Tông Huấn Niềm Vui Yêu Thương (amoris Laetitia) – Bản Dịch đầy đủ

Lm. Lê Công Đức dịch

CHƯƠNG 1 – 4

Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng

NIỀM VUI YÊU THƯƠNG

(AMORIS LAETITIA)

về tình yêu trong Gia đình

của Đức Thánh Cha PHANXICÔ

gửi các giám mục, linh mục, phó tế,

những người thánh hiến,

các đôi vợ chồng Kitô hữu

và tất cả các tín hữu

*************************

  1. Niềm Vui Yêu Thương được các gia đình kinh nghiệm cũng là niềm vui của Giáo Hội. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận, giữa bao dấu hiệu khủng hoảng trong cơ chế hôn nhân, “khát vọng kết hôn và xây dựng gia đình vẫn sống động, nhất là nơi người trẻ, và đây là một nguồn cảm hứng cho Giáo Hội”.[1] Như sự đáp ứng khát vọng đó, “lời loan báo của Kitô giáo về gia đình quả thực là tin vui”.[2]
  1. Tiến trình Thượng Hội Đồng đã cho phép có một sự khảo sát về hoàn cảnh các gia đình trong thế giới hôm nay, và nhờ đó có một cái nhìn rộng hơn và một ý thức đổi mới về tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình. Tính phức tạp của các vấn đề nổi lên cho thấy cần phải tiếp tục thảo luận công khai về một số vấn nạn giáo thuyết, luân lý, linh đạo và mục vụ. Suy nghĩ của các mục tử và các nhà thần học, nếu trung thành với Giáo Hội, nếu chân thật, thực tiễn và sáng tạo, sẽ giúp chúng ta đạt được sự sáng tỏ nhiều hơn. Những tranh luận diễn ra trên các phương tiện truyền thông, trong một số sách báo, và ngay giữa các thừa tác viên của Giáo Hội, từ sự hăm hở quá đáng trông đợi một sự thay đổi hoàn toàn mà không suy ngẫm hay đặt nền cho đủ kỹ, cho tới thái độ muốn giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các qui tắc chung chung hay bằng cách rút ra những kết luận không thích đáng từ những quan điểm thần học cá biệt.
  1. Vì “thời gian quan trọng hơn không gian”, nên tôi muốn nêu rõ rằng không phải mọi bàn cãi về các vấn đề giáo thuyết, luân lý hay mục vụ đều cần phải được giải quyết bởi những can thiệp của huấn quyền. Sự thống nhất về giáo huấn và thực hành hẳn nhiên là cần thiết trong Giáo Hội, nhưng điều đó không loại trừ những cách thức khác nhau để diễn dịch một số khía cạnh của giáo huấn hay để rút ra một số hệ quả từ giáo huấn ấy. Điều này sẽ luôn đúng, bởi Chúa Thánh Thần luôn dẫn dắt chúng ta đến sự thật trọn vẹn (x. Ga 16,13), cho tới khi Ngài đưa chúng ta đi vào hoàn toàn trong mầu nhiệm Chúa Kitô và cho phép ta nhìn thấy mọi sự như chính Ngài nhìn thấy. Hơn nữa, mỗi quốc gia hay tôn giáo có thể tìm ra những giải pháp tốt hơn, phù hợp với nền văn hóa của mình, và nhạy bén hơn với các truyền thống và các nhu cầu địa phương. Vì “quả thực các nền văn hóa rất đa dạng và mọi nguyên tắc tổng quát … đều cần phải được hội nhập văn hóa, nếu muốn các nguyên tắc ấy được tôn trọng và áp dụng”.[3]
  1. Tôi cũng phải nói rằng tiến trình Thượng Hội Đồng tỏ ra vừa rất ấn tượng vừa đầy khai sáng. Tôi biết ơn về nhiều sự đóng góp đã giúp tôi trân trọng đầy đủ hơn đối với những vấn đề mà các gia đình trên khắp thế giới phải đương đầu. Các tham luận khác nhau của các Nghị Phụ, mà tôi đã chăm chú lắng nghe, quả thực làm nên một viên ngọc đa diện phản ảnh nhiều mối quan tâm chính đáng và nhiều vấn nạn chân thực. Vì thế, thiết tưởng là thích đáng việc soạn thảo một Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng để thâu nạp những đóng góp của hai Thượng Hội Đồng về gia đình vừa qua, với sự bổ sung những lưu ý khác nữa, để hỗ trợ cho việc suy tư, đối thoại và thực hành mục vụ, đồng thời để trợ giúp và khích lệ các gia đình trong những sự dấn thân và những thách đố hằng ngày của họ.
  1. Tông Huấn này đặc biệt hợp thời trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trước hết, bởi vì đây là một lời mời gọi các gia đình Kitô hữu biết trân trọng các quà tặng hôn nhân và gia đình, và biết kiên trung trong một tình yêu được củng cố nhờ các nhân đức quảng đại, dấn thân, trung thành và kiên nhẫn. Thứ hai, vì Tông Huấn muốn khích lệ mọi người trở nên một dấu hiệu của lòng thương xót và sự gần gũi, ở bất cứ đâu mà đời sống gia đình còn bất toàn hay còn thiếu vắng sự bình an và niềm vui.
  1. Tôi sẽ bắt đầu với một chương nhập đề được cảm hứng từ Thánh Kinh, để lấy qui chuẩn đúng đắn. Rồi tôi sẽ khảo sát hoàn cảnh thực tế của các gia đình, nhằm bám chặt vào thực tại. Tiếp theo, tôi sẽ nhắc lại một số khía cạnh thiết yếu của giáo huấn Giáo Hội về hôn nhân và gia đình, nhằm sửa soạn cho hai chương nòng cốt nói về tình yêu. Sau đó tôi sẽ nhấn mạnh một số cách tiếp cận mục vụ có thể hướng dẫn chúng ta trong việc kiến tạo những gia đình vững mạnh và đầy hoa trái, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, với một chương trọn vẹn dành cho việc nuôi dạy con cái. Cuối cùng, tôi sẽ đưa ra lời mời gọi thực thi lòng thương xót và phân định mục vụ đối với những hoàn cảnh bất cập chiếu theo những gì Chúa đòi hỏi chúng ta, và sẽ kết thúc bằng một đề cập vắn tắt về linh đạo gia đình.
  1. Dựa vào những hoa trái phong phú của tiến trình hai năm Thượng Hội Đồng, Tông Huấn này sẽ đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, trong những cách khác nhau. Điều này giải thích độ dài không tránh được của nó. Do đó, tôi không khích lệ việc đọc bản văn cách vội vàng. Đối với chính các gia đình cũng như những ai can dự vào việc tông đồ gia đình, ích lợi lớn nhất sẽ nhận được nếu đọc mỗi phần một cách nhẫn nại và kỹ lưỡng, hay nếu chú ý đến những phần nói về các nhu cầu chuyên biệt của mình. Chẳng hạn, có thể các đôi vợ chồng sẽ quan tâm nhiều hơn đến các Chương IV và V, các tác viên mục vụ sẽ quan tâm nhiều đến Chương VI, trong khi mọi người có thể cảm thấy được thách đố bởi Chương VIII. Tôi hy vọng rằng khi đọc bản văn này, mọi người sẽ cảm thấy được mời gọi yêu quí đời sống gia đình, vì “gia đình không phải là một vấn đề; tiên vàn nó là một cơ hội”.[4]

