Tĩnh Dạ Tư – Lý Bạch | Levinhhuy
Có thể bạn quan tâm
levinhhuy
Sơ lược về tác giả Lý Bạch (701-762), tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê quán Tứ Xuyên. Là nhà thơ lãng mạn vĩ đại nhất của văn học Trung Hoa, cuộc đời ông phần lớn là những chuyến ngao du sơn thủy, bước chân Lý trích tiên in dấu suốt hơn nửa giang sơn Trung Hoa. 12 tuổi thuộc làu bách gia chư tử, nổi tiếng thần đồng. 20 tuổi luyện thành kiếm pháp thượng thừa, Bạch bắt đầu rời đất Thục, thực hiện chuyến đi rộng lớn: nam trải Động Đình (Hồ Nam), Tương Giang (Quảng Tây), đông suốt đất Ngô (Giang Tô), Việt (Chiết Giang). Ông kết giao hào kiệt nhân sĩ khắp nơi, mong được tiến cử quan cao, nhưng 10 năm lưu lạc mộng ấy vẫn không thành. Thì mặc kệ, Bạch tiếp tục viễn du: bắc lên Thái Nguyên (Sơn Tây), Trường An (Thiểm Tây), đông tới Tề Lỗ (Sơn Đông). Lúc này, ông đã kết giao với hầu hết danh sĩ đương thời. Không từng ứng thí, nhưng thiên tài của Lý Bạch vang dội khắp nơi. Mãi đến Thiên Bảo nguyên niên (742), được bạn thân là đạo sĩ Ngô Quân thúc giục, Lý Bạch tuổi ngoại tứ tuần mới chịu dừng chân, lên Trường An nhận Hàn lâm cung phụng, một chức quan hờ mua vui cho hoàng đế. Ở kinh đô, nơi tinh anh hội tụ, thi tài của Bạch càng được dịp phát tiết, Huyền tông (Đường Minh hoàng) rất mực hâm mộ ông[1]. Tuy vậy, bản tính không chịu được câu thúc nơi quyền quý, nên ba năm sau Bạch bỏ chức để tiếp tục cuộc sống phiêu bạt tứ phương. Năm 755, nổ ra cuộc loạn An-Sử (do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh phát động). Lý Bạch tuy là Thi tiên nhưng cũng là hiệp khách, thường hăng hái tuốt kiếm dẹp bất bình, nên ông đã theo về dưới trướng Vĩnh vương Lý Lân đang cát cứ Giang Lăng (Hồ Bắc). Lý Lân vì tranh đế vị với Đường Túc tông nên bị giết (757). Lý Bạch bị đày ra Quý châu, giữa đường lưu đày, nhờ sự bảo lãnh của Quách Tử Nghi, ông được tha. Và Trích tiên lại lưu lãng suốt một dải Giang Nam. 61 tuổi, được tin Thái úy Lý Quang Bật thống lĩnh đại quân thảo phạt An-Sử, Lý Bạch liền xách kiếm theo tòng quân giết giặc, nhưng giữa đường, ông bị bệnh mất[2]. Lý Bạch xuất khẩu thành thi, lời lời châu ngọc, làm thơ có đến hơn hai vạn bài. Nhưng phần vì tính ông phóng túng vô cương, chẳng mấy khi thèm chép lại, phần vì đang lúc loạn lạc nên tác phẩm bị thất lạc hầu hết, hiện chỉ còn hơn 900 bài. Tĩnh dạ tư Năm Khai Nguyên thứ 14 đời Đường Huyền tông (726), Lý Bạch mới 27 tuổi, đang trên bước đường hành hiệp giang hồ. Đó là vào đêm rằm tháng Chín âm lịch, trong một quán trọ ở Dương Châu (Giang Tô), động lòng nhớ quê, ông đã viết Thu tịch lữ hoài, rồi sau đó lại làm thêm bài Tĩnh dạ tư. Bài thơ chỉ vỏn vẹn 20 chữ, nhưng lại lưu truyền khắp thiên hạ, và là bài thơ mà bất cứ người Tàu nào cũng thuộc nằm lòng. 