Thờ ông bà xuất phát từ tâm thành của người còn sống, thế hệ sau đối với thế hệ trước. Thờ thì phải có lễ và cúng bái, hành động biểu tỏ lòng tôn kính và nhớ thương. Dân tộc Việt Nam có chủ trương thờ cúng ông bà, tổ tiên là vì đã từ lâu hiểu rằng “cây có cội, nước có nguồn”, ai ai cũng tưởng nhớ đến nguồn gốc người sinh thành ra mình. Tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” là một trong những bài học đầu tiên về “học làm người”, mở đầu cho những bài dạy về luân lý con người Việt Nam được ông bà ta đúc kết lại từ bao đời: “Cây có gốc mới nở nhành xanh ngọn Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu Người ta nguồn gốc từ đâu Có cha mẹ rồi sau có mình” Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo phải biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ. Và đã hiếu với cha mẹ thì phải hiếu với ông bà tổ tiên, tức là nguồn gốc của mình. Khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo những lời dạy bảo của mọi người, cũng như thờ cúng tổ tiên về trước. Qua việc thờ cúng tổ tiên, người đã khuất và người đang còn sống luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Việc thờ cúng cũng chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với người Việt, chết không có nghĩa là hết, thân xác tuy chết đi nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn lui tới với gia đình. Thể xác thì tiêu tan nhưng linh hồn thì bất diệt. Tục lệ người Việt tin rằng dương sao âm vậy. Người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng vậy và cũng có một cuộc sống ở cõi âm như trên dương thế. Nói cách khác thì người chết cũng cần phải có những nhu cầu vật chất cần thiết như lúc còn sống. Tin như vậy, việc thờ cúng là cần thiết và việc thờ cúng tổ tiên là việc không thể thiếu trong cuộc sống ở mỗi gia đình Việt. Cổ tục còn tin rằng, vong hồn của những người đã khuất thường luôn ngự bên Trang 18 bàn thờ để được gần con cháu, dõi theo con cháu trong công việc thường ngày và giúp đỡ con cháu những con việc cần thiết. 1.1.3. Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thứ nhất, việc thờ phụng tổ tiên là để thể hiện lòng tri ân đối với công ơn của tổ tiên, ông bà cha mẹ đã khuất. Con cháu bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối với các thế hệ đã có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu nên người như ngày nay. Người con hiếu thảo phải biết công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ. Để tỏ lòng hiếu lễ với cha mẹ thì phải biết ơn tổ tiên, ông bà đã khuất. Đó là nguồn gốc đã sinh ra thế hệ con cháu ngày nay. Người xưa thường dạy: con người ta phải có tổ tiên mới có các thế hệ hiện nay. Con cháu không nhớ đến công ơn tổ tiên, chính là quên mất nguồn gốc bao đời của mình. Thứ hai, việc thờ cúng tổ tiên lại có ý nghĩa thiết thực, sâu sắc, giúp cha mẹ giáo dục con cháu lòng biết ơn tổ tiên, dòng họ của mình: Học tập tấm gương, đạo đức, nhân cách trong sáng của họ, tinh thần lao động cần cù, họ đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mới nuôi dưỡng được các thế hệ con cháu cho đến ngày nay. Đồng thời, con cháu cần cố gắng khắc phục những thiếu sót của các thế hệ đi trước, phát huy những gì tốt đẹp nhằm xây dựng gia đình, đất nước ngày một phát triển. Thứ ba, thờ cúng tổ tiên tổ tiên vừa là cơ hội, đồng thời lại là mục tiêu để phát triển mối quan hệ anh em, họ hàng cùng dòng họ, cùng nguồn gốc máu mủ chung. Chính việc thờ cúng tổ tiên đã gắn bó không chỉ các thành viên của gia đình nhỏ (cha mẹ, con cái) mà còn củng cố mối quan hệ họ hàng, dòng họ, cùng chung một Tổ tiên. Những ngày giỗ, ngày tết là những dịp để tập hợp đầy đủ họ hàng, thân thích gần xa. Họ gặp mặt nhau, trước là để cúng bái tổ tiên, sau là để chuyện trò, thăm hỏi, chia sẻ vui buồn, khó khăn, tìm cách giúp đỡ nhau. Bởi vì: “Máu chảy ruột mềm” “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Có nhiều dòng họ, những ngày giỗ được tổ chức long trọng. Do trưởng họ chủ trì, với đầy đủ đại diện các chi họ đến cúng bái tổ tiên. Sau đó, mọi người cùng Trang 19 bàn bạc những việc cần làm để thể hiện lòng thành kính và biết ơn ông Tổ chung nhiều đời của dòng họ. Mối quan hệ họ hàng, dòng họ đến nay được duy trì, củng cố chính từ phong tục thờ cúng Tổ tiên vẫn đang được thực hiện ở nhiều gia đình Việt Nam và được tổ chức ngày càng nề nếp hơn. Tháng 3 Tảo mộ, họ hàng chú, bác, cô, dì cùng nhau đi thắp hương, sửa sang mồ mả người thân đã khuất ở nghĩa địa làng hay nghĩa trang dòng họ, nghĩa trang thành phố… Hiện nay, vẫn có phong tục hàng năm cứ ngày Tết Nguyên Đán, anh em cùng dòng họ ở thành phố, đô thị lại tập hợp nhau về quê hương, thắp hương ở nhà thờ Tổ và đi tảo mộ… Con cháu họp nhau nhắc đến công ơn tổ tiên và từ đó đã nảy sinh nhu cầu tìm hiểu về dòng dõi nhiều đời đã qua để biên soạn thành gia phả dòng họ. Thứ tư, thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ đã khuất, con cháu không chỉ cảm phục công lao sinh thành, dưỡng dục của họ mà điều quan trọng là cần làm rạng danh dòng họ hơn nữa trong thời đại ngày nay. Chúng ta từ những việc làm hữu ích cho xã hội, cách ăn ở có nghĩa, có tình với mọi người, làm tốt công việc chuyên môn hàng ngày, đóng góp cho sự phát triển và củng cố nền độc lập, tự do, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ thêm dòng họ ông cha ta. Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là dịp để nhắc nhở con cháu noi gương những thế hệ đã khuất và làm tốt hơn nữa công việc họ đã làm, như câu ca dao: “Con hơn cha là nhà có phúc” Con hơn cha không phải là có tài sản, tiền bạc giàu có hơn mà ở đạo đức, nhân cách con người, cư xử nhân nghĩa, làm ăn chính đáng, quan tâm giúp đỡ anh em họ hàng, người nghèo trong xã hội. Thứ năm, những ngày giỗ tết của gia đình không phải chỉ tổ chức mâm cao, cỗ đầy là được mà điều quan trọng là cái tâm, là việc làm chính đáng hàng ngày của con cháu các thế hệ hiện nay. Khi chúng ta cúng bái tổ tiên thì phải tự hứa không làm ô danh họ, cái chính của việc báo hiếu ông bà cha mẹ đã khuất, chính là phải biết nối tiếp truyền thống sống đứng đắn của họ: ứng xử theo đạo lý làm người, hoàn thành trách nhiệm được Trang 20 giao phó, làm tốt nghĩa vụ người con trong gia đình, người công dân của đất nước Việt Nam. Thứ sáu, ý nghĩa tích cực, lâu dài của phong tục thờ cúng tổ tiên chính là chúng ta cần hướng về tương lai, mà không phải chỉ là quay về quá khứ để luyến tiếc, ca ngợi công lao ông bà, cha mẹ đã khuất. Điều quan trọng của việc cúng bái tổ tiên là chúng ta cần suy nghĩ về cuộc sống của bản thân: có tư cách đạo đức tốt hơn, cố gắng làm tròn trách nhiệm được giao phó. Đây cũng là một dịp