CHƯƠNG MỘT:

TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA

  1. Thánh Kinh chứa đầy những gia đình, những cuộc sinh hạ, những câu chuyện tình, và những khủng hoảng của các gia đình. Quả đúng như vậy, ngay từ trang đầu Sách Thánh, với sự xuất hiện của gia đình Ađam và Eva với tất cả gánh nặng và bạo lực của nó, cùng với sự kiên vững của nó (x. St 4), cho tới trang cuối cùng của Thánh Kinh, trong đó chúng ta thấy lễ cưới của Tân Nương và Con Chiên (Kh 21,2.9). Đức Giêsu mô tả hai ngôi nhà, một xây trên đá và một trên cát (x. Mt 7,24-27), tượng trưng cho mọi tình huống gia đình hình thành bởi cách mà mỗi thành viên sử dụng tự do của mình, vì như thi sĩ nọ đã nói: “Mỗi gia đình là một chân đèn”.[5] Giờ đây chúng ta hãy bước vào một trong những ngôi nhà ấy, theo sự dẫn dắt của tác giả Thánh Vịnh qua một bài ca mà ngày nay vẫn vang lên trong phụng vụ lễ cưới của cả Do Thái và Kitô giáo:

“Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,

bước đi trong đường lối của Ngài.

Công khó tay bạn làm ra, bạn được hưởng;

bạn sẽ hạnh phúc và may mắn.

Hiền thê bạn trong nhà sẽ như cây nho đầy trái;

con cái bạn như những chồi ô-liu xúm quanh bàn ăn của bạn.

Đó là phúc lành dành cho người kính sợ Chúa.

Nguyện Chúa từ Xi-on chúc phúc cho bạn!

Nguyện chúc bạn nhìn thấy sự thịnh vượng của Giêrusalem

suốt mọi ngày trong đời bạn!

Nguyện chúc bạn sống lâu bên đàn con cháu!

Nguyện chúc Ít-ra-en được an bình!” (Tv 128,1-6).

NGƯƠI VÀ VỢ NGƯƠI

  1. Chúng ta hãy bước qua ngưỡng cửa của mái gia đình yên hàn này, với cả nhà ngồi quanh bàn tiệc. Ở vị trí trung tâm ta thấy người cha và người mẹ, một đôi vợ chồng với câu chuyện tình riêng của họ. Họ thực hiện kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa được Đức Kitô nhắc lại rõ ràng: “Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người có nam có nữ’?” (Mt 19,4). Chúng ta nghe thấy một âm vọng của lệnh truyền được ghi trong sách Sáng Thế: “Bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai trở thành một xương một thịt” (St 2,24).
  1. Các chương đầu tiên rất hùng tráng của sách Sáng Thế trình bày đôi bạn con người trong thực tại sâu xa nhất. Những trang Thánh Kinh đầu tiên cung ứng nhiều tuyên bố rất rõ ràng. Trước hết, đó là tuyên bố mà Đức Giêsu đã nhắc lại: “Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người theo hình ảnh Ngài. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Ngài sáng tạo họ có nam có nữ” (1,27). Thật cảm kích biết bao khi “hình ảnh Thiên Chúa” ở đây qui chiếu đến đôi vợ chồng, “nam và nữ”. Phải chăng điều này có nghĩa rằng giới tính là một đặc tính của chính Thiên Chúa, hoặc có nghĩa rằng Thiên Chúa có một bạn đường thần linh thuộc phái nữ, như một số tôn giáo cổ chủ trương? Câu trả lời hẳn nhiên là không. Chúng ta biết rõ rằng Thánh Kinh bác bỏ những niềm tin có tính thờ ngẫu tượng như thế, vốn được gặp thấy nơi những người Canaan ở Đất Thánh. Sự siêu việt của Thiên Chúa được bảo toàn, nhưng vì Thiên Chúa cũng là Đấng Tạo hóa, nên hoa trái của đôi vợ chồng con người là một “hình ảnh” hữu hiệu và sống động, một dấu hiệu hữu hình cho thấy hành động sáng tạo của Ngài.
  1. Không phải là một ngẫu tượng kiểu như những ngẫu tượng bằng đá hay bằng vàng mà Thập Giới ngăn cấm, đôi vợ chồng yêu thương và sinh ra sự sống là một hình tượng sống động đích thực, có khả năng mạc khải Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ. Vì vậy, tình yêu đầy hoa trái trở thành một biểu tượng cho đời sống nội tại của Thiên Chúa (x. St 1,28; 9,7; 17,2-5.16; 28,3; 35,11; 48,3-4). Đó là lý do tại sao trình thuật Sáng Thế này, theo “truyền thống tư tế”, được đan kết bằng nhiều trình thuật phả hệ khác nhau (x. 4,17-22.25-26; 5; 10; 11,10-32; 25,1-4.12-17.19-26; 36). Khả năng sinh ra sự sống của các đôi vợ chồng nhân loại là nẻo đường theo đó lịch sử cứu độ diễn tiến. Nhìn theo cách này, mối tương quan đầy hoa trái của đôi vợ chồng trở thành một hình ảnh giúp nhận hiểu và mô tả mầu nhiệm của chính Thiên Chúa, vì trong cái nhìn của Kitô giáo về Ba Ngôi, Thiên Chúa được chiêm ngắm như là Cha, Con và Thánh Thần yêu thương. Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự hiệp thông yêu thương, và gia đình là phản ảnh sống động của mối hiệp thông ấy. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã soi sáng cho điều này khi nói: “Trong mầu nhiệm sâu thẳm nhất của Ngài, Thiên Chúa của chúng ta không cô độc, nhưng là một gia đình, vì Ngài có trong chính Ngài cương vị cha, phận làm con, và yếu tính của gia đình, tức tình yêu. Tình yêu ấy, trong gia đình Thiên Chúa, chính là Thánh Thần”.[6] Gia đình, vì thế, không tách biệt khỏi chính hiện hữu của Thiên Chúa.[7] Chiều kích Ba Ngôi này được diễn tả trong thần học của Phaolô, thánh nhân đã nối kết đôi vợ chồng với “mầu nhiệm” kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5,21-33).
  1. Khi nói về hôn nhân, Đức Giêsu nhắc chúng ta một trang khác nữa của sách Sáng Thế, thuộc chương thứ hai, trong đó bản văn vẽ một chân dung chi tiết tuyệt đẹp của đôi vợ chồng. Trước hết, chúng ta thấy người đàn ông đang khắc khoải tìm “một trợ tá xứng hợp” (câu 18 và 20), có thể xoa dịu nỗi cô đơn mà người đàn ông đang cảm nghiệm ở giữa các loài vật và thế giới xung quanh mình. Bản gốc tiếng Híp-ri gợi cho thấy một cuộc gặp gỡ trực tiếp, mặt đối mặt, mắt nhìn vào mắt, bằng một thứ đối thoại trong thinh lặng, vì ở đâu có tình yêu thì sự thinh lặng luôn luôn hùng hồn hơn lời nói. Đó là cuộc gặp gỡ với một khuôn mặt, một “chủ thể” phản chiếu tình yêu của chính Thiên Chúa và là “gia tài quí nhất, một trợ lực xứng hợp, và một cột trụ để tựa nương” của người đàn ông, theo ngôn ngữ khôn ngoan của Thánh Kinh (Hc 36,24). Thêm nữa, như người phụ nữ trong Bài Ca của Sa-lô-môn sẽ ca lên lời tuyên xưng tuyệt diễm về tình yêu và về sự tự hiến cho nhau: “Người tôi yêu thuộc trọn về tôi, và tôi trọn vẹn thuộc về chàng… Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn” (2,16; 6,3).
  1. Cuộc gặp gỡ này, giúp xoa dịu nỗi cô đơn của người đàn ông, làm phát sinh sự sống mới và gia đình. Thật ý nghĩa, Ađam, cũng là người đàn ông của mọi nơi mọi thời, cùng với vợ mình khởi lập một gia đình mới. Đức Giêsu nói về điều này khi dẫn lại bản văn sách Sáng Thế: “Người ta sẽ gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,5; x. St 2,24). Từ ngữ “gắn bó” này, trong nguyên ngữ Híp-ri, nói về một sự hòa điệu sâu xa, một sự gần gũi cả thể lý lẫn nội tâm, đến mức chính từ ngữ ấy được dùng để mô tả sự kết hợp của chúng ta với Thiên Chúa: “Hồn con bám chặt vào Chúa” (Tv 63,8). Sự kết hợp vợ chồng, vì thế, gợi lên không chỉ chiều kích thân xác và tính dục, mà cả việc tự nguyện tự hiến trong tình yêu. Kết quả của sự kết hợp này, đó là “cả hai trở thành một xương một thịt”, cả về thể lý lẫn theo nghĩa kết hợp trong trái tim và đời sống, và cuối cùng là nơi một người con, với sự chia sẻ “cốt nhục” của cả cha lẫn mẹ – không chỉ về di truyền học mà còn về mặt tâm linh nữa.

