Tình Hình Thực Hiện Các Mục Tiêu Và Chỉ Tiêu Phát Triển Bền Vững Về ...

Tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển bền vững về môi trường ở Việt Nam

06/12/2021

    Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (PTBV), được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, kêu gọi sự chung tay hành động xóa đói giảm nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo đến năm 2030 tất cả cư dân toàn cầu đều được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Chương trình đưa ra 17 mục tiêu PTBV (SDG), 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai.

    Thực hiện cam kết quốc tế, Việt Nam đã quốc gia hóa Chương trình Nghị sự 2030 thành 17 mục tiêu chung (VSDG) và 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện và bối cảnh phát triển của Việt Nam tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở 17/115 mục tiêu cụ thể được Thủ tướng Chính phủ giao, ngày 13/12/2018, Bộ TN&MT đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện các mục tiêu PTBV Việt Nam đến 2030 của ngành TN&MT tại Quyết định số 3756/QĐ-BTNMT với 40 chỉ tiêu PTBV. Bài viết giới thiệu kết quả thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu PTBV về môi trường ở Việt Nam đến năm 2020.

    1. Tổng quan tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu PTBV về môi trường trên thế giới

    Trong các năm 2020, 2025, 2030 là những năm cơ sở để toàn bộ thế giới nhìn lại các kết quả đã thực hiện, xác định các khó khăn, thách thức phải đối mặt, từ đó đề ra các định hướng trong thời gian tiếp theo. Việc đánh giá tiến trình thực hiện các mục tiêu PTBV của mỗi quốc gia được dựa trên chỉ số SDG (SDG index). Theo đó, các quốc gia được xếp hạng tương ứng với số điểm đạt được của chỉ số SDG. Năm 2021, có 165 quốc gia được xếp hạng [3]. 20 quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng chỉ số SDG chính là 20 quốc gia đi đầu trong tiến trình triển khai các mục tiêu PTBV, ngoại trừ Croatia đều là các quốc gia thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Ba quốc gia tại châu Phi đang xếp cuối Bảng xếp hạng (Chad, Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi). Nhật Bản là quốc gia đi đầu tại Châu Á trong tiến trình thực hiện mục tiêu SDG (xếp thứ 18/165). Đông và Nam Á có nhiều tiến bộ về SDGs kể từ khi thông qua các mục tiêu vào năm 2015.

    Các quốc gia có thu nhập thấp đạt chỉ số SDG thấp hơn, có nghĩa là con đường tiến tới PTBV đến năm 2030 sẽ bị chậm hơn. Điều này một phần là do bản chất của các mục tiêu PTBV, tập trung phần lớn vào việc chấm dứt tình trạng nghèo cùng cực và cung cấp cho tất cả mọi người khả năng tiếp cận các dịch vụ và cơ sở hạ tầng cơ bản (SDG 1-9). Bên cạnh đó, là do thiếu cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách phù hợp để có thể xử lý hiệu quả các thách thức về môi trường (SDG 12-15). Đặc biệt, đại dịch Covid đã làm đảo ngược các tiến bộ đạt được trong thực hiện các mục tiêu PTBV tại các quốc gia này, nhất là tiến bộ trong việc chấm dứt tình trạng nghèo cùng cực và cung cấp khả năng tiếp cận các dịch vụ và cơ sở hạ tầng cơ bản liên quan đến việc thực hiện SDG 3 (sức khỏe tốt và hạnh phúc) và SDG 8 (việc làm bền vững và tăng trưởng kinh tế). Tuy nhiên, ngay cả với các nước OECD cũng phải đối mặt với những thách thức trong việc đạt được một số SDG. Thậm chí trước đại dịch, các nước thu nhập cao cũng chưa đạt được nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực tiêu dùng và sản xuất bền vững, hành động khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học (SDGs 12-15). [3]