《靜夜思》 Tĩnh dạ tư 牀前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang[3] 疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương 舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyệt 低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương (Nỗi niềm đêm vắng Trăng sáng rải trước giường Ngỡ là đất phủ sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương) Ngay từ chữ đầu “Sàng” 牀 mở đầu bài thơ đã gây nhiều tranh luận. Ngày nay, ta hiểu sàng là cái giường. Hiểu vậy thì Lý Bạch thiệt là rảnh quá: buổi tối ông nằm co trên giường đánh giấc, đợi khi trăng nghiêng soi đến mới thức dậy rồi… nhớ quê, nỗi tư hương trở thành hời hợt và vô duyên lãng xẹt! Theo Từ hải, chữ “sàng” cổ có 3 nghĩa: – Cái giường để nằm; – Cái giá để gác, đặt đồ vật; như cầm sàng 琴牀 là cái giá đặt cây đàn. – Chỉ vật có hình dạng như cái giường, như hà sàng 河牀 là cái sạp bắc ra sông mà miệt Nam kỳ lục tỉnh bên ta gọi sàn nước. Đời Đường, cái gọi là “sàng” này có hai công dụng, để nằm và ngồi. Ở nghĩa này, giường được gọi hồ sàng 胡牀; nếu là chiếc giường có ghể xếp lại được (như ghế bố) thì gọi mã trát. Lý Bạch làm bài thơ này vào lúc trọng thu, đã sắp sang đông, thời tiết đó mà bê giường hoặc ghế bố ra sân để ngồi ngắm trăng thì e không hợp lý vì tỏ ra… lẩn thẩn tưng tưng. Còn một chữ “sàng” nữa, là ngân sàng 銀牀, dùng chỉ cái sạp giếng. Thời đó, người ta đào giếng theo hình vuông, thành giếng ngăn bằng vách ván. Để phòng tai nạn, miệng giếng được rào lại chỉ chừa lối đi vào lấy nước, cái bệ kê sát bên miệng giếng, chỗ để lấy nước ấy có hình thù như cái sạp, gọi là ngân sàng 銀牀, hay tỉnh sàng 井牀. Xem ra, chữ “sàng” này là thích hợp với tứ thơ nhất: cái sạp giếng y hệt ở quê nhà cùng với ánh trăng vằng vặc đã khêu dậy nỗi nhớ quê của tác giả. Chính Lý Bạch cũng từng nhắc đến sạp giếng này trong thơ mình: “Hoài dư đối tửu dạ sương bạch, Ngọc sàng kim tỉnh băng tranh vanh” 懷餘對酒夜霜白,玉牀金井冰崢嶸 (Nỗi nhớ tràn lan trong chén rượu giữa sương đêm bàng bạc; Băng đóng chênh vênh trên nắp miệng giếng trông như ngọc – “Đáp Vương thập nhị hàn dạ độc chước hữu hoài”). Hiểu chữ “sàng” theo nghĩa nào đi nữa, thì đêm ấy Lý Bạch cũng không hề giam mình trong phòng, mà đang thơ thẩn ngoài sân. Tay kiếm khách ban ngày bôn ba viễn xứ, khi đêm đến nghe lòng lắng lại để nỗi nhớ quê dâng tràn. Mở đầu bài thơ là một câu giản phác như lời nói thường: “Sàng tiền minh nguyệt quang”. Trong đêm trăng quạnh quẽ tha hương đó, Lý Bạch đã thủ thỉ với chính mình, ánh trăng bàng bạc kia cũng là nỗi cô đơn ngút ngàn đang bủa vây ông. Sang đến câu hai: “Nghi thị địa thượng sương”, một chữ “nghi” này xuyên thấu nội tâm nhà thơ lúc đó. Ngủ không xong mà thức lại càng vương, ánh mắt mờ đi trong làn sương do trăng giãi, nỗi nhớ quê bồi hồi khiến tâm thần ông thảng thốt; ở đây, chữ “sương” vừa tả ánh trăng trong bàng bạc, vừa tả cái lạnh lẽo của tiết trời, mà cũng