để giáo dục con cái biết phát huy và làm rạng rỡ thêm công đức, việc làm tốt đẹp của tổ tiên, ông cha các thế hệ đã qua. Đó chính là ý nghĩa tốt đẹp, tích cực, lâu dài của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, một nét đẹp của văn hóa Việt Nam mà chúng ta cần giữ gìn phát huy. 1.1.4. Phân loại tín ngưỡng. * Tín ngưỡng phồn thực Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý Âm - Dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi. Thờ hành vi giao phối Đối với văn hoá nông nghiệp, việc này lại càng hệ trọng. Để duy trì cuộc sống, con người cần phải lao động, sản xuất và để duy trì giống nòi thì con người phải sinh nở. Hai hình thức: Sản xuất lúa gạo (Để duy trì cuộc sống) và sản xuất con người (để kế tục giống nòi) này có bản chất giống nhau. Đó là sự kết hợp của hai yếu tố khác loại (đất và trời, mẹ và cha). Theo Trần Ngọc Thêm trong “Cơ sở văn hóa Việt Nam” thì ở nước ta, tín ngưỡng phồn thực tồn tại suốt chiều dài lịch sử với hai dạng biểu hiện: Thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao phối. Người ta tìm thấy ở Văn Điển - Hà Nội và ở thung lũng SaPa - Lào Cai những tượng đá hình nam nữ có bộ phận sinh dục phóng to có niên đại hàng nghìn năm trước Công Trang 21 Nguyên. Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục cúng nõ (nõn), nường (nõ = cái nêm - tượng trưng cho sinh thực khí nam còn “nường” tượng trưng cho sinh thực khí nữ). Ở hội làng Đồng Kị (Bắc Ninh) có tục rước khí thực bằng gỗ, tan hội, chúng được đốt đi và đem chia cho mọi người rắc ra ngoài ruộng. Hà Tây, Phú Thọ, Bắc Ninh...Trước đây vào dịp hội làng, người ta rước 18 bộ sinh dục khí và khi đám rước kết thúc, mọi người tranh cướp nhau vì tin rằng chúng sẽ đem lại may mắn, no đủ cho cả năm. Việc thờ cúng sinh thực khí còn thể hiện ở việc thờ các loại cột đá, cột đá đó có thể là tự nhiên hoặc được tạc ra, và các loại hốc cây, hốc đá, kẽ nứt trên đá. Ở chùa Dạm - Bắc Ninh có một cột đá hình sinh thực khí nam nổi hình rồng - thời Lý. Bên cạnh việc thờ sinh thực khí, cũng giống như nhiều dân tộc nông nghiệp khác, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy coi trọng quan hệ còn có tục thờ hành vi giao phối - tạo nên một tín ngưỡng phồn thực độc đáo, đặc biệt phổ biến ở khu vực Đông Nam Á. Thờ sinh thực khí Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng nghìn năm trước Công nguyên. Ngoài ra nó còn được đưa vào các lễ hội, lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào ngày 6 tháng giêng, sau đó chúng được đốt đi, lấy tro than chia cho mọi người để lấy may. Trống đồng - biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực: Hình dáng của trống đồng phát triển từ cối giã gạo Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo Tâm mặt trống là hình Mặt Trời biểu trưng cho sinh thực khí nam, xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ Trang 22 Xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực Ở làng Đào Thịnh (Yên Bái) người ta tìm được một nắp đồng ở khoảng 500 năm trước Công Nguyên, xung quanh hình mặt trời là tượng bốn đôi nam nữ đang giao phối. Vào dịp hội Đền Hùng, ở vùng đất tổ lưu truyền điệu múa của “tùng dí”, thanh niên nam nữ múa từng đôi, cầm trong tay những vật biểu trưng cho sinh thực khí của nam và nữ, cứ mỗi tiếng trống “tùng” thì họ lại “dí” hai vật đó lại với nhau. Từ thời xa xưa, chày và cối - bộ công cụ thân thiết của người nông nghiệp Đông Nam Á - đã là những vật tượng trưng cho sinh thực khí nam, nữ và việc giã gạo là tượng trưng cho hành động giao phối. Trên các trống đồng rất nhiều những hình nam nữ giã gạo từng đôi. Ở các làng quê xưa, rất phổ biến tục nam nữ vừa giã cối gạo rỗng vừa hát giao duyên thể hiện ước mong sẽ thành lứa đôi và sinh con đẻ cái. Một số trò chơi như ném còn, đánh đáo cũng là ước mong phồn thực, cầu may, cầu hạnh phúc. Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ lớn tới mức chiếc trống đồng - biểu tượng cho quyền lực và sức mạnh của người xưa đồng thời cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực, được thể hiện trên các mặt sau: Hình dáng trống đồng được phát triển từ chiếc cối giã gạo, cách đánh trống theo lối cầm chày mà đâm lên mặt trống là mô phỏng động tác giã gạo - động tác giao phối, trên tâm mặt trống là hình mặt trời và những tia sáng biểu trưng cho sinh thực khí nam và giữa các tia sáng là một hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ, xung quanh mặt trống thường gắn biểu tượng con cóc và tiếng trống đồng rền vang mô phỏng âm thanh của tiếng sấm cùng mang ý nghĩa trên, theo ý thức của người Việt mang theo mưa, khiến mùa màng tốt tươi. * Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều đễ hiểu. Điều đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng tình cảm, trọng nữ giới). Có giả thuyết cho rằng đó là do ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ thời xưa tại Việt Nam. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực như đã nói ở trên nên các vị thần đó không phải là Trang 23 các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là các bà mẹ, các Mẫu. Thờ Tam phủ, Tứ phủ Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Việc thờ trời ở Việt Nam có trước ở Trung Quốc. Thờ Tứ pháp Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây – Mưa - Sấm - Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Tứ pháp gồm: Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn Ảnh hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa. * Thờ động vật và thực vật Khác với văn hóa phương tây là thờ các con vật có sức mạnh như hổ, sư tử, tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành hơn như trâu, bò, cóc, ếch… các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Người Việt có câu : Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng. Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc “họ Hồng Bàng” (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống “Rồng Tiên”. Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ở vùng Nam Á sau đó mới được phổ biến ở Trung Quốc rồi đến các nước phương tây. Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn sinh ra ở dưới nước Trang 24 nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng,... Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau... * Tín ngưỡng sùng bái con người Ngoài phồn thực, tự nhiên, tín ngưỡng Việt Nam rất coi trọng con người. Hồn và vía Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm “hồn” và “vía”. Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn . Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích và có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con. Người Việt thường có câu nói nam có “ba hồn bảy vía” còn nữ có “ba hồn chín vía”, cũng là từ các quan niệm trên mà ra. Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giải thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: “hồn xiêu phách lạc” (phách tức là vía. ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động), “sợ đến mức hồn vía lên mây”... Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông nước như ở cõi dương gian “chín suối” nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền. Tổ tiên Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Đạo ông bà. “Thà đui mà giữ đạo nhà Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ” Trang 25 Người phương tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất. Họ cho rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ khác như vàng mã. Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn - khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất - theo họ như thế tổ tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước - Lửa (Âm - Dương) và Trời - Đất - Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu sắc. Thành hoàng làng Ở phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và Thổ Công, ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở Việt Nam mà không có Thành hoàng. Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó. Tuy nhiên một số làng còn thờ những người lý lịch không rõ ràng gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày, trộm cắp... nhưng họ chết vào “giờ thiêng” (Giờ xấu theo mê tín dị đoan). Ngoài ra, người Việt Nam còn có tục thờ Tứ bất tử: Tứ bất tử là tên gọi chung của bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam, đó là Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh Công chúa. Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của các núi nước Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Thánh Gióng, hay Phù Đổng Thiên Vương tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử, (còn được gọi là Chử Đạo tổ) tượng trưng cho tình yêu, hôn nhân, và sự sung túc giàu có. Liễu Hạnh, hay Mẫu Thượng Thiên, tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, phúc đức, sự thịnh vượng, văn thơ. Trang 26 Trong bốn vị trên, ba vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương, và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là phụ nữ duy nhất, mới được đưa vào hệ thống thần thánh từ đời Hậu Lê. Như vậy, tục thờ Tứ bất tử là một giá trị văn hóa tinh thần đẹp đẽ của dân tộc ta. Đó là tinh hoa chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử tạo biểu tượng cho sức mạnh liên kết của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống ấm no, phồn vinh và tinh thần hạnh phúc. 1.2. Bàn thờ gia tiên – nét đặc trung của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt. 1.2.1. Nguyên tắc thiết kế bàn thờ gia tiên. * Vị trí đặt bàn thờ: Từ nghìn xưa, người dân Việt ta vẫn luôn coi trọng Hiếu Lễ, chẳng thế mà cổ nhân đã đúc kết “tứ thời xuân tại thủ, bách hạnh hiếu vi tiên”( bốn mùa thì mùa xuân là đầu, trăm đức hạnh thì hiếu là trước nhất). Bàn thờ gia tiên là bàn thờ chính trong mỗi gia đình Việt Nam, người ta còn có sự phân biệt giữa bàn thờ họ và bàn thờ trong từng gia đình. Dù có sự khác nhau về hình thức, nhưng cả ở 3 miền, bàn thờ đều được đặt ở vị trí trung tâm, nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình. Ngôi nhà của người Việt thường có ba hoặc năm gian, trong đó gian giữa được coi là gian trang trọng nhất, là trung tâm của ngôi nhà. Những việc quan trọng như: thờ cúng, tiếp khách, sinh hoạt… đều diễn ra ở gian này. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở của là có thể nhìn thấy trời đất lưu thông, Âm - Dương hòa đồng. Bàn thờ là nơi thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên nên bàn thờ thường được lập ở chính giữa gian giữa ngôi nhà. Ở miền Bắc, bàn thờ thường là một giá gỗ được gắn nơi bức tường trung tâm của ngôi nhà chính, ở tầm cao trên tay với của người lớn, mỗi lần hương khói người ta phải đặt ghế để đứng lên trong tư thế thành kính. Miền Trung và miền Nam, vị trí ấy là chiếc tủ thờ bằng gỗ, cao gần tầm đầu người lớn, được chế tác công phu. Bàn thờ Tổ tiên của người Việt đa phần về đặt hướng về phía Nam, hàm ý con cháu tôn vinh Tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” (Bậc thánh nhân ngồi ngoảnh mặt hướng Nam mà nghe thiên hạ tâu bày), và theo đạo Phật thì hướng Nam là nơi Bát Nhã, có nghĩa là chí Trang 27 tuệ, hướng của sự sáng tạo, của sinh lực tràn trề, đầy dương khí. Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng nên đặt bàn thờ về hướng Tây vì cho rằng hướng Tây hợp với sự đối đãi của Âm - Dương, nên yên ổn và phát triển, nghĩa là vị thần được an tọa. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, tuy nhiên cũng tùy vào hướng của ngôi nhà, tuổi của gia chủ mà đặt theo những hướng khác nhau nhưng phải theo nguyên tắc chung là: Tả cầu tài – Hữu bản mệnh, tức là đặt bên trái để cầu tài và bên phải thờ bản mệnh. Bên cạnh đó, khi lập bàn thờ cũng cần phải làm theo những kiêng kỵ nhất định: Thứ nhất, không được lộ thiên, tức là phía trên, phía sau bàn thờ có cửa sổ hoặc cửa chính đi hoặc trên nóc bàn thờ có ống thông gió. Thứ hai, bàn thờ tối kị để các vật nặng như đầu dư nhà hay các vật sắc nhọn như: góc tủ, góc cánh cửa chọc thẳng vào mặt bàn thờ hoặc đầu hồi của nhà hàng xóm chĩa vào. Thứ ba, phải tránh những nơi bẩn tạp như nhà tắm, nhà vệ sinh, hay giường ngủ của vợ chồng. Nếu tầng dưới đặt bàn thờ thì tầng trên cũng không được đặt bếp hoặc phòng ngủ, nhà tắm nhà vệ sinh. * Kích thước bàn thờ: Bàn thờ không phải đặt kích thước bao nhiêu cũng được mà phải tùy vào gia chủ định chọn chữ gì để đặt cho bàn thờ nhà mình, nhưng phải theo sách xưa là kích thước mặt bàn thờ và vị trí đáy bàn thờ xuống đến đất phải theo kích thước Lỗ Ban. Trên thước Lỗ Ban có các kích thước rộng hẹp khác nhau tương ứng với những cung chữ trên đó như: Linh, sinh khí, phúc, an ấm hay họa hại, ngũ quỷ, lục sát... tất nhiên phải chọn cung cát như. Phúc lộc, gia đinh, tài vượng, sinh khí, thiên y với kì vọng gia đình mình sẽ nhận được những điều tốt đó. * Bố trí bàn thờ gia tiên : + Hoành phi: Thường được thiết kế treo ở trên cao trong cùng, hoành phi thường được sơn son thếp vàng hay chữ khảm xà cừ. Có nhiều gia đình cầu kỳ làm bức hoành phi theo hình thức cuốn thư rất đẹp. Ý nghĩa của đại tự viết trên hoành phi thường mang nội dung ca tụng công đức của tổ tiên hoặc tỏ lòng kính trọng của con cháu đối với tổ tiên như: Trang 28 Kính như tại: có nghĩa là con cháu kính trọng tổ tiên, như tổ tiên luôn tại vị trên bàn thờ luôn luôn ở trong nhà bên cạnh cùng con cháu. Phúc mãn đường: có nghĩa là những người trong nhà luôn luôn được đầy đủ phúc đức. Bên cạnh đó trên bức hoành phi còn có ghi niên hiệu năm làm, vào mùa, tháng nào. Nếu là bức hoành phi do một người con cháu nào đó cúng thì có ghi tên tuổi người đó. Hoành phi có ghi tên người cúng phần lớn là hoành phi treo tại các nhà thờ tổ họ hay trưởng chi họ. + Y môn: Thường là bức màn vải đỏ, được thiết kế dùng làm bức màn ngăn cách lớp bàn thờ bên ngoài với lớp bàn thờ bên trong. Y môn gồm hai cảnh, xung quanh có thêu, được thiết kế treo thõng xuống che kín lớp bàn trong. Y môn có thể làm bằng nhiễu, the hoặc vải mầu đỏ. Trên cùng Y môn có một dải lụa hoặc nhung the mầu băng ngang. Trên lớp băng ngang thường được thêu hoặc dán chữ đại tự. + Khám thờ: Ngày nay phần lớn không lập bàn thờ nữa, tất cả Ngai thờ và Khám thờ được thiết kế thay thế bằng Tủ thờ, tủ thờ thường có chiều cao ngang mặt đặt sát vách phía trên bày biện đồ thờ tự, phía dưới được thiết kế là một khoang tủ trong đó chứa các vật dụng liên quan đến thờ cúng rất tiện dụng. Nếu là nhà trệt ít phòng thì đặt tủ thờ ngay phòng khách đối diện với cửa ra vào, nếu có phòng thờ riêng thì bố trí cạnh phòng khách, đối diện với tủ thờ phải có cửa sổ để lấy dương khí. Còn với nhà lầu thì đặt trên tầng cao nhất. đối diện cũng phải có cửa sổ. Trên tủ thờ bầy bộ Ngũ sự hoặc Thất sự, sát vách đặt một ngai cao có bài vị Cửu Huyền Thất Tổ, hai bên ngai đặt di ảnh của người thân. Khám thờ có cửa mở ra đóng vào bên trong đặt các linh vị tổ tiên, ngay chính giữa khám thờ viết hai chữ Thần Chủ. Ngày xưa khi lập bàn thờ Gia Tiên, gia chủ chuẩn bị mọi thứ như trên và viết chữ Thần Chủ nhưng chữ Chủ lại thiếu mất một nét chấm, sau đó mời một vị quan có uy tín đến dung son điền thêm một nét chấm đó thì chữ Chủ mới đủ, lễ này gọi là lễ Khai hoa điểm nhãn. Ngũ sự bao gồm bát hương để ở giữa, hai chân đèn được thiết kế đặt hai bên, phía sau là lọ độc bình để cắm hoa được đặt vị trí sau chân đèn bên trái, khay quả đặt sau chân đèn bên phải. Trang 29 Thất sự là bao gồm các món đồ Ngũ sự cộng thêm đỉnh hương và đèn thái cực, cách bố trí có khác chút là đỉnh hương nằm giữa ngang chân đèn, bát hương đặt trước đỉnh hương và đèn thái cực đặt sau đỉnh hương. + Bàn thờ : Thông thường người ta chia bàn thờ làm ba lớp. Lớp ngoài là bộ phận phản để mọi người đến làm lễ, không đặt phản thì để trống nền nhà, khi cần thì có thể thiết kế bầy thên bàn ghế, hay trải chiếu. Lớp thứ hai là hương án, trên đặt bộ tam sự hay ngũ sự, lớp thứ ba trong cùng mới thực sự là bàn thờ người đã khuất, trên để khám sơn son, bài vị, hộp hay ống đựng gia phả, khay đựng vật cúng, đài rượu và có thể có ảnh chân dung người quá cố. Bát hương làm bằng nhiều chất liệu khác nhau nhưng tốt nhất vẫn là làm bằng kim lại: đồng, vàng, bạc. Khi bốc bát hương mới phải hết sức cẩn thận, nhất tâm nhất niệm, trong lòng thư thái, thanh thản. Trong bát hương có cát trắng khô sạch, vàng bạc, đá ngũ sắc, ghi rõ tổ họ. Vào ngày 23 tháng chạp sau khi đưa ông Táo thì gỡ các chân hương đem ra sân đốt thả ra sông, sau đó dọn dẹp vệ sinh lại tủ thờ, và kiêng kỵ việc mang ra rửa, vì bàn thờ mệnh Hỏa, Hỏa khắc Thủy và đến trưa ngày 30 tháng chạp mới cúng rước ông bà và bắt đầu cắm hương lại. Điều cần lưu tâm là nếu bày biện Thất sự thì ngọn đèn Thái cực phải luôn để sáng, không để tắt. + Câu đối: Ở hai cột phía trước bàn thờ hoặc trên tường nhà có treo mỗi bên một câu đối. Nhà khá giả thường viết câu đối sơn son thếp vàng hay sơn đen khảm xà cừ. Còn nhà nghèo thường viết câu đối trên giấy hồng. Nhìn chung thì các bức hoành phi hay câu đối đều được viết bằng chữ Hán. Nhưng có gia đình viết cả câu đối và hoành phi bằng chữ Nôm. Cũng như hoành phi, nội dung câu đối thường ca tụng công đức của tổ tiên, “ Tổ tông công đức thiên nhiên thịnh Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh ” Dịch nghĩa: Công đức tổ tiên nghìn năm thịnh Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay. Trang 30 Những chữ viết trên hoành phi, câu đối là tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với ông bà, tổ tiên hoặc để ghi tụng công đức của ông bà, tổ tiên. Cho dù họ là tầng lớp giàu hay nghèo thì họ luôn tỏ ra tôn kính đối với ông bà, tổ tiên đã khuất. Đối với những gia đình khá giả hoặc có chức tước thì họ có thêm giá binh khí có cắm bát bảo lộc bộ, tức là tám thứ vũ khí của quân sĩ thời xưa. Những đồ tự khí này được coi là rất thiêng liêng, dù có nghèo đến đâu cũng không dám đem bán hoặc nếu bán thì sẽ bị người khác chê cười. Chúng ta đều biết, mỗi tự khí đều mang một ý nghĩa riêng mà người xưa đã đặt cho: Cái tâm sơn tượng trưng cho tam giáo. Cái lư hương tròn tượng trưng cho bàn Thái cực. Hứng được thắp lên tượng trương như các vị tinh tú. Đôi đèn tượng trưng cho nhật nguyệt quang minh. Lọ hoa tượng trưng cho cái tâm không, tức là lục căn thanh tịnh. Khi cúng, lễ bái là tổ lòng thành kính đối với ông bà tổ tiên và bớt lòng ngạo mạn kiêu căng. * Những đồ vật bài trí thờ trên bàn thờ Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ và được sơn son thiếp vàng. Trước bài vị có một hương án rất cao. Trên hương án này chính giữa là một bát hương để cắm hương khi cúng lễ. Bát hương được chăm nom rất cẩn thận, chu đáo và không được xê dịch. Hai bên bát hương là hai cây đèn hoặc hai cây nến. Gần hai bên bát hương có khi còn có hai con hạc chầu hai bên. Ở sát bên ngoài hai cây đèn, gần hai đầu hương án là hai ống hương dùng để đựng hương. Trên bàn thờ, quan trọng nhất của bàn thờ là bát hương. Nó được ví như ngôi nhà để các cụ trong gia đình đi về vậy. Bát hương trên bàn thờ có nhiều cách đặt và thờ khác nhau, nhưng theo cổ lễ thì bát hương trên ban thờ thường ứng với các số lẻ. Bát hương tối kỵ dùng màu vàng thờ gia tiên vì màu vàng là màu hoàng đế chỉ dành thờ quân, thần hoặc các vị thời trước có tước vị trong hoàng tộc. Quan trọng nhất trong bát hương là cốt bát hương: nó gồm một túi giấy nhỏ có ghi tên tuổi, năm mất, nơi mất và những câu thần chú, chỉ ngũ sắc được thầy pháp thụ lý vào và coi như sổ đỏ của người trần giới vậy. Trang 31 Thứ nữa là đến thần chủ (cũng gọi là bài vị) trong nhà thờ đại tông cũng như nhà thờ tư chi là “bách thế bất dao chi chủ” nghĩa là bất di bất dịch với tính cách vĩnh cửu. Bài vị bao giờ cũng làm bằng gỗ bạch đàn trắng viết chữ lên thì rất dễ trông, lại thơm được coi là tôn quý, thích hợp với việc thờ phụng. Phần nhiều gia đình, bàn thờ gia tiên có cỗ kỷ để trong cùng. Kỷ là cái ghế ngồi, tượng trưng cho sự hiển hiện, ngự giám của người đã khuất, chiếc