CON CÁI BẠN NHƯ NHỮNG CHỒI Ô-LIU

  1. Một lần nữa, chúng ta hãy quay lại với tác giả Thánh Vịnh. Trong mái nhà ấy, nơi mà chồng và vợ đang ngồi tại bàn ăn, con cái xuất hiện bên cạnh họ “như những chồi ô-liu” (Tv 128,3), nghĩa là, với tràn đầy sinh lực. Nếu cha mẹ, theo nghĩa nào đó, là nền móng của ngôi nhà, thì con cái được ví như những “viên đá sống động” của gia đình (x. 1Pr 2,5). Thật ý nghĩa, trong Cựu Ước từ ngữ thường xuyên xuất hiện nhất sau tên gọi Thiên Chúa (YHWH, “Đức Chúa”), đó là từ “con” (ben, “con trai”), vốn có liên hệ với động từ “xây dựng” (banah). Như vậy, khi nói về quà tặng con cái, Thánh Vịnh 128 sử dụng hình ảnh rút từ việc xây dựng một ngôi nhà và đời sống xã hội tại các thành phố: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công… Này con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thuởng Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ, tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay. Hạnh phúc thay người nào đeo ống đầy loại tên như thế! Họ sẽ không nhục nhã khi phải đến cửa công tranh tụng với địch thù” (Tv 127,1.3-5). Những hình ảnh này phản ánh nền văn hóa của một xã hội cổ xưa, tuy nhiên sự hiện diện của con cái là một dấu hiệu thường tồn của gia đình xuyên suốt lịch sử cứu độ, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
  1. Ở đây chúng ta cũng thấy một khía cạnh khác của gia đình. Chúng ta biết rằng Tân Ước nhắc đến “các Hội Thánh họp tại nhà” (x. 1Cr 16,19; Rm 16,5; Cl 4,15; Plm 2). Một không gian sống động của gia đình có thể chuyển thành một Hội Thánh tại gia, một khung cảnh cho Bí tích Thánh Thể, tức sự hiện diện của Đức Kitô tại bàn ăn. Chúng ta không thể nào quên hình ảnh trong sách Khải Huyền, trong đó Chúa nói: “Này, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Ở đây chúng ta thấy một gia đình đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa, của kinh nguyện chung và của mọi ơn phúc. Đây là ý nghĩa đoạn kết Thánh Vịnh 128 được trích dẫn ở trên: “Đó là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài. Nguyện Chúa từ Xi-on chúc phúc cho bạn!” (Tv 128,4-5).
  1. Thánh Kinh cũng trình bày gia đình như là nơi con cái được nuôi dưỡng lớn lên trong đức tin. Điều này thật rõ trong mô tả về cử hành lễ Vượt Qua (x. Xh 12,26-27; Đnl 6,20-25) và về sau thấy xuất hiện rõ rệt trong haggadah Do Thái, tức mẩu đối thoại gắn liền với nghi thức bữa ăn Vượt Qua. Một trong các Thánh Vịnh nói về lời công bố đức tin trong các gia đình: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm. Ngài đã ban huấn lệnh cho nhà Gia-cóp, đặt ra lề luật cho Ít-ra-en, dạy tổ tiên chúng tôi truyền lại cho con cháu các cụ được tường, hầu kẻ hậu sinh trong thế hệ tương lai cũng biết, rồi mai ngày đến lượt chúng kể cho con cháu mình” (Tv 78,3-6). Như vậy, gia đình là nơi mà cha mẹ trở thành những thầy dạy đức tin đầu tiên cho con cái. Họ học “nghề” này, và truyền lại cho đời sau từ người này sang người khác: “Khi đến lúc con ngươi hỏi… Ngươi sẽ trả lời…” (Xh 13,14). Nhờ đó các thế hệ nối tiếp nhau có thể lên lời ca ngợi Chúa: “Ai là nam thanh, ai là nữ tú, khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng” (Tv 148,12).
  1. Cha mẹ có trách nhiệm lớn lao đối với công cuộc giáo dục này, như các bậc hiền đức trong Thánh Kinh thường nhắc chúng ta (x. Cn 3,11-12; 6,20-22; 13,1; 22,15; 23,13-14; 29,17). Về phần mình, con cái được mời gọi đón nhận và thực hành điều răn: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Xh 20,12). Ở đây động từ “thờ kính” có liên quan tới việc chu toàn các nghĩa vụ gia đình và xã hội; không được phép coi thường những nghĩa vụ này bằng cách viện dẫn các lý do tôn giáo (x. Mc 7,11-13). “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4).
  1. Tin Mừng tiếp tục nhắc chúng ta rằng con cái không phải là tài sản của một gia đình, nhưng chúng có cuộc đời riêng để sống. Đức Giêsu là gương mẫu vâng phục cha mẹ trần thế của Người, Người đặt mình dưới sự hữu trách của cha mẹ (x. Lc 2,51), nhưng Người cũng cho thấy rằng các quyết định về cuộc đời của con cái và về ơn gọi Kitô hữu của chúng có thể đòi hỏi một sự dứt khoát nào đó vì Nước Thiên Chúa (x. Mt 10,34-37; Lc 9,59-62). Chính Đức Giêsu, năm mười hai tuổi, đã nói với Đức Maria và Thánh Giuse rằng Người có một sứ mạng lớn hơn phải chu toàn ở bên ngoài phạm vi gia đình trần thế của Người (x. Lc 2,48-50). Theo hướng này, Người cho thấy cần có những mối ràng buộc khác sâu xa hơn, thậm chí ngay trong gia đình: “Mẹ và anh em Ta là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Cũng vậy, trong mối quan tâm đối với trẻ em – là thành phần mà các xã hội Cận Đông cổ xưa coi là những kẻ lệ thuộc, không có quyền riêng nào, thậm chí chúng được coi như tài sản của gia đình – Đức Giêsu đã đi xa đến độ giới thiệu chúng như những thầy dạy, bởi đặc tính đơn sơ tin tưởng và hồn nhiên của chúng đối với người khác. “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18,3-4).

MỘT NẺO ĐƯỜNG ĐAU KHỔ VÀ ĐẪM MÁU

  1. Bức tranh đẹp tuyệt được trình bày trong Thánh Vịnh 128 không hề loại trừ một sự thật cay đắng gặp thấy trong khắp các trang Thánh Kinh, đó là, sự hiện diện của đau khổ, sự dữ và bạo lực có sức phá vỡ các gia đình, phá vỡ mối hiệp thông sự sống và tình yêu. Thật ý nghĩa sự kiện rằng giáo huấn của Đức Kitô về hôn nhân (x. Mt 19,3-9) được đưa vào trong bối cảnh một cuộc tranh luận về ly dị. Lời Chúa không ngừng chứng thực cái chiều kích u ám vốn đã có mặt ngay từ đầu, lúc mà – do tội lỗi – mối tương quan yêu thương và trong sáng giữa người nam và người nữ biến thành sự thống trị: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16).
  1. Sợi chỉ đau khổ và đẫm máu này được thấy xuyên suốt qua rất nhiều trang Thánh Kinh, bắt đầu với việc Cain sát hại em mình là Aben. Chúng ta đọc thấy những xung đột giữa những người con và những người vợ của các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp, những bi kịch và bạo lực đánh dấu trên gia đình của Đavít, những vấn đề gia đình được phản ảnh trong câu chuyện Tôbia, và lời phàn nàn cay đắng của Gióp: “Anh em tôi, Người đẩy xa tôi… người quen biết muốn làm mặt lạ… Thân bằng đã biến sạch, quyến thuộc đã quên tôi. Hơi thở tôi làm vợ tôi lợm giọng, và tôi trở thành ghê tởm trước con cái của chính lòng dạ mẹ tôi” (G 19,13-14.17).
  1. Chính Đức Giêsu đã sinh ra trong một gia đình đơn nghèo, sớm phải trốn chạy ra nước ngoài. Người đã ghé thăm nhà Phêrô, có nhạc mẫu của ông đang đau ốm (x. Mc 1,30-31) và Người chạnh lòng thương khi nghe về những cái chết trong gia đình của Giairô và Ladarô (x. Mc 5,22-24.35-43; Ga 11,1-44). Người nghe tiếng khóc than vô vọng của bà góa ở Nain trước cái chết của con trai mình (x. Lc 7,11-15), và Người động lòng trước lời khẩn cầu của người cha có đứa con bị kinh phong tại một làng kia (x. Mc 9,17-27). Người đến nhà của những người thu thuế như Matthêu và Giakêu (x. Mt 9,9-13; Lc 19,1-10), và nói chuyện với những người tội lỗi như người phụ nữ trong nhà của ông Biệt phái Simon (x. Lc 7,36-50). Đức Giêsu biết những lo âu và căng thẳng mà các gia đình phải chịu đựng, và Người đan kết chúng vào các dụ ngôn của Người: con cái bỏ nhà đi hoang (x. Lc 15,11-32), hay tỏ ra ương bướng (Mt 21,28-31) hoặc làm mồi cho bạo lực (Mc 12,1-9). Người cũng nhạy cảm trước nỗi lúng túng do thiếu rượu tại một tiệc cưới (Ga 2,1-10), do các khách mời không đến dự tiệc (Mt 22,1-10), và nỗi lo của một gia đình nghèo lỡ đánh mất một đồng xu (Lc 15,8-10).
  1. Trong cái nhìn lướt qua này, chúng ta có thể thấy rằng Lời Chúa không phải là một mớ ý tưởng trừu tượng, nhưng đúng hơn đó là một nguồn an ủi và đồng hành cho các gia đình đang kinh nghiệm những khó khăn và đau khổ. Vì Lời Chúa cho thấy mục tiêu cuộc hành trình của các gia đình, khi Thiên Chúa “lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4).

CÔNG KHÓ TAY BẠN LÀM RA

  1. Ở đầu Thánh Vịnh 128, người cha xuất hiện như một người lao công, dùng lao động của đôi tay để nâng đỡ cho gia đình được êm ấm: “Công khó tay bạn làm ra, bạn được hưởng; bạn sẽ hạnh phúc và may mắn” (Tv 128,2). Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, thật rõ rằng lao động là một phần thiết yếu của phẩm giá con người; chúng ta đọc thấy: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào trong vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Con người được trình bày như một người lao công canh tác đất đai, khai thác những sức mạnh của thiên nhiên và sản xuất ra “lương thực do lao động nhọc nhằn” (Tv 127,2), cùng với việc phát huy những ơn huệ và những tài năng của mình.
  1. Lao động cũng giúp cho xã hội có thể phát triển, và cung ứng cho sự sống, sự ổn định cũng như sự sinh hoa kết quả của gia đình: “Nguyện chúc bạn nhìn thấy sự thịnh vượng của Giêrusalem suốt mọi ngày trong đời bạn! Nguyện chúc bạn sống lâu bên đàn con cháu!” (Tv 128,5-6). Sách Châm Ngôn cũng nói về lao động của những người mẹ trong gia đình; công việc hằng ngày của họ được mô tả chi tiết, nhận được sự khen ngợi của chồng và con cái họ (x. 31,10-31). Tông đồ Phaolô tự hào vì đã không ăn bám người khác, vì ngài đã làm việc bằng đôi tay mình và bảo đảm cho việc sinh sống của chính mình (x. Cv 18,3; 1Cr 4,12; 9,12). Phaolô rất xác tín về sự cần thiết phải làm việc đến nỗi ngài đưa ra một qui định nghiêm khắc cho các cộng đoàn của ngài: “Ai không làm việc, thì đừng ăn” (2Tx 3,10; x. 1Tx 4,11).
  1. Mặt khác, chúng ta có thể hiểu nỗi khổ do thất nghiệp và do thiếu công việc làm ổn định, như được phản ảnh trong sách Rút, trong dụ ngôn của Đức Giêsu về những người thợ đành phải đứng ì ra đó ngoài chợ (Mt 20,1-16), và kinh nghiệm của chính Đức Giêsu khi gặp những người nghèo khổ và đói khát. Đáng buồn là những thực tế này vẫn còn đó tại nhiều quốc gia ngày nay, những nơi mà tình trạng thiếu cơ hội làm việc đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự yên ổn của đời sống gia đình.
  1. Chúng ta cũng không thể không nhận thấy sự suy thoái xã hội do tội lỗi gây ra, chẳng hạn, khi con người áp chế thiên nhiên, phá hại thiên nhiên một cách ích kỷ và thậm chí một cách tàn nhẫn. Điều này dẫn tới tình trạng sa mạc hóa trái đất (x. St 3,17-19) cùng những sự mất quân bình kinh tế và xã hội từng bị tố cáo bởi các ngôn sứ, bắt đầu với Êlia (x. 1V 21) và lên đến đỉnh điểm nơi những lời của Đức Giêsu chống lại tình trạng bất công (x. Lc 12,13; 16,1-31).