là nỗi thê lương trong lòng viễn khách. Giật mình trấn tỉnh lại, nhận ra là ánh trăng chứ không phải sương giăng, nên bất giác ngước lên nhìn trăng, thấy trăng đất khách y hệt trăng ở quê nhà xa xôi vạn dặm, quê đó người đây cách trở, khách chỉ còn biết cúi đầu để ôm nỗi nhớ quê. Hai câu kết tuôn ra tự nhiên và thần tình đến sững sờ. Trong một động tác cúi đầu đó là bao nỗi nhớ thương chất chồng. Bài thơ tả nỗi lòng kẻ tha hương trong đêm trăng tịch mịch. Hai câu đầu là một ảo ảnh được tạo ra do nỗi cô đơn cùng cực, hai câu sau là một động tác nhẹ nhàng nhưng lại chất chứa tâm sự trùng trùng. Bài thơ không có lấy một âm thanh, mà trong ánh trăng kia, nỗi nhớ quê thét dậy mờ trời. Thơ cứ tuôn một hơi (nhất khí), câu trước dắt câu sau tuần tự theo nhau ra tự nhiên trôi chảy, không hề có chút dụng công. Chỉ là những chữ dùng giản dị được tập hợp lại, thậm chí còn phạm lỗi điệp tự (chỉ 20 chữ mà trong đó từ “minh nguyệt” được lặp lại hai lần); vậy mà nó cứ làm lòng người bồi hồi mỗi khi đọc đến. Trải ngàn năm qua, Tĩnh dạ tư vẫn được xem là “bài thơ nhớ quê hay nhất mọi thời đại” (Thiên cổ tư hương đệ nhất thi). _______ [1] Giai đoạn này, Thi thánh Đỗ Phủ viết Ẩm trung bát tiên ca ca tụng Lý Bạch: 李白一斗詩百篇 Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên 長安市上酒家眠 Trường An thị thượng tửu gia miên 天子呼來不上船 Thiên tử hô lai bất thướng thuyền 自稱臣是酒中仙 Tự xưng thần thị tửu trung tiên (Lý Bạch uống một đấu rượu làm trăm bài thơ Say ngủ giữa chợ Trường An [Có lệnh] vua vời không thèm xuống thuyền Tự xưng là tiên trong rượu) [2] Về cái chết của ông, là theo “Lý Bạch truyện” trong Tân Đường thư của Âu Dương Tu. [3] Câu đầu này có vài bản chép khác nhau: Toàn Đường thi do Khang Hy khâm định (còn gọi “Bản Khang Hy”) chép là “Sàng tiền khán nguyệt quang” (Trước giường ngắm trăng sáng). Đường thi biệt tài do Thẩm Đức Tiềm biên soạn vào đời Khang Hy (“Bản biệt tài”) chép là “Sàng tiền minh nguyệt chiếu“ (Trăng sáng soi trước giường). Trong tập thơ Đường cổ nhất khắc in vào niên hiệu Vạn Lịch triều Minh Đường nhân vạn thủ tuyệt cú (“bản Vạn Lịch”), và bản mới in khắc vào thời Càn Long Đường thi tam bách thủ (“bản Càn Long”), cùng chép là: “Sàng tiền minh nguyệt quang”.
Quắc mắt xem khinh nghìn lực sĩ/ Cúi đầu làm ngựa bé nhi đồng
Feeds: Bài viết Bình luậnTĩnh dạ tư – Lý Bạch
2017/07/10 bởi levinhhuy
Sơ lược về tác giả Lý Bạch (701-762), tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê quán Tứ Xuyên. Là nhà thơ lãng mạn vĩ đại nhất của văn học Trung Hoa, cuộc đời ông phần lớn là những chuyến ngao du sơn thủy, bước chân Lý trích tiên in dấu suốt hơn nửa giang sơn Trung Hoa. 12 tuổi thuộc làu bách gia chư tử, nổi tiếng thần đồng. 20 tuổi luyện thành kiếm pháp thượng thừa, Bạch bắt đầu rời đất Thục, thực hiện chuyến đi rộng lớn: nam trải Động Đình (Hồ Nam), Tương Giang (Quảng Tây), đông suốt đất Ngô (Giang Tô), Việt (Chiết Giang). Ông kết giao hào kiệt nhân sĩ khắp nơi, mong được tiến cử quan cao, nhưng 10 năm lưu lạc mộng ấy vẫn không thành. Thì mặc kệ, Bạch tiếp tục viễn du: bắc lên Thái Nguyên (Sơn Tây), Trường An (Thiểm Tây), đông tới Tề Lỗ (Sơn Đông). Lúc này, ông đã kết giao với hầu hết danh sĩ đương thời. Không từng ứng thí, nhưng thiên tài của Lý Bạch vang dội khắp nơi. Mãi đến Thiên Bảo nguyên niên (742), được bạn thân là đạo sĩ Ngô Quân thúc giục, Lý Bạch tuổi ngoại tứ tuần mới chịu dừng chân, lên Trường An nhận Hàn lâm cung phụng, một chức quan hờ mua vui cho hoàng đế. Ở kinh đô, nơi tinh anh hội tụ, thi tài của Bạch càng được dịp phát tiết, Huyền tông (Đường Minh hoàng) rất mực hâm mộ ông[1]. Tuy vậy, bản tính không chịu được câu thúc nơi quyền quý, nên ba năm sau Bạch bỏ chức để tiếp tục cuộc sống phiêu bạt tứ phương. Năm 755, nổ ra cuộc loạn An-Sử (do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh phát động). Lý Bạch tuy là Thi tiên nhưng cũng là hiệp khách, thường hăng hái tuốt kiếm dẹp bất bình, nên ông đã theo về dưới trướng Vĩnh vương Lý Lân đang cát cứ Giang Lăng (Hồ Bắc). Lý Lân vì tranh đế vị với Đường Túc tông nên bị giết (757). Lý Bạch bị đày ra Quý châu, giữa đường lưu đày, nhờ sự bảo lãnh của Quách Tử Nghi, ông được tha. Và Trích tiên lại lưu lãng suốt một dải Giang Nam. 61 tuổi, được tin Thái úy Lý Quang Bật thống lĩnh đại quân thảo phạt An-Sử, Lý Bạch liền xách kiếm theo tòng quân giết giặc, nhưng giữa đường, ông bị bệnh mất[2]. Lý Bạch xuất khẩu thành thi, lời lời châu ngọc, làm thơ có đến hơn hai vạn bài. Nhưng phần vì tính ông phóng túng vô cương, chẳng mấy khi thèm chép lại, phần vì đang lúc loạn lạc nên tác phẩm bị thất lạc hầu hết, hiện chỉ còn hơn 900 bài. Tĩnh dạ tư Năm Khai Nguyên thứ 14 đời Đường Huyền tông (726), Lý Bạch mới 27 tuổi, đang trên bước đường hành hiệp giang hồ. Đó là vào đêm rằm tháng Chín âm lịch, trong một quán trọ ở Dương Châu (Giang Tô), động lòng nhớ quê, ông đã viết Thu tịch lữ hoài, rồi sau đó lại làm thêm bài Tĩnh dạ tư. Bài thơ chỉ vỏn vẹn 20 chữ, nhưng lại lưu truyền khắp thiên hạ, và là bài thơ mà bất cứ người Tàu nào cũng thuộc nằm lòng. 《靜夜思》 Tĩnh dạ tư 牀前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang[3] 疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương 舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyệt 低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương (Nỗi niềm đêm vắng Trăng sáng rải trước giường Ngỡ là đất phủ sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương) Ngay từ chữ đầu “Sàng” 牀 mở đầu bài thơ đã gây nhiều tranh luận. Ngày nay, ta hiểu sàng là cái giường. Hiểu vậy thì Lý Bạch thiệt là rảnh quá: buổi tối ông nằm co trên giường đánh giấc, đợi khi trăng nghiêng soi