kỷ nhỏ, cao độ 30 phân, dài 50 phân, rộng 25 phân. Đặt ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm cầm lên trên chiếc kỷ nhỏ này. Khi mở nắp đài ra nắp kê xuống dưới, đài đặt lên trên. Đài làm bằng gỗ được tiện rỗng dưới để khi đặt lên trên nắp đài, đài sẽ ăn khớp với nắp. Ba đài này dùng đựng chén rượu nhỏ lúc cúng giỗ, còn ngày thường đài được đậy nắp để tránh bụi bặm, kỷ và khám nhà thường dân cũng như các đồ thờ cúng khác không được chạm vẽ rồng hay tứ linh mà chỉ chạm vẽ hình tượng biến hóa con vật ấy. Bàn thờ kê kỷ và bày cỗ cúng cũng không được sơn son mà chỉ sơn then hay cánh gián căn thiếp chỉ bạc, trừ hương án cao ở mặt tiền được sơn son thiếp bạc thiếp vàng. Những gia đình giàu sang thì đồ thờ bày rộng hết cả gian giữa: trong cùng là bàn cao trên để khám gian không thờ bài vị thì trong khám để một cỗ ỷ trên bệ khám phía ngoài cánh cửa khám để hộp đựng bằng sắc của tiền nhân. Phía trước kê một sập tôn cao (cao hơn sập ngồi thường), trên mặt sập phía trong để một khay đài, phía trước để hai mâm xà, một mâm để bày cỗ (đồ mặn), một mâm để xôi chè (đồ ngọt). Trên mặt sập hai góc ngoài để hai bình sứ cao dùng để cắm hoa. Bên ngoài cùng là chiếc hương án cao gần ngang vai, ngắn hơn sập, đứng ngoài trông thấy đủ rõ cả hai bình sứ. Trên giữa hương án là bát hương công đồng, phía sau là chiếc mâm bồng để bày ngũ quả hoặc chiếc tam sơn để nước và hoa. Giá đèn nến: thường bằng đồng hoặc gỗ, tốt nhất là đồng. Cây vàng khối: là vàng mã có đủ 5 màu dành cho bàn thờ gia tiên nên dùng màu xanh, đỏ, mua về bọc băng dính lại cẩn thận (băng dính trắng để thờ được lâu) và cây đặt bên trái bát hương (tính theo hướng bàn thờ) phải cao hơn cây bên phải vì: Tả Thanh Long Hữu bạch Hổ - có câu ca rằng: Thà cho Long cao nghìn trượng chứ không để hổ ngẩng cao đầu. Trang 32 Lọ lộc bình: Thường thờ 1 lọ để cắm hoa vào ngày mùng 1 và rằm, ngày thường để không, nên xưa gọi là Độc bình. Lọ lộc bình thường đặt bên tay trái hướng đông - theo quan niệm: đông bình tây quả. Khay cốc đựng nước thờ: nước thanh tịnh được thay vào mỗi lần thắp hương: nén nhang chén nước. Lọ đựng hương: đặt bên phải bàn thờ, làm bằng gốm... Tùy theo kinh tế của gia chủ mà có những vật thờ khác nhau nhưng nhất thiết trên ban thờ phải đảm bảo 05 yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Đỉnh đồng, đôi hạc, giá nến đồng, tượng trưng cho Kim. Bàn thờ, ngai hay bài vị tượng trưng cho Mộc. Rượu, chai nước, chén nước thờ tượng trưng cho Thủy. Ngọn đèn dầu hoặc nến thờ trên ban thờ và là hương khi thắp lên tượng trưng cho Hỏa. Còn bát hương làm từ đất sét nung lên, hay sành sứ có nghĩa là Thổ. Bàn thờ gia tiên thường được trang trí rất uy nghi thể hiện sự tôn kính biết ơn các bậc tổ tiên, đó là một nét văn hóa đẹp của người Việt Nam luôn được kế thừa và gìn giữ từ đời này qua đời khác. 1.2.2. Ý nghĩa của bàn thờ gia tiên. Bàn thờ gia tiên được xem như một ngôi nhà, là nơi đi về của ông bà, tổ tiên đã khuất, bàn thờ là nơi gắn kết các mối quan hệ với từng thành viên trong gia đình, giữa người còn sống với ông bà, tổ tiên. Người đã khuất thường luôn ngự trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết. Bàn thờ gia tiên có ý nghĩa nhắc nhở con cháu không được quên tổ tiên, dòng họ, phải luôn chăm sóc mồ mả cha ông, cố gắng nhiều hơn nữa về mọi mặt để làm rạng danh tổ tông, dòng họ. Nếu bàn thờ, mồ mả tổ tiên có tốt đẹp thì tổ tiên mới phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, hưởng nhiều may mắn trong cuộc sống. Nếu bàn thờ, mồ mả không được chăm sóc kỹ thì sẽ không được ông bà, tổ tiên phù hộ, giúp đỡ khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Bàn thờ gia tiên là nơi để con cháu trong gia đình, dòng tộc tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ…những người đã có công xây dựng gia đình, dòng họ ngày một tươi đẹp. Trang 33 Bàn thờ tổ tiên là nơi thể hiện lòng thành kính, lòng tri ân tổ tiên, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, giữ gìn gia đạo của con cháu đối với tổ tiên, dòng họ. Nó như là một phần không thể thiếu trong yếu tố tâm linh của người Việt. 1.3. Thờ cúng tổ tiên trong những ngày Tết, ngày lễ. 1.3.1. Thờ cúng tổ tiên trong ngày Tết. 1.3.1.1. Nguồn gốc của ngày Tết Lễ Tết là một bộ phận của văn hóa truyền thống Việt Nam. Đó là việc tổ chức các nghi lễ theo một khuôn mẫu nhất định, vào những thời điểm của tự nhiên theo chu kỳ bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, đông. Lễ Tết có ý nghĩa cơ bản là thể hiện ý tưởng về sự trường tồn của cuộc sống, khao khát của con người với sự hài hòa của Thiên – Địa – Nhân, ý tưởng vũ trụ, thiên nhiên và con người là một khối thống nhất trong vòng quay của vũ trụ. Nguồn gốc Tết Nguyên Đán hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ đế, Tam Vương. Đời Tam Vương nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con Trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Quan nhà Chu (1050 – 256 TCN), ưa sắc đỏ chọn tháng Tý, tháng mười một làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ lúc mới tạo thiên lập địa, nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày Tết khác nhau. Đến thờ Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày Tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con Lợn), tức tháng mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần tức tháng Giêng như thời nhà Hạ, và từ đó về sau trải qua bao nhiều triều đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa Đến thời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm giống Chó, ngày thứ ba có thêm Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Trang 34 Người, ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mừng một đến ngày mùng bảy. Dân tộc ta có nhiều ngày Tết, Tết là cách nói tắt của hai chữ lễ Tiết. Có Tết Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, Trung Thu… Ngày Tết nêu ở đây chính là ngày Tết nguyên đán (ngày đầu năm). Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, được gọi là thuần phong như: khai bút, khai canh, hái lộc, chúc thọ… Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua được cành đào, cành mai… nghèo cũng có cái bánh chưng, bánh tét, chai rượu… 1.3.1.2. Lễ cúng ông Công, ông Táo Ông táo hay còn gọi là Táo quân hay Thổ công… là vị thần trông coi mọi hoạt động của gia chủ, ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ vào thổ cư. Vì vậy, theo dân gian thì đây là vị thần liên quan đến việc họa, việc phúc của gia chủ. Người ta quan niệm sống ở đâu thì có Thổ công ở đó “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Người ta tin rằng, ông Táo có quyền năng ở mỗi gia đình và báo cáo hàng năm của ông Táo là hết sức quan trọng đối với thịnh, suy của gia chủ trong thời gian tiếp theo. Vì vậy, nhiều gia đình bày biện cũng lễ rất linh đình. Có nơi còn cúng cả mật ong và bánh nếp hằng mong thần sẽ báo cáo ngọt ngào hơn khi yết kiến Ngọc Hoàng. Đứng về phía triết học thì dân gian thờ cúng Táo quân bắt nguồn từ sự sùng bái của con người đối với “lửa”. Từ thời hoang sơ, con người đã vật lộn với thiên nhiên và học được cách dùng lửa. Lửa đem lại ánh sáng và hơi ấm cho con người, lửa chống lại thú rừng, chống lại giá rét. Với thức ăn chín nhờ có lửa mà con người phát triển nhanh hơn, cơ thể khỏe mạnh cường tráng hơn. Lửa dần dần trở thành vật sùng bái tự nhiên của con người. Theo dân gian thì Thổ công hay ông Táo không phải là một thần mà là ba vị thần với ba danh hiệu khác nhau: Thổ Công trông coi việc trong bếp. Thổ Địa trông coi việc trong nhà. Thổ Kỳ trông nom việc chợ búa, hoặc việc sinh sản vật ở vườn đất. Thời xưa, bài vị của ba vị thần lập chung và đề như sau: Bản gia Trang 35 Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân Thổ Địa Long mạch tôn thần Ngũ phương Ngũ thổ Phúc Đức Chính thần. Cũng có nhà thu gọn ba bài vị làm một: Định phúc Táo quân tức ông Táo định phúc đức cho gia đình, phúc đức bày do sự ăn ở phải đạo của gia chủ và người nhà mà có. Khi mua sắm để cúng lễ ông Táo, phải mua ba chiếc mũ hoặc chỉ sắm một chiếc mũ nam thần có cánh buồn kèm theo và hia cùng bệ bằng giấy là được. Mũ, áo và hia của thổ công mỗi năm một màu tùy thuộc vào năm ứng vào hành Kim, Mộc, Hỏa, Thủy, Thổ. Năm nào hành Kim thì dùng màu trắng. Năm nào hành Mộc thì dùng màu xanh. Năm nào hành Hỏa thì dùng màu đỏ. Năm nào hành Thủy thì dùng màu đen. Năm nào hành Thổ thì dùng màu vàng. Nhân dân ta còn quan niệm Táo quân là vị chủ thứ nhất của nhà “Đệ nhất gia chi chủ” nên khi cúng đều phải khấn Táo quân trước. Khi thắp hương, nếu trên bàn thờ có nhiều bát hương thì phải đốt hương với số lượng như nhau. Sau khi đốt hương, người chủ gia đình vái ba vái rồi khấn. Khi vái, hai bàn tay áp vào nhau hoặc cài ngón vào nhau. Việc chắp tay vái là biểu tượng của sự giao hòa, là cảm ứng của Âm - Dương. Hai bàn tay chính là tượng trưng cho hai nửa Âm - Dương của vòng tròn thái cực, tay trái thuộc dương, tay phải thuộc âm, nên khi các ngón tay của hai bàn tay được đan vào nhau hay áp sát vào nhau là biểu tượng của sự giao tiếp, giao hòa Âm - Dương. Còn các ngón tay thì tượng trưng cho Ngũ hành (ngón Cái là Thổ, ngón trỏ là Kim, ngón giữa là Thủy, ngón đeo nhẫn là Mộc, ngón út là Hỏa) ấy là cái vòng tương sinh Ngũ hành của hai nửa Âm – Dương. Điều cốt yếu khi vái là phải thành tâm, đinh ninh như trước mặt mình là gia thần, gia tiên. Người ta tin rằng, sự thành kính, nghiêm túc sẽ khiến cho thần linh chứng giám và phù hộ cho con người. 1.3.1.3. Lễ cúng giao thừa Sau lễ ông Táo ngày 23 tháng chạp thì không khí Tết thực sự bắt đầu. Nhà nhà chuẩn bị cho Tết với bộn bề công việc trong không khí tưng bừng hoan hỷ. Trang 36 Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là giây phút thiêng liêng quan trọng bởi vì dân ta quan niệm phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân cai quản hạ giới hết hạn kéo về trời và các quan quân mới được cử ào ạt xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Ở các tỉnh miền Bắc thường có tập quán cúng cỗ ông bà ông Vải vào 30 Tết. Nhà nào cũng có hai cây mía cao, thẳng để hai bên bàn thờ (làm gậy cho ông Vải). Hai cây mía để nguyên cả ngọn, khi nào hóa vàng xong thì lấy cho con cháu ăn. Cỗ cúng cũng tùy theo gia cảnh mà sắm không có quy định chặt chẽ. Căn bản là thành tâm, trang trọng chứ không nhất thiết phải linh đình thì các cụ sẽ ban lộc cho. Nhà nào cũng sắm cho mình cành đào, cây quất (ở các tỉnh phía Bắc) hay cây mai (ở các tỉnh phía Nam). Hoa đào màu đỏ ngọt rất hợp với cảnh xuân, người chơi hoa đào thường kén chọn lấy giống bích đào chỉ có hoa đỏ tươi mà không có quả. Thường các làng quê Việt Nam, Tết đến mỗi nhà cắm một cành đào trên bàn thờ, cành đào chặt về người ta đốt phần dưới rồi cắm vào bình nước, đào sẽ tươi tốt trong mấy ngày Tết, sẽ trổ hoa, nảy lộc. Thời điểm quan trọng nhất của Tết Nguyên đán là đêm giao thừa với nghi lễ Trừ tịch (trừ là giao lại chức quan, tịch là ban đêm). Đêm đến, hầu như mọi người, mọi nhà đều không ngủ sớm mà thức đón thời khắc giao thừa giữa năm cũ và năm mới. Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Mọi người đều chờ đợi giây phút thiêng liêng của một năm – giây phút giao thừa. Toan Ánh đã từng nói: Năm mới sắp sang, mọi người hồi hộp chờ đợi với bao nhiêu niềm hy vọng. Người ta được thêm một tuổi, với giờ phút giao thừa, năm cũ sẽ ở lại cùng với tất cả sự không may và năm mới tới sẽ mang điều tốt lành lại… Lễ trừ tịch còn mang tên là lễ giao thừa, vì lễ cử hành đúng lúc giao thừa. Người ta gọi đây là lễ tống cựu nghinh tân (tiễn cũ và đón mới). Cũ ở đây ngoài những điều cũ kỹ, xui rủi của năm cũ, người ta còn tiễn vị Đương niên hành khiển đại vương của năm cũ. Mới ở đây, ngoài những điều mới mẻ tốt đẹp người ta còn đón rước Đương niên hành khiển đại vương của năm mới. Tục lễ xưa ta tin rằng mỗi năm có một ông Hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia cho nên cúng lễ để tiễn ông cũ và đón ông mới. Rước giờ Tý phải làm lễ tiễn quan đương niên cũ sau đó đón quan đương niên mới. Đến giờ Tý Trang 37 thì xong để chuẩn bị đón giao thừa. Theo đó, mười hai vị Hành khiển và Phán quan gồm: Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, Lý Tào Phán quan. Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam thập lục phương Hành Binh chi Thần, Khúc Tào Phán quan. Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển, Mộc Tinh chi Thần, Tiêu Tào Phán quan. Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển, Thạch Tinh chi Thần, Liêu Tào Phán quan. Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh chi Thần, Biểu Tào Phán quan. Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan. Năm Ngọ: Tấn Vương Hành Khiển, Thiên Hao chi Thần, Nhân Tào Phán quan. Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển, Ngũ Đạo chi Thần, Lâm Tào Phán quan. Năm Thân:Tề Vương Hành Khiển, Ngũ Miếu chi Thần, Tống Tào Phán quan. Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển, Ngũ Nhạc chi Thần, Cự Tào Phán quan. Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển, Thiên Bá chi Thần, Thành Tào Phán quan. Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển, Ngũ Ôn chi Thần, Nguyễn Tào Phán quan. Sắm lễ cúng giao thừa: Lễ cúng giao thừa ngoài trời: gồm con gà, ngũ quả, hương, hoa, đèn nến, trầu cau, muối gạo, trà, rượu, quần áo và mũ nón mũ thần linh, mâm lễ mặn với thủ lợn luộc, gà trống luộc, xôi, bánh chưng... nếu là phật tử có thể cúng mâm lễ chay. Tất cả được bày lên bàn trang trọng đặt ở trước cửa nhà. Mâm lễ cúng giao thừa phải chuẩn bị chu đáo, trang trọng với lòng thành kính. Vào đúng thời điểm giao thừa, người chủ gia đình phải thắp đèn, nến, rót rượu, rót trà, rồi khấn vái Trang 38 trước án. Văn khấn có thể viết vào giấy để đọc. Sau khi hết 3 tuần hương thì hóa tờ giấy viết văn khấn cùng vàng mã dâng cúng. Lễ cúng giao thừa trong nhà: Bởi cúng giao thừa là một nghi lễ thành kính, trang nghiêm. Vì vậy, khi tiến hành nghi lễ giao thừa, toàn thể thành viên trong gia đình đứng trước bàn thờ gia tiên cầu khấn cho một năm mới khỏe mạnh, vạn sự may mắn tốt lành. Lễ vật dùng để cúng giao thừa trong nhà gồm: ngũ quả, vàng mã, hương, hoa, đèn nến, trầu cau, rượu, trà, bánh chưng (bánh tét), bánh giầy, bánh kẹo và mâm cỗ mặn hoặc cỗ chay đầy đặn, thơm ngon, tinh khiết. Sau khi cung kính bày lễ lên bàn thờ gia tiên thì đốt đèn nến, thắp hương thơm và thành kính cầu khấn . 1.3.1.4. Lễ cúng Tết ngày đầu năm Ngày mồng một là ngày đầu năm mới, buổi sáng các gia đình thường làm cỗ cúng gia tiên, cúng thổ công, cúng Táo quân. Lệ xưa, cứ vào sáng mồng một con cháu không phân biệt xa gần phải đến thắp hương cho tổ tiên và mừng tuổi ông bà, cha mẹ xong xuôi mới được đi làm việc khác. Trong dân gian có lưu truyền câu nói “mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy” đã từ lâu ăn sâu vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam. Sau ngày mồng một thì đi chúc Tết hoặc đi lễ bái, vãn cảnh ở đền, chùa…cứ thế vui vẻ hết mấy ngày Tết. Có nhà ăn Tết tận bảy ngày mới hạ cây nêu xuống. Thời xưa, để chuẩn bị cho ngày Tết nhà nào cũng trồng một cây nêu trước nhà. Cây nêu được dựng bằng một cây tre cao, thẳng, các cành trên cây tre được chặt hết chỉ chừa lại cành cao nhất. Ngọn tre được buộc một dải phướn màu đỏ, vàng. Khi mặt trời lên bóng cây nêu tỏa đến đâu trên đất thì đó là khu vực của con người, ma quỷ không được tới. Ngày mồng bảy mới hạ cây nêu, đồng thời ngày này người ta cũng làm lễ hóa vàng và ngày này cũng được gọi là ngày tết khai hạ. Đây là dịp kết thúc tết Nguyên đán để mọi người có thể tiếp tục lại công việc hàng ngày của mình. Người xưa cho rằng, ngày bảy tháng Giêng là ngày của loài người. 1.3.2. Thờ cúng tổ tiên trong ngày lễ tiết, ngày sóc, ngày vọng.. 1.3.2.1. Tiết thanh minh. Thanh minh là lễ tiết hàng năm trong đời sống văn hóa không chỉ riêng gì của người Việt mà còn chung cho người Á Đông. Tiết Thanh minh được tổ chức Trang 39 sau khi lập xuân 45 ngày, sau Đông chí 105 ngày (tức là vào ngày 5 tháng 4 dương lịch). Theo âm lịch truyền thống Trung Hoa, ngày này thường vào ngay những ngày đầu tháng Ba. Nếu ngay vào ngày mồng Ba tháng Ba thì đó chính là ngày Thanh minh đích thực. Theo nghĩa đen thì “thanh” là khí còn “minh” là sáng sủa. Tiết Thanh minh có ý nghĩa đặc biệt đối với mỗi người dân Việt. Đó là ngày để nhớ về cội nguồn, để trả ơn cho những người đã khuất. Vì thế tiết Thanh minh là người người, nhà nhà sẽ cùng nhau đi tảo mộ. Việc chăm sóc phần mộ và cũng tế trong tiết Thanh minh đã chứng minh là đạo nghĩa của người phương Đông. Tiết Thanh minh của người Việt, gần như đã trở thành một truyền thống khó thay đổi Nguồn gốc tiết Thanh minh Tết Thanh minh được bắt nguồn từ Trung Quốc, đời Xuân Thu vua Tấn Văn Công, nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo vua giúp đỡ mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cảm kích vô cùng. Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ của mình, chứ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn. Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, cuối cùng cả hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng ba tháng ba đến mồng năm tháng ba âm lịch hàng năm). Từ đó ngày mùng ba tháng ba âm lịch hằng năm được coi là ngày Tết Hàn thực, nhằm tưởng nhớ đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất. Trang 40 Từ thời Lý nhân dân ta đã tiếp nhận tết Hàn thực nhưng ý nghĩa của ngày tết này đã biến đổi và mang đậm màu sắc truyền thống, phù hợp với tâm lý cũng như cuộc sống thường nhật của người dân nước Việt. Vào ngày tết Hàn thực, người Việt không kiêng lửa, mọi việc nấu nướng vẫn được thực hiện, chỉ có điều người Việt dùng bánh trôi - bánh chay cho tết Hàn thực với ý nghĩa tượng trưng đó là những thức ăn nguội - hàn thực. Vì vậy người Việt còn gọi tết Hàn thực bằng một tên gọi khác là tết bánh trôi - bánh chay. Tục tảo mộ Đối với người Việt, tết Thanh minh còn là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn. Dù ai đi đâu, ở đâu đến ngày mùng ba tháng ba âm lịch cũng cố gắng về với gia đình để được đi tảo mộ, để cùng nhau ngồi bên mâm cơm sum họp gia đình. Những ngôi mộ được người nhà dọn dẹp sạch sẽ, vun đắp thêm đất mới, đó là những tâm đức của người đang sống đối với người đã khuất. Cho nên, Nguyễn Du trong Truyện Kiều mới có câu: “Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Thanh minh trong Tiết tháng Ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến oanh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” [8; câu 35 – 45] Theo thông lệ từ trước đến nay, cứ sau tháng Giêng là người ta đã lo việc đắp mộ cho những người quá cố. Trước Thanh minh một ngày, để đi cúng mộ người ta đã chuẩn bị một bộ tam sinh, giấy ngũ sắc, nhang, đèn, giấy tiền, vàng bạc, quần áo giấy... và các loại bánh trái, thức ăn, thức uống khác tùy sở thích của mỗi nhà. Bộ tam sinh dùng để tế trong các đại lễ ngày xưa là ba con vật: bò, heo, dê. Ngày nay tùy theo tập quán của mỗi địa phương và hoàn cảnh của mỗi gia đình để làm lễ. Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ Trang 41 cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Đối với người Việt, tết Thanh minh còn là dịp để con cháu hướng về tổ tiên, cội nguồn. 1.3.2.2. Tết Trung Nguyên Lễ rằm tháng Bảy trùng với Tết Trung Nguyên của đạo Lão. Lễ lớn tại các chùa, gồm có: lễ Vu Lan của Phật giáo (còn gọi là lễ xá tội vong nhân) - lễ báo hiếu của nhà Phật: cầu kinh giải oan, lễ mở cửa xá tội vong nhân, lễ cúng vong và thí thực. Đây cũng là ngày địa quan xá tội cho các linh hồn chết được lên trần hưởng lộc. Bởi vậy trên dương thế mọi gia đình đều làm cỗ bàn, đốt vàng mã cúng gia tiên và đồng thời cúng những linh hồn bơ vơ không được ai chăm sóc. Người ta cũng thả chim lên trời, thả cá xuống sông, để làm điều phúc đức. Tục cúng cháo Xưa, tại các cầu quán, đình chùa, đều có tổ chức “cúng cháo” để cúng các cô hồn không ai cúng giỗ. Các tư gia, ngoài lễ cúng Thổ Công, cúng gia tiên cũng có cúng cháo cho các cô hồn. Họ bày cúng ở trước cửa nhà. Ðồ lễ đặt trên một cái mẹt thường gồm có cháo hoa, những nắm cơm nhỏ, hoa quả, bánh bỏng, trầu cau, xôi chè cùng với đồ mã, vàng hương. Mọi người tin rằng các cô hồn những cô nhi yểu vong, những người chết đường chết chợ, những người chết không ai biết, không ai cúng giỗ sẽ đến hưởng lễ cúng làm phúc trong ngày "xá tội vong nhân" này. Lễ cúng tại đình, chùa, cầu , quán, tổ chức có quy mô hơn. Ở những nơi này, cháo được múc ra những bồ đài lá mít cắm ở hai bên đường trước lễ đài. Ðồ mã cùng trái cây và đồ lễ cũng nhiều hơn. Ngoài ra còn có một nồi cháo lớn. Khi cúng lễ xong những người nghèo đem liễn tới xin cháo, các mục đồng và trẻ con xô nhau Trang 42 vào cướp những hoa quả, bánh trái, tục gọi là cướp cháo. Những vàng mã được đem hoá và có khi có tụng kinh để cầu siêu độ cho những vong hồn vô thừa tự. Tục đốt mã Tục đốt mã từ bên Trung Hoa truyền sang nước ta. Từ đời xưa dùng đồ bạch ngọc để cúng tế. Ðời sau, vì bạch ngọc đắt và hiếm, người ta dùng tiền để thế cho bạch ngọc. Những tiền này cúng xong đều bỏ đi, rất phí tổn. Trước sự phí phạm này, vua Huyền Tôn nhà Ðường ra lệnh dùng tiền giấy thay cho tiền thật. Những thoi vàng, thoi bạc giấy được cúng thay cho vàng bạc thật, những hình đồng tiền vẽ trên giấy được cúng thay cho tiền quan. Ðến đời vua Ðường Thế Tôn, quan Từ tế sứ, lo việc tế tự là Vương Dữ, đã cho cúng toàn tiền giấy rồi đốt đi. Về sau, từ đời Ngũ Ðại, có thêm tục cúng quần áo, mũ và đồ dùng bằng giấy. Ta theo ảnh hưởng đó, cũng có tục đốt mã. 1.3.2.3. Tết Trung thu Cho đến bây giờ, vẫn chưa xác minh rõ ràng được Tết Trung thu bắt nguồn từ văn minh lúa nước của Việt Nam hay tiếp nhận từ văn hóa Trung Hoa. Có ba truyền thuyết chính được người ta biết đến nhiều nhất để nói về Trung thu đó là Hằng Nga và Hậu Nghệ, vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng và Sự tích về chú Cuội của Việt Nam. Theo các nhà khảo cổ thì hình ảnh về Trung thu đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Có lẽ Trung thu được bắt đầu từ nền văn minh lúa nước của đồng bằng Nam Trung Hoa và đồng đồng bằng châu thổ sông Hồng của Việt Nam. Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Tết Trung thu được tổ chức vào ngày rằm tháng Tám hàng năm. Lúc này là chính thu, bầu trời trong xanh, thời Tết mát mẻ, không khí trong lành. Cội nguồn của lễ Tết Trung thu nó chứa đựng những vết tích của lễ hội mùa. Nhưng đối với trẻ em Việt Nam thì đây là thời gian lễ hội đầy mơ ước. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên vào buổi tối khi Trăng Rằm vừa mới lên cao. Đồng thời trong ngày này, mọi người Trang 43 thường biếu cho ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác Bánh Trung Thu, hoa quả, trà và rượu. Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị. Đối với người Việt, đêm Trung thu mọi người vừa ăn cỗ vừa kể chuyện về trăng. Trăng là thái Âm là nơi nhiều mát lạnh với nhiều điều tốt đẹp ở đấy, theo sự tích dân gian sẽ còn có thêm thỏ ngọc, có cây đa, chú Cuội, chị Hằng. Trong Tết trung thu ngoài việc cúng gia tiên, phá cỗ, nghe kể chuyện về trăng còn có chơi đèn, các trò múa lân, múa sư tử…đã trở thành ngày hội không đối với trẻ em mà còn là của moi người dân. 1.3.2.4. Tết Hạ nguyên Trong dân gian Việt Nam, Tết Hạ Nguyên được tiến hành vào ngày mồng Một hoặc mồng Mười, cũng có thể là ngày Rằm tháng 10 Âm lịch hàng năm. Theo quan niệm của ông bà ta ngày xưa, những ngày này Thiên Đình cử thần Tam Thanh xuống trần gian để xem xét việc tốt xấu về tâu với Ngọc Hoàng. Do vậy, mọi nhà phải tiến hành làm lễ để thần Tam Thanh ban phúc lành, tránh tai họa và cũng là dịp “tiến tân” cơm gạo mới cúng tổ tiên. Người xưa đã đúc kết tục lệ này nhu sau: “Mỗi khi gạo mới giã xong Thổi cơm dâng cúng hương linh Thổ thần Nếu như không biết xa gần Gốc quên sao dễ hưởng ân sau này” Nhân Tết Hạ Nguyên mọi người đều mua quà và gạo nếp mới cùng những đặc sản lúc giao mùa Thu Đông biếu ông, bà, cha mẹ và những bậc được tôn kính để tỏ lòng hiếu thuận, biết ơn bề trên. 1.4. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng tộc và trong cả nước. Ở Việt Nam, đối tượng của thờ cúng tổ tiên được thể hiện ở 3 cấp: gia đình, làng xã, đất nước. Ở cấp độ gia đình, người Việt Nam thờ cúng ông bà, cha mẹ,… là Trang 44 những người cùng huyết thống đã chết. Đã là người Việt Nam, dù sang hèn, giàu nghèo khác nhau ai cũng thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên của mình. Đây không chỉ là vấn đề tín ngưỡng mà còn là vấn đề đạo lý, phản ánh lòng biết ơn của con cháu đối với công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Nơi thờ cúng là ở gia đình và nhà thờ họ. Ở cấp độ làng xã, người Việt còn thờ cúng những người có công với làng xã và được tôn vinh là Thành Hoàng và nơi thờ cúng ở đình làng. Ở cấp độ Nhà nước, người Việt thờ cúng những người có công đối với đất nước, Tổ quốc; như Các vua Hùng, thánh Gióng, Trần Hưng Đạo, Hồ Chủ Tịch … 1.4.1. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng tộc. Dân ta vẫn lưu truyền câu nói: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển” đó không chỉ ở ý nghĩa thiêng liêng cha mẹ sinh thành dưỡng dục nên con cái, mà còn ở chỗ trong nền kinh tế nông nghiệp diễn trình theo gia đình phụ quyền, cha mẹ chưa lo xong cho người con trai ba việc lớn là nhà, ruộng đất và lấy vợ để chúng tự lập sinh sống gia đình phụ quyền tiếp theo, thì cha mẹ nhắm mắt chưa yên. Từ quan niệm sống và tình cảm thiêng liêng mà ở người Việt (Kinh) đối với cha mẹ tôn trọng khi sống và tôn thờ khi chết. Thờ cúng tổ tiên phổ hệ kéo dài 5 đời: Thờ cúng tổ tiên phải tính lên 5 đời mới chấm dứt, lấy tôi làm chủ lễ thì phải tính là 4 đời nữa là cha, ông, cụ, kị. Sở dĩ phải làm như vậy vì theo sự biến chuyển vật chất qua ngũ hành: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy lại sinh mộc trong một chu trình biến chuyển vật chất khác. Việc thờ cúng tổ tiên lại nhớ ngày chết cúng giỗ mà không nhớ ngày sinh là vì quan niệm “nhân thân nan đắc” – sinh ra làm ... This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Chủ đề

Trắc nghiệm Sinh 12 Mẫu sơ yếu lý lịch Bài tiểu luận mẫu Hóa học 11 Tài chính hành vi Đề thi mẫu TOEIC Giải phẫu sinh lý Đơn xin việc Đồ án tốt nghiệp Lý thuyết Dow Thực hành Excel Atlat Địa lí Việt Nam adblock Bạn đang sử dụng trình chặn quảng cáo?

Nếu không có thu nhập từ quảng cáo, chúng tôi không thể tiếp tục tài trợ cho việc tạo nội dung cho bạn.

Tôi hiểu và đã tắt chặn quảng cáo cho trang web này

Từ khóa » Tín Ngưỡng Thờ Cúng Tổ Tiên Tiểu Luận