Tôn Thất – Wikipedia Tiếng Việt

Họ Tôn Thất

sửa

Ban đầu danh hiệu được đặt Tông Thất, với chữ "Tông" (宗) trong từ "tổ tông". Tuy nhiên do kỵ tên huý vua Thiệu Trị, nên Nhà Nguyễn đã đổi sang dùng chữ Tôn.

Họ Tôn Thất được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các Chúa Nguyễn (vốn là họ Nguyễn Phúc), từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần, mỗi Chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm Chúa và các anh em trai của Chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của Chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ Gia Long. Tuy nhiên, nam nữ 2 dòng họ vẫn không thể nào kết hôn với nhau được cho dù đã qua 6, 7 đời.

Gia phả Hoàng tộc nhà Nguyễn viết:

"Ngày trước, triều Nguyễn chúng ta là họ Nguyễn Văn. Xem như ngài Trừng quốc công, thân sinh ra Đức Triệu Tổ Tịnh Hoàng đế (Nguyễn Kim), huý là Nguyễn Văn Lưu thì đủ rõ. Đến triều Minh Mạng (1823), lại phân biệt ra Tôn Thất Nguyễn Phúc và Công Tánh Nguyễn Hựu, Tôn Thất Nguyễn Phúc là những người đã đi theo Đức Nguyễn Hoàng trong lúc Ngài vào trấn thủ ở Phương Nam, còn những kẻ ở lại ngoài Bắc đều lấy họ Công Tánh Nguyễn Hựu. Hiện bây giờ người ta chỉ để hoặc Tôn Thất hoặc Nguyễn Hựu mà thôi. Ví dụ Tôn Thất Mổ hoặc Nguyễn Hựu Mổ mà thôi."

Họ Tôn Nữ

sửa

Họ Tôn Nữ khởi sinh từ việc đặt danh vị cho các thành viên là con cháu của Hoàng tử trong Hoàng tộc nhà Nguyễn. Việc gọi danh vị của thành viên được quy định rất gắt gao vì đây là vấn đề địa vị. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Vua Minh Mạng đã quy định cách gọi con cháu của Hoàng tử, tức các người cháu trực hệ của ông như sau:

Từ trước đến nay, con các Hoàng tử cũng gọi là Công tử, theo lẽ chưa hợp. Cho tự nay về sau phàm con Hoàng tử gọi là Hoàng tôn, cháu Hoàng tử gọi là Hoàng tằng tôn, con của Tằng tôn gọi là Hoàng huyền tôn, con gái cũng theo lệ ấy. Không phải các hàng ấy thì không được lạm xưng. Làm trái thì trị tội theo luật.
— Đại Nam thực lục - tập 2, Thánh Tổ Nhân Hoàng đế bản kỷ

Như vậy, dựa theo quy định này, vấn đề về xưng hô trong hoàng thất như sau:

  • Hoàng tử là con trai của Hoàng đế: lúc này thì các Hoàng tử, dù phong tước Công hay chưa, đều có thân phận là "Con trai của Hoàng đế", do đó các con trai và con gái đều là "Cháu trai (gái) của Hoàng đế", được gọi là Hoàng tôn (皇孫) dành cho trai, và Hoàng tôn nữ (皇孫女) dành cho gái. Càng về sau, càng sẽ thêm thành tố Tằng tôn (曾孫) và Huyền tôn (玄孫).
  • Hoàng tử là anh em chú bác của Hoàng đế: lúc này thì các Hoàng tử, đa phần đã là được phong tước Công, đều có quan hệ xa với Hoàng đế, không còn trên danh nghĩa hậu duệ nữa. Do vậy, cách gọi con trai và con gái của họ đều giống như cách gọi các Hoàng thân thế hệ xa có tước Công, tức Công tử (公子) dành cho con trai và Công nữ (公女) dành cho con gái. Dưới nữa, cũng theo như trên, là Công tôn nữ (公孫女), tức cháu nội gái của tước Công, rồi Công tằng tôn nữ (公曾孫女) nếu là cháu cố gái của tước Công, và Công huyền tôn nữ (公玄孫女) khi là cháu chắt gái của tước Công. Và để đơn giản các đời kế tiếp chỉ gọi là Tôn Nữ, với ý nghĩa là cháu gái.

Do đó, trong khi nam giới thuộc nhánh thừa kế mang họ Nguyễn Phúc, nam giới không thuộc nhánh thừa kế mang họ Tôn Thất, thì nữ giới bất kể sinh ra ở nhánh nào, sau cùng đều mang họ Tôn Nữ. Cùng với đó, mặc dù ban đầu là cùng chữ 孫, nhưng Tôn Nữ có sự liên hệ với Tôn Thất khi cùng xuất khởi từ dòng họ nhà Nguyễn, và đương nhiên cả hai đều không có liên hệ nào với họ Tôn bên ngoài. Để đồng bộ với họ Tôn Thất, về sau chữ "Tôn" của họ Tôn Nữ cũng được viết là 尊 thay vì 孫.

Từ khóa » Tôn Thất Là Gì