SỰ DỊU DÀNG CỦA VÒNG TAY ÔM

  1. Đức Kitô đề ra dấu hiệu để nhận diện các môn đệ Người, đó là luật yêu thương và sự trao hiến chính mình cho người khác (x. Mt 22,39; Ga 13,34). Người làm thế khi tuyên bố một nguyên tắc mà các bậc cha mẹ thường thể hiện trong đời sống của mình: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người sẵn sàng hiến mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Tình yêu cũng sinh hoa trái nơi lòng thương xót và sự thứ tha. Một cách đặc biệt, chúng ta thấy điều này trong câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình; ở trước Đền Thờ, chị bị bao vây bởi những người tố cáo chị, nhưng sau đó, khi còn lại một mình với Đức Giêsu, chị gặp thấy không phải sự lên án mà là lời nhắc nhở chị phải sống xứng đáng hơn (x. Ga 8,1-11).
  2. Với bức phông tình yêu này, vốn là trung tâm của kinh nghiệm Kitô giáo về hôn nhân và gia đình, một nhân đức khác hiện lên nổi bật, mà người ta thường không chú ý trong thế giới của những tương quan cuồng nhiệt và hời hợt của chúng ta. Đó là sự dịu dàng. Chúng ta hãy xem những lời đầy cảm kích của Thánh Vịnh 131. Cũng như trong các bản văn khác của Thánh Kinh (chẳng hạn, Xh 4,22; Is 49,15; Tv 27,10), sự kết hợp giữa Chúa và những ai trung thành với Ngài được diễn tả bằng những từ ngữ nói về tình yêu của cha mẹ. Ở đây ta thấy một sự mật thiết dịu dàng và tinh tế giữa mẹ và con: hình ảnh một trẻ thơ ngủ yên trong vòng tay của mẹ sau khi đã bú sữa mẹ no nê. Như ý nghĩa của từ gamûl trong tiếng Híp-ri, đứa trẻ bấy giờ được cho bú và bám chặt vào mẹ, mẹ nó ôm nó vào lòng. Có một sự gần gũi trong ý thức chứ không chỉ có tính sinh vật học. Cảm hứng từ hình ảnh này, tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Hồn con, con vẫn trước sau, giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2). Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến những lời đầy cảm kích mà ngôn sứ Hôsê đặt vào môi miệng Thiên Chúa: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu thương nó… Ta đã đỡ cánh tay của nó… Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo nó, Ta xử với nó như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó và đút cho nó ăn” (Hs 11,1.3-4).
  1. Với một sự chú nhìn của đức tin và tình yêu, của ân sủng và trung thành, chúng ta đã chiêm ngắm mối tương quan giữa các gia đình nhân loại và Ba Ngôi thần linh. Lời Chúa bảo chúng ta rằng gia đình được ký thác cho một người đàn ông, một người đàn bà, và con cái họ, để gia đình trở thành một sự hiệp thông nhân vị theo hình ảnh sự kết hợp giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc sinh sản và nuôi dạy con cái, về phần nó, phản ảnh công việc sáng tạo của Thiên Chúa. Gia đình được mời gọi liên kết trong kinh nguyện hằng ngày, đọc Lời Chúa và chia sẻ tiệc Thánh Thể, nhờ đó lớn lên trong tình yêu và trở nên – ngày càng đúng nghĩa hơn – là một đền thờ cho Chúa Thánh Thần cư ngụ.
  1. Mọi gia đình cần phải hướng mắt nhìn hình tượng Gia đình Thánh ở Nadarét. Đời sống hằng ngày của gia đình ấy không thiếu những gánh nặng và ngay cả những cơn ác mộng, như khi phải đương đầu với bạo lực điên cuồng của Hêrôđê. Thật buồn biết bao để nói rằng thứ bạo lực điên cuồng ấy cũng là một kinh nghiệm còn tiếp tục gây khổ sở cho nhiều gia đình tị nạn trong thời của chúng ta, họ cảm thấy bị xua đuổi và không nơi nương tựa. Giống như các nhà đạo sĩ, các gia đình chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi và Mẹ Người, bái lạy tôn thờ Người (x. Mt 2,11). Giống như Đức Maria, các gia đình được mời gọi đương đầu với những thách thức của gia đình mình với lòng can đảm và bình tĩnh, xuyên qua các hoàn cảnh thăng trầm, ghi nhớ và suy niệm trong lòng những điều kỳ diệu Chúa đã làm (x. Lc 2,19.51). Kho tàng trong đáy lòng của Đức Maria cũng chứa đựng những kinh nghiệm của mọi gia đình, những kinh nghiệm mà Mẹ nâng niu ấp ủ. Vì thế, Mẹ có thể giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của những kinh nghiệm ấy và nghe được thông điệp mà Thiên Chúa muốn trao gửi xuyên qua đời sống của gia đình chúng ta.

CHƯƠNG HAI:

NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ

NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA GIA ĐÌNH

  1. Thiện ích của gia đình là điều có tầm quyết định cho tương lai của thế giới và của Giáo Hội. Người ta đã làm vô số nghiên cứu về hôn nhân và gia đình, về những vấn đề và những thách đố hiện nay của nó. Chúng ta nên tập chú vào những thực tế cụ thể, vì “tiếng gọi và những đòi hỏi của Chúa Thánh Thần vang lên trong các biến cố lịch sử”, và qua các biến cố ấy “Giáo Hội cũng có thể được hướng dẫn tới một nhận hiểu thâm sâu hơn đối với mầu nhiệm khôn dò là hôn nhân và gia đình”.[8] Ở đây tôi sẽ không cố trình bày tất cả những gì có thể được nói về gia đình hôm nay. Tuy nhiên, vì các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khảo sát hoàn cảnh của các gia đình trên khắp thế giới, tôi thấy thích hợp việc nêu một số nhận thức mục vụ của các Nghị Phụ, cùng với những quan tâm rút ra từ chính kinh nghiệm của tôi.