đến mới thức dậy rồi… nhớ quê, nỗi tư hương trở thành hời hợt và vô duyên lãng xẹt! Theo Từ hải, chữ “sàng” cổ có 3 nghĩa: – Cái giường để nằm; – Cái giá để gác, đặt đồ vật; như cầm sàng 琴牀 là cái giá đặt cây đàn. – Chỉ vật có hình dạng như cái giường, như hà sàng 河牀 là cái sạp bắc ra sông mà miệt Nam kỳ lục tỉnh bên ta gọi sàn nước. Đời Đường, cái gọi là “sàng” này có hai công dụng, để nằm và ngồi. Ở nghĩa này, giường được gọi hồ sàng 胡牀; nếu là chiếc giường có ghể xếp lại được (như ghế bố) thì gọi mã trát. Lý Bạch làm bài thơ này vào lúc trọng thu, đã sắp sang đông, thời tiết đó mà bê giường hoặc ghế bố ra sân để ngồi ngắm trăng thì e không hợp lý vì tỏ ra… lẩn thẩn tưng tưng. Còn một chữ “sàng” nữa, là ngân sàng 銀牀, dùng chỉ cái sạp giếng. Thời đó, người ta đào giếng theo hình vuông, thành giếng ngăn bằng vách ván. Để phòng tai nạn, miệng giếng được rào lại chỉ chừa lối đi vào lấy nước, cái bệ kê sát bên miệng giếng, chỗ để lấy nước ấy có hình thù như cái sạp, gọi là ngân sàng 銀牀, hay tỉnh sàng 井牀. Xem ra, chữ “sàng” này là thích hợp với tứ thơ nhất: cái sạp giếng y hệt ở quê nhà cùng với ánh trăng vằng vặc đã khêu dậy nỗi nhớ quê của tác giả. Chính Lý Bạch cũng từng nhắc đến sạp giếng này trong thơ mình: “Hoài dư đối tửu dạ sương bạch, Ngọc sàng kim tỉnh băng tranh vanh” 懷餘對酒夜霜白,玉牀金井冰崢嶸 (Nỗi nhớ tràn lan trong chén rượu giữa sương đêm bàng bạc; Băng đóng chênh vênh trên nắp miệng giếng trông như ngọc – “Đáp Vương thập nhị hàn dạ độc chước hữu hoài”). Hiểu chữ “sàng” theo nghĩa nào đi nữa, thì đêm ấy Lý Bạch cũng không hề giam mình trong phòng, mà đang thơ thẩn ngoài sân. Tay kiếm khách ban ngày bôn ba viễn xứ, khi đêm đến nghe lòng lắng lại để nỗi nhớ quê dâng tràn. Mở đầu bài thơ là một câu giản phác như lời nói thường: “Sàng tiền minh nguyệt quang”. Trong đêm trăng quạnh quẽ tha hương đó, Lý Bạch đã thủ thỉ với chính mình, ánh trăng bàng bạc kia cũng là nỗi cô đơn ngút ngàn đang bủa vây ông. Sang đến câu hai: “Nghi thị địa thượng sương”, một chữ “nghi” này xuyên thấu nội tâm nhà thơ lúc đó. Ngủ không xong mà thức lại càng vương, ánh mắt mờ đi trong làn sương do trăng giãi, nỗi nhớ quê bồi hồi khiến tâm thần ông thảng thốt; ở đây, chữ “sương” vừa tả ánh trăng trong bàng bạc, vừa tả cái lạnh lẽo của tiết trời, mà cũng là nỗi thê lương trong lòng viễn khách. Giật mình trấn tỉnh lại, nhận ra là ánh trăng chứ không phải sương giăng, nên bất giác ngước lên nhìn trăng, thấy trăng đất khách y hệt trăng ở quê nhà xa xôi vạn dặm, quê đó người đây cách trở, khách chỉ còn biết cúi đầu để ôm nỗi nhớ quê. Hai câu kết tuôn ra tự nhiên và thần tình đến sững sờ. Trong một động tác cúi đầu đó là bao nỗi nhớ thương chất chồng. Bài thơ tả nỗi lòng kẻ tha hương trong đêm trăng tịch mịch. Hai câu đầu là một ảo ảnh được tạo ra do nỗi cô đơn cùng cực, hai