    Môi trường là một trong các trụ cột quan trọng của PTBV. Lĩnh vực môi trường trong các mục tiêu PTBV bao gồm 15/17 mục tiêu SDGs (ngoại trừ SDG 10 về giảm bất bình đẳng và SDG 16 về hòa bình và công lý) đi cùng với 93 chỉ tiêu giám sát được đưa ra bởi Ban Thư ký UNEP vào tháng 9/2018. Tuy nhiên, sau quá trình đánh giá năm 2020 của Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc, số lượng các chỉ tiêu SDG môi trường giảm xuống còn 92 [5]. UNEP đã có đánh giá kết quả thực hiện các SDGs môi trường tại từng khu vực trên thế giới bao gồm: châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu và châu Đại Dương. Năm 2018 chỉ có 30/93 chỉ tiêu có đủ dữ liệu đánh giá (chiếm tỉ lệ 32%) bao gồm 22 chỉ tiêu có sự cải thiện theo xu hướng tích cực (đạt 73%) và 8 chỉ tiêu chỉ có thay đổi nhỏ hoặc có xu hướng tiêu cực (chiếm 27%) [4]. Năm 2020, tỷ lệ số lượng các chỉ tiêu không có dữ liệu đánh giá đã giảm xuống còn 58%. Trong 39/92 chỉ tiêu có đủ dữ liệu đánh giá (tăng 10% so với năm 2018), số lượng chỉ tiêu có xu hướng tích cực là 26 (đạt 67%) và xu hướng tiêu cực là 13 (chiếm 33%) [5].

    2. Tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu PTBV về môi trường tại Việt Nam

    Với quyết tâm cao và sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thực hiện các mục tiêu PTBV. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng thứ 51/165 [7] quốc gia về điểm chỉ số SDG. Thứ hạng này đã được cải thiện liên tục qua các năm, năm 2016 Việt Nam xếp thứ 88/149 quốc gia, năm 2017 xếp thứ 68/157 quốc gia, năm 2019 xếp thứ 54/162 quốc gia và năm 2020 xếp thứ 49/166 nước. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp thứ 2 chỉ sau Thái Lan (năm 2020). [1]

    Trong 17 mục tiêu VSDG, 115 mục tiêu cụ thể theo Quyết định số 622/QĐ-TTg, lĩnh vực môi trường có 6/17 mục tiêu VSDG với 17/115 mục tiêu cụ thể (3.8.a, 6.1.d, 6.3.b, 6.4, 6.5, 6.6, 12.2.a, 12.4.b, 12.5.a, 13.1.a, 13.3.a, 14.1, 14.3, 15.1, 15.5, 15.6, 15.8). Các mục tiêu cụ thể này được Bộ TNMT cụ thể hóa thành 40 chỉ tiêu PTBV tại Kế hoạch hành động thực hiện các mục tiêu PTBV Việt Nam đến 2030 của ngành TN&MT ban hành ban hành theo Quyết định số 3756/QĐ-BTNMT ngày 13/12/2018.

    Kết quả đánh giá thực hiện đến năm 2020 cho thấy, trong 17 mục tiêu cụ thể, có 3 mục tiêu cơ bản đạt được lộ trình đề ra, bao gồm mục tiêu 4 (6.1d) về đảm bảo khả năng tiếp cận đầy đủ và công bằng với nước uống và sinh hoạt an toàn, trong khả năng chi trả cho tất cả mọi người có 1/1 chỉ tiêu đạt được lộ trình 2020; mục tiêu 5 (6.3b) về cải thiện chất lượng nước có 2/3 chỉ tiêu đạt được, 1/3 chỉ tiêu không đạt; mục tiêu 7 (6.5) về thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông có 2/2 chỉ tiêu đạt được.

    Trong khi đó, có 2 mục tiêu cụ thể không đạt lộ trình đề ra đến năm 2020 bao gồm mục tiêu 9 (12.2a) về cơ bản hoàn thành công tác điều tra, đánh giá và quy hoạch nhằm đạt được khai thác hợp lý, bền vững và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản có 5/6 chỉ tiêu không đạt lộ trình 2020, 1/6 chỉ tiêu không có lộ trình 2020 và mục tiêu 14 (15.1) về đảm bảo sự bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng, các dịch vụ hệ sinh thái có 1/1 chỉ tiêu không đạt.

    Kết quả đánh giá cũng cho thấ,  3/17 mục tiêu cụ thể mới hoàn thành lộ trình 2020 đối với 50% chỉ tiêu, 50% chỉ tiêu còn lại không có số liệu (bao gồm mục tiêu 2 (12.4b) về quản lý tốt chất thải nguy hại, cải thiện và phục hồi môi trường, mục tiêu 15 (15.5) về tiếp tục thực hiện những hành động cấp thiết để ngăn chặn và tiến đến chấm dứt sự suy thoái nơi cư trú tự nhiên các hệ sinh thái, bảo vệ và ngăn chặn nguy cơ tuyệt chủng của các loài động, thực vật nguy cấp, mục tiêu 17 (15.8) về tăng cường các biện pháp ngăn ngừa, kiểm soát và phòng trừ các loài sinh vật ngoại lai xâm hại đối với các hệ sinh thái đất và nước; tăng cường quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen; riêng mục tiêu 2 bao gồm 1/2 chỉ tiêu đạt lộ trình 2020, 1/2 chỉ tiêu không đạt).

    Bên cạnh đó, có 4/17 mục tiêu cụ thể có 50% chỉ tiêu không đạt lộ trình 2020, 50% chỉ tiêu không có số liệu (bao gồm mục tiêu 1 (3.8a) về đẩy mạnh phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường, mục tiêu 3 (12.5a) về giảm đáng kể lượng chất thải phát sinh, tăng cường giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên chất thải, mục tiêu 6 (6.4) bảo đảm việc khai thác nước không vượt qua ngưỡng giới hạn khai thác đối với sông, không vượt quá trữ lượng có thể khai thác đối với các tầng chứa nước, mục tiêu 8 (6.6) bảo vệ và phục hồi các nguồn nước và hệ sinh thái liên quan đến nước). Ngoài ra, 2 mục tiêu chưa có số liệu đầy đủ (bao gồm mục tiêu 11 (13.3a) về giáo dục, nâng cao nhận thức, năng lực và thể chế trong cảnh báo sớm, ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ rủi ro thiên tai với 3/3 chỉ tiêu chưa có số liệu thống kê đầy đủ, mục tiêu 16 (15.6) về đảm bảo chia sẻ công bằng và bình đẳng lợi ích từ việc sử dụng các nguồn gen và tăng cường tiếp cận hợp lý các nguồn gen theo cam kết quốc tế với 2/2 chỉ tiêu chưa có số liệu).

    Đối với 3 mục tiêu còn lại, chưa đánh giá chính xác được do một số chỉ tiêu không quy định lộ trình cho năm 2020 (bao gồm mục tiêu 10 (13.1a) về tăng cường khả năng chống chịu và thích nghi với rủi ro liên quan tới biến đổi khí hậu, ứng phó với thiên tai và các thảm họa tự nhiên khác với 1 chỉ tiêu đạt lộ trình 2020, 1 chỉ tiêu không đạt, 1 chỉ tiêu ko có lộ trình, mục tiêu 12 (14.1) về ngăn ngừa, giảm đáng kể và kiểm soát được các loại ô nhiễm biển với 1 chỉ tiêu không đạt, 2 chỉ tiêu không có lộ trình; mục tiêu 13 (14.3) về giảm thiểu và xử lý tác động của axít hóa đại dương, ưu tiên việc tăng cường hợp tác khoa học ở tất cả các cấp trong bối cảnh biến đổi khí hậu có 1 chỉ tiêu không đạt, 1 chỉ tiêu không có lộ trình).

    Như vậy, trong số 35/40 chỉ tiêu có quy định lộ trình cho năm 2020, 11 chỉ tiêu đã hoàn thành lộ trình (chiếm tỉ lệ 27,5%), 14 chỉ tiêu chưa hoàn thành lộ trình đến năm 2020 (chiếm tỉ lệ 35%), có 10 chỉ tiêu chưa có số liệu thống kê (chiếm tỉ lệ 25%) (Hình 1). Trong số 14 chỉ tiêu chưa đạt lộ trình 2020, có 9 chỉ tiêu có thể cải thiện theo xu hướng tích cực (Chỉ tiêu 2.2; 6.1; 8.1; 9.1; 9.3; 9.4; 10.2; 12.1; 14.1) và có triển vọng hoàn thành lộ trình 2025 và 2030. Trong 10 chỉ tiêu chưa có số liệu thống kê, có một số chỉ tiêu là chưa được triển khai do không có quy định thực hiện (13.1, 15.2, 16.1, 17.2). [6]

Hình 1. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu PTBV ngành TN&MT đến năm 2020 [6]

    3. Một số khó khăn, thách thức và đề xuất giải pháp

    Tuy đạt kết quả khả quan trong thực hiện các mục tiêu PTBV nói chung, song Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức ở phía trước để hoàn thành các mục tiêu PTBV đặt ra đến năm 2030 trong đó có các mục tiêu PTBV về môi trường. Đại dịch Covid-19 đã có những tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu, làm thay đổi mọi dự báo và đặt ra những thách thức và nguy cơ khiến thế giới sẽ khó hoàn thành các mục tiêu PTBV đến năm 2030 và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Lần đầu tiên kể từ khi áp dụng SDGs vào năm 2015, điểm chỉ số SDG trung bình toàn cầu năm 2020 đã giảm so với các năm trước: sự sụt giảm trên diện rộng do tỷ lệ đói nghèo và thất nghiệp gia tăng sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát [1]. Đại dịch đã tác động đến cả ba khía cạnh của PTBV: kinh tế - xã hội và môi trường. Không thể có sự PTBV và phục hồi kinh tế trong khi đại dịch đang hoành hành. Bên cạnh đó, hệ thống cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ, việc thực thi các chính sách đã ban hành chưa hiệu quả, hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính, về cơ sở hạ tầng, khoa học và công nghệ cũng sẽ là những thách thức đối với Việt Nam. Ngoài ra, khoảng trống về dữ liệu và độ trễ thời gian của dữ liệu cũng cho thấy sự cần thiết phải đầu tư hơn nữa vào năng lực thống kê để có đủ dữ liệu đánh giá tiến trình thực hiện SDG. Trong 40 chỉ tiêu PTBV về môi trường ở Việt Nam, có đến 25% chỉ tiêu chưa có số liệu thống kê [6].

    Để tiếp tục gặt hái thành công và tiến tới đạt được những mục tiêu PTBV nói chung, mục tiêu PTBV về môi trường nói riêng, Việt Nam cần quyết tâm vượt qua những khó khăn trước mắt, biến thách thức thành cơ hội, huy động sức mạnh của toàn xã hội, trong đó tập trung vào các giải pháp: (i) Xây dựng đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch để quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn tài nguyên cho phát triển, giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. (ii) Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tài nguyên và môi trường. (iii) Huy động và sử dụng nguồn lực tài chính một cách hiệu quả. (iv) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, hợp tác hội nhập quốc tế sâu rộng.

ThS. Hoàng Thị Hiền, ThS. Nguyễn Thế Thông, ThS. Dương Thị Phương Anh

Viện Chiến lược, chính sách, tài nguyên và môi trường

Bộ Tài nguyên và Môi trường

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 11/2021)

       Tài liệu tham khảo

  1. Chính phủ, 2021, Báo cáo quốc gia năm 2020-Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu PTBV
  2. Chính phủ, 2021, Báo cáo số 83/BC-CP về công tác bảo vệ môi trường năm 2020
  3. Jeffrey Sachs et. al, 2021, Sustainable Development 2021-The Decade of Action for the Sustainable Development Goals
  4. UNEP (2019), Measuring progress: Towards achieving the environmental dimension of the SDGs, ISBN: 978-807-3750-9
  5. UNEP (2021), Measuring progress environment and the SDGs, ISBN No: 978-92-807-3855-1
  6. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, 2021, Báo cáo Tổng kết Nghiên cứu, phân tích việc thực hiện các mục tiêu PTBV (SDGs) của Liên hợp quốc, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2021 và đề xuất giải pháp cho Việt Nam
  7. https://dashboards.sdgindex.org/rankings

Từ khóa » Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững Tại Việt Nam