THỰC TẾ HIỆN NAY CỦA GIA ĐÌNH

  1. “Trung thành với giáo huấn của Đức Kitô, chúng ta hướng nhìn thực tế của gia đình ngày nay trong tất cả tính phức tạp của nó, với cả ánh sáng và bóng tối… Những thay đổi về nhân học và văn hóa trong thời chúng ta đang ảnh hưởng lên mọi khía cạnh của đời sống, và mời gọi một sự tiếp cận có tính phân tích và đa dạng”.[9] Cách đây vài thập niên, các giám mục Tây Ban Nha ghi nhận rằng các gia đình đã có được sự tự do nhiều hơn “nhờ một sự phân phối hợp tình hợp lý các bổn phận, trách nhiệm và công việc”; thật vậy, “sự nhấn mạnh nhiều hơn về mối liên lạc cá vị giữa vợ chồng giúp làm cho đời sống gia đình có tính nhân văn hơn”, trong khi “cả xã hội ngày nay lẫn xã hội mà chúng ta đang tiến tới đều không cho phép một sự tiếp tục tồn tại mà không thẩm xét của những dạng thức trước đây”.[10] Cũng thật rõ rằng “các khuynh hướng chính trong những thay đổi nhân học và văn hóa” đang đưa “các cá nhân, trong đời sống riêng và đời sống gia đình, đến chỗ ngày càng ít nhận được sự hỗ trợ hơn từ các cấu trúc xã hội so với trong quá khứ”.[11]
  2. Đàng khác, “cần phải dành sự lưu tâm không kém đối với mối nguy ngày càng tăng của một chủ nghĩa cá nhân cực đoan đang làm suy yếu các mối gắn kết gia đình và rốt cục coi mỗi thành viên gia đình như một đơn vị rời rạc, nhiều khi dẫn đến ý tưởng rằng nhân cách của một người được định hình bởi những khao khát của người ấy, những khao khát được xem là tuyệt đối”.[12] “Những căng thẳng tạo nên bởi một nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa quá mức, cộng với những chiếm hữu và lạc thú, dẫn đến tình trạng bất bao dung và xung đột trong các gia đình”.[13] Ở đây tôi cũng muốn bao gồm cả nhịp sống hối hả ngày nay, những áp lực, cách tổ chức xã hội và công việc, vì tất cả đều là những yếu tố văn hóa chống lại những quyết định có tầm vĩnh viễn. Chúng ta cũng đối mặt với sự bất định và mập mờ ở khắp nơi. Chẳng hạn, chúng ta đề cao cách đúng đắn một tư tưởng nhân vị thượng tôn tính chân thực xét như là đối lập với sự rập khuôn thuần túy. Trong khi điều này có thể hỗ trợ cho tính cách tự nhiên, không gò bó, và giúp người ta sử dụng các tài năng cách tốt hơn, thì nếu đi lạc hướng, nó có thể thúc đẩy những thái độ thường xuyên nghi ngờ, sợ dấn thân, loay hoay với mình, và trịch thượng. Sự tự do chọn lựa giúp ta có thể vạch kế hoạch cho đời sống của mình và phát huy chính mình nhiều nhất có thể. Nhưng nếu sự tự do này thiếu những mục tiêu cao thượng hay thiếu kỷ luật cá nhân, nó sẽ suy thoái thành một sự bất lực, không thể quảng đại hiến thân cho người khác. Thật vậy, tại nhiều nước nơi mà con số các trường hợp kết hôn đang giảm, thì ngày càng có nhiều người chọn sống một mình hay chỉ đơn thuần chung chạ mà không sống chung. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến một cảm thức tích cực về sự công bằng; nhưng nếu hiểu nhầm, cảm thức ấy có thể biến dân chúng thành những khách hàng chỉ quan tâm tới sự cung ứng các dịch vụ.
  3. Khi những yếu tố này ảnh hưởng đến cách nhận hiểu về gia đình, thì người ta có thể xem gia đình như một trạm trên đường đi, chỉ có ích khi thuận tiện, hay như một cảnh vực trong đó các quyền được khẳng định, còn các mối tương quan thì bị bỏ mặc cho sự thay đổi thất thường của những ước muốn riêng và của các hoàn cảnh. Cuối cùng, ngày nay thật dễ lẫn lộn giữa sự tự do đích thực và ý tưởng rằng mỗi cá nhân có thể làm gì tùy ý; dường như không có những sự thật, những giá trị và những nguyên tắc cung cấp sự hướng dẫn, và mọi sự đều có thể và được phép. Lý tưởng của hôn nhân, được đánh dấu bằng một cam kết độc nhất và bền vững, bị gạt qua một bên bất cứ khi nào nó tỏ ra bất tiện hay gây chán ngán. Nỗi sợ cô đơn và nỗi khát khao sự bền vững và sự trung thành tồn tại ngay bên cạnh một nỗi sợ ngày càng tăng về khả năng mắc kẹt trong một mối tương quan có thể cản trở người ta tranh thủ các mục tiêu riêng của mình.
  1. Là Kitô hữu, chúng ta không được phép ngừng bảo vệ hôn nhân chỉ để tránh lội ngược dòng cảm thức của người đương thời, hay chỉ vì muốn hợp thời, hoặc vì mặc cảm bất lực trước tình trạng suy thoái đạo đức và nhân bản. Chúng ta sẽ tước mất khỏi thế giới các giá trị mà chúng ta có thể và cần phải biểu dương. Thực là vô nghĩa việc duy chỉ ngồi nguyền rủa bóng tối sự dữ của thời đại, cơ hồ làm như vậy thì sẽ thay đổi được mọi sự. Cũng không ích gì việc cố dùng quyền để áp đặt các qui tắc. Điều chúng ta cần là một nỗ lực với sự quảng đại và trách nhiệm nhiều hơn để trình bày các lý do và các động cơ cho việc chọn lựa hôn nhân và gia đình, và bằng cách này giúp người ta đáp trả tốt hơn hồng ân mà Thiên Chúa ban cho họ.
  1. Chúng ta cũng cần khiêm tốn và thực tiễn, nhìn nhận rằng nhiều khi cách mà chúng ta trình bày niềm tin Kitô giáo của mình, và cách ta cư xử với người khác, đã góp phần làm nên tình trạng ngổn ngang của hôm nay. Chúng ta cần biết phê phán chính mình cách thích đáng. Cũng vậy, chúng ta thường trình bày hôn nhân theo cách nào đó mà ý nghĩa kết hợp của hôn nhân, tiếng gọi của hôn nhân thúc đẩy người ta lớn lên trong tình yêu, và lý tưởng trợ giúp lẫn nhau của hôn nhân bị mờ nhòa, do sự đề cập hầu như chỉ tập trung vào bổn phận sinh sản. Chúng ta cũng không luôn luôn cung cấp những hướng dẫn vững chắc cho các đôi vợ chồng trẻ, có xét đến thời khóa biểu của họ, cách nghĩ và những ưu tư cụ thể của họ. Nhiều khi chúng ta cũng đề ra một lý tưởng thần học về hôn nhân quá đỗi trừu tượng và hầu như nhân tạo, quá xa rời các hoàn cảnh cụ thể và các khả năng thực tiễn của các gia đình. Tình trạng lý tưởng hóa quá mức như vậy, nhất là khi chúng ta không thúc đẩy niềm tín thác vào ơn Chúa, đã không giúp làm cho hôn nhân trở thành hấp dẫn hơn và đáng khao khát hơn, mà hoàn toàn đi ngược lại.