câu sau là một động tác nhẹ nhàng nhưng lại chất chứa tâm sự trùng trùng. Bài thơ không có lấy một âm thanh, mà trong ánh trăng kia, nỗi nhớ quê thét dậy mờ trời. Thơ cứ tuôn một hơi (nhất khí), câu trước dắt câu sau tuần tự theo nhau ra tự nhiên trôi chảy, không hề có chút dụng công. Chỉ là những chữ dùng giản dị được tập hợp lại, thậm chí còn phạm lỗi điệp tự (chỉ 20 chữ mà trong đó từ “minh nguyệt” được lặp lại hai lần); vậy mà nó cứ làm lòng người bồi hồi mỗi khi đọc đến. Trải ngàn năm qua, Tĩnh dạ tư vẫn được xem là “bài thơ nhớ quê hay nhất mọi thời đại” (Thiên cổ tư hương đệ nhất thi). _______ [1] Giai đoạn này, Thi thánh Đỗ Phủ viết Ẩm trung bát tiên ca ca tụng Lý Bạch: 李白一斗詩百篇 Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên 長安市上酒家眠 Trường An thị thượng tửu gia miên 天子呼來不上船 Thiên tử hô lai bất thướng thuyền 自稱臣是酒中仙 Tự xưng thần thị tửu trung tiên (Lý Bạch uống một đấu rượu làm trăm bài thơ Say ngủ giữa chợ Trường An [Có lệnh] vua vời không thèm xuống thuyền Tự xưng là tiên trong rượu) [2] Về cái chết của ông, là theo “Lý Bạch truyện” trong Tân Đường thư của Âu Dương Tu. [3] Câu đầu này có vài bản chép khác nhau: Toàn Đường thi do Khang Hy khâm định (còn gọi “Bản Khang Hy”) chép là “Sàng tiền khán nguyệt quang” (Trước giường ngắm trăng sáng). Đường thi biệt tài do Thẩm Đức Tiềm biên soạn vào đời Khang Hy (“Bản biệt tài”) chép là “Sàng tiền minh nguyệt chiếu“ (Trăng sáng soi trước giường). Trong tập thơ Đường cổ nhất khắc in vào niên hiệu Vạn Lịch triều Minh Đường nhân vạn thủ tuyệt cú (“bản Vạn Lịch”), và bản mới in khắc vào thời Càn Long Đường thi tam bách thủ (“bản Càn Long”), cùng chép là: “Sàng tiền minh nguyệt quang”. Chia sẻ:
- Chia sẻ
- X
Có liên quan
Đăng trong Thơ phú | Gửi bình luận
Comments RSS
Bình luận về bài viết này Hủy trả lời
Bình luận mới nhất
tuyenhaiphong trong Chú Hỏa và công nghiệp gia tộc… Nghiêm Xuân Tuyến trong Họ của người Việt Ẩn danh trong “Câu thơ Vương Bột… Ẩn danh trong Cuộc duyệt binh máu lửa của Vi… Lukas Carter trong “Câu thơ Vương Bột… Michael Meza trong Pho tượng thờ Ẩn danh trong Chuyện chữ nghĩa: Môn đăng hộ… Ẩn danh trong Chuyện chữ nghĩa: Môn đăng hộ… Ẩn danh trong Tiến sĩ giảng Phật Trần lê trực trong Nguyễn Biểu – Sứ thần ăn… Ẩn danh trong Lương châu từ Ẩn danh trong Ném đá nghìn năm Ẩn danh trong Câu đối của giáo sư Vũ Kh… Ẩn danh trong Lấy nước làm trọng hay lấy củi… Hoang Minh Le Nguyen trong Ném đá nghìn năm bạn hữu tới thăm
Tứ hải huynh đệ
My Facebook
My Facebook
-
Bài viết mới
- Chú Hỏa và công nghiệp gia tộc Hui-Bon-Hoa
- Cuộc duyệt binh máu lửa của Việt Minh
- Tháng cô hồn
- Lấy nước làm trọng hay lấy củi làm trọng
- Chuyện xưa tích cũ: một vụ “Đầu thú” đời Thanh
Bài được chú ý
- Kim Thánh Thán (Jin Shengtan)
- Chuyện bùa phép
- Tượng Mao Trạch Đông
- Lá cờ thêu sáu chữ vàng?
- Chuyện chữ nghĩa: Môn đăng hộ đối
- Lan man máy nổ đuôi tôm
- Cha con Mạc Cửu và đất Hà Tiên
- Chuyện nhảm "râu ria"
- 5 "bửu bối" trong khuê phòng của phụ nữ Trung Hoa cổ đại
- Kéo cày thay trâu
Chuyên mục
Chuyên mục Chọn chuyên mục Ảnh Chuyện chữ nghĩa Học sử Làm người ai làm thế! Ngồi đồng tán dóc Những người tôi đã gặp Tham lựng Quán Bựa Thơ phú Truyện ngắn Uncategorized Viết cho bạn đồng môn Viết lại Tây DuThư viện
Thư viện Thời gian Tháng Mười Một 2017 (1) Tháng Mười 2017 (1) Tháng Tám 2017 (3) Tháng Bảy 2017 (68) Tháng Sáu 2016 (1) Tháng Năm 2016 (3) Tháng Tư 2016 (1) Tháng Ba 2016 (7) Tháng Hai 2016 (1) Tháng Một 2016 (4) Tháng Mười Hai 2015 (4) Tháng Mười Một 2015 (10) Tháng Mười 2015 (5) Tháng Chín 2015 (7) Tháng Tám 2015 (12) Tháng Bảy 2015 (6) Tháng Năm 2015 (1) Tháng Tư 2015 (1) Tháng Ba 2015 (3) Tháng Hai 2015 (2) Tháng Một 2015 (2) Tháng Mười Hai 2014 (6) Tháng Mười Một 2014 (4) Tháng Mười 2014 (4) Tháng Chín 2014 (3) Tháng Tám 2014 (3) Tháng Sáu 2014 (1) Tháng Tư 2014 (1) Tháng Ba 2014 (2) Tháng Hai 2014 (3) Tháng Một 2014 (2) Tháng Mười Hai 2013 (3) Tháng Mười 2013 (1) Tháng Bảy 2013 (5) Tháng Sáu 2013 (2) Tháng Năm 2013 (5) Tháng Ba 2013 (1) Tháng Hai 2013 (1) Tháng Một 2013 (3) Tháng Mười Một 2012 (2) Tháng Mười 2012 (5) Tháng Chín 2012 (1) Tháng Mười 2011 (1) Tháng Chín 2011 (1) Tháng Tám 2011 (2) Tháng Bảy 2011 (4) Tháng Sáu 2011 (3) Tháng Năm 2011 (5) Tháng Tư 2011 (5) Tháng Ba 2011 (5) Tháng Hai 2011 (6)Blogroll
- Bùi An
- Cafestyle
- Cún
- Cua Đồng
- Hà Bắc
- Hà Linh
- HTH
- Kênh Kịa
- Lưu Giao
- Maria Giáng Hiền
- Mô Tê Răng Rứa
- Phay Van
- QX
- Sông Hàn
- Small
- SUV
- Thông Reo
- Thuận Phong
- Trà Hâm Lại
- Trần Phan
- Vàng Trên Cát
- Xôi Thịt
- Đông A
- Đặng Thiên Sơn
Hương quan hà xứ
- Chân trời cũ
- Hội Ái Hữu Biên Hòa
- Miền Tây
- Trường Ngô Quyền
- Việt du ký
Nghển cổ cò
- Hoàng Lộc
- Nguyễn Quốc Trụ
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phọt Phẹt
- Quán Bựa
Blog tại WordPress.com.
WPThemes.
Trang này sử dụng cookie. Tìm hiểu cách kiểm soát ở trong: Chính Sách Cookie- Bình luận
- Đăng lại
- Theo dõi Đã theo dõi
-
levinhhuy Đã có 98 người theo dõi Theo dõi ngay - Đã có tài khoản WordPress.com? Đăng nhập.
-
-
-
levinhhuy - Theo dõi Đã theo dõi
- Đăng ký
- Đăng nhập
- URL rút gọn
- Báo cáo nội dung
- Xem toàn bộ bài viết
- Quản lý theo dõi
- Ẩn menu
-
Từ khóa » Tĩnh Dạ Tứ Lý Bạch
-
Bài Thơ: Tĩnh Dạ Tứ - 靜夜思 (Lý Bạch - 李白) - Thi Viện
-
Tĩnh Dạ Tứ – Cảm Nghĩ Trong đêm Thanh Tĩnh ( Lý Bạch)
-
Tác Phẩm: Tĩnh Dạ Tứ - Giỏi Văn
-
Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tĩnh Dạ Tứ Của Lí Bạch
-
Phân Tích Bài Thơ Tĩnh Dạ Tứ - Văn 7 (9 Mẫu)
-
Phân Tích Bài Thơ Tĩnh Dạ Tứ Của Lí Bạch - Bài Kiểm Tra
-
Cảm Nghĩ Trong đêm Thanh Tĩnh (Tĩnh Dạ Tứ)
-
Văn Mẫu Lớp 7: Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tĩnh Dạ Tứ Của Lý Bạch
-
Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tĩnh Dạ Tứ Của Lý Bạch - Kiến Thức Văn Học
-
Bài Thơ Tĩnh Dạ Tứ (Lý Bạch) | GợiÝ.vn
-
TĨNH DẠ TỨ (Lý Bạch) Sàng Tiền Minh Nguyệt Quang Nghi Thị địa ...
-
Dịch Thơ Bài Tĩnh Dạ Tứ | Blog Của Tôi