  1. Từ khá lâu, chúng ta vẫn lầm tưởng rằng chỉ cần nhấn mạnh những điểm giáo thuyết, đạo đức sinh học và luân lý, mà không cần khích lệ việc mở lòng đón nhận ơn sủng, thì đó là mình đang cung cấp đủ sự nâng đỡ cho các gia đình, đang giúp củng cố mối dây hôn nhân, và đang trao ý nghĩa cho đời sống vợ chồng. Chúng ta thấy khó trình bày hôn nhân như một con đường năng động để phát triển và hoàn thành nhân vị, thế là chúng ta trình bày nó như một gánh nặng phải vác suốt đời. Chúng ta cũng thấy khó dành chỗ cho lương tâm của các tín hữu, những người rất thường đáp trả tiếng gọi của Tin Mừng cách tốt nhất, ngay giữa các giới hạn của họ, và đó là những người thường có khả năng làm công việc phân định của mình trong những hoàn cảnh phức tạp. Chúng ta được gọi để đào tạo lương tâm người ta chứ không phải để thay thế lương tâm của họ.
  1. Chúng ta phải biết ơn vì đa số người ta vẫn trân trọng giá trị các mối tương quan gia đình vốn có đặc tính bền vững và được đánh dấu bởi sự kính trọng lẫn nhau. Họ trân trọng các cố gắng của Giáo Hội trong việc cung cấp sự hướng dẫn và các lời khuyên trong những lãnh vực liên quan đến sự trưởng thành trong tình yêu, việc giải quyết xung đột và việc nuôi dạy con cái. Nhiều người như đụng chạm được sức mạnh của ơn sủng mà họ kinh nghiệm trong Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, ơn sủng giúp họ đương đầu với những thách đố của hôn nhân và gia đình. Tại một số nước, nhất là tại nhiều vùng ở Phi Châu, chủ nghĩa thế tục đã không làm suy yếu một số giá trị truyền thống, và các cuộc hôn nhân tạo nên một mối dây vững chắc nối kết hai gia đình rộng lớn, với những cơ cấu được định rõ để giải quyết các vấn đề và các xung đột. Ngày nay chúng ta cũng biết ơn về chứng tá của các cuộc hôn nhân không chỉ chứng tỏ là bền vững, mà còn đầy hoa trái và yêu thương. Tất cả những yếu tố này có thể thúc đẩy một phương thức mục vụ tích cực và ân cần, có khả năng giúp các đôi bạn tăng cường lòng trân trọng đối với các đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy nhiên, chúng ta thường lo chống đỡ, phung phí năng lực mục vụ vào việc lên án một thế giới suy đồi mà không chủ động đề ra những cách thế mưu cầu hạnh phúc đích thực. Nhiều người cảm thấy rằng sứ điệp của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình không phản ảnh rõ ràng lời rao giảng và thái độ của Đức Giêsu, Đấng đã nêu rõ một lý tưởng đầy đòi hỏi nhưng cũng không bao giờ bỏ qua cơ hội bày tỏ lòng trắc ẩn và sự gần gũi với những yếu đuối của con người, như câu chuyện người phụ nữ Samaria hay người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
  2. Điều nói trên không hề có ý rằng chúng ta nên dừng việc cảnh báo tình trạng suy đồi văn hóa vốn không khích lệ được tình yêu và sự tự hiến. Cuộc tham vấn diễn ra trước hai Thượng Hội Đồng vừa qua cho thấy rất nhiều triệu chứng của một thứ “văn hóa tạm bợ”. Ở đây tôi nghĩ đến, chẳng hạn, cái tốc độ mà người ta chuyển từ quan hệ tình cảm này đến một quan hệ tình cảm khác. Họ tin rằng, cũng như các mạng lưới xã hội, tình yêu có thể được nối mạch hay ngắt mạch, tùy theo ngẫu hứng của khách hàng, và mối tương quan nhanh chóng bị “chặn”. Tôi cũng nghĩ đến những nỗi sợ gắn liền với việc cam kết vĩnh viễn, nỗi lo không còn thời gian rảnh, và những mối tương quan tính toán hơn thiệt nhằm xoa dịu cô đơn, nhằm tìm sự che chở, hay nhằm có được sự phục dịch nào đó. Chúng ta ứng xử với các tương quan tình cảm theo cách mà chúng ta ứng xử với các đồ vật và môi trường: mọi thứ đều có sẵn; ai cũng sử dụng và vứt bỏ, mua sắm và phá hỏng, khai thác và vắt kiệt. Rồi thì chia tay. Chứng tự yêu (narcissism) làm cho người ta không thể nhìn ra bên ngoài mình, nhìn quá những khao khát và nhu cầu của chính mình. Nhưng sớm hay muộn, những kẻ dùng người khác rốt cục sẽ thấy chính mình bị dùng, bị lừa và bị vứt bỏ bởi cùng một thứ não trạng đó. Cũng đáng ghi nhận rằng những sự đổ vỡ thường xảy ra nơi những người hơi đứng tuổi, những người tìm kiếm một loại “độc lập” và vứt bỏ cái lý tưởng chung thủy cho đến răng long đầu bạc với nhau, chăm sóc và nâng đỡ nhau.
  1. “Nghe có vẻ hồ đồ, nhưng có thể nói rằng chúng ta sống trong một nền văn hóa ép buộc người trẻ không lập gia đình, bởi vì họ thiếu những triển vọng cho tương lai. Nhưng cũng chính nền văn hóa này đang cung ứng cho những người khác quá nhiều sự chọn lựa đến nỗi họ cũng ngần ngại không lập gia đình.[14] Tại một số nước, nhiều người trẻ “hoãn kết hôn vì những lý do kinh tế, vì công việc hay vì học tập. Một số hoãn vì những lý do khác, như do ảnh hưởng của những ý thức hệ xem thường hôn nhân và gia đình, do muốn tránh những thất bại của các đôi vợ chồng khác, do nỗi sợ một cái gì đó mà họ coi là quá quan trọng và thánh thiêng, do những cơ hội xã hội và những mối lợi kinh tế gắn liền với việc chỉ đơn thuần sống chung, do một quan niệm về tình yêu thuần túy có tính cảm xúc và lãng mạn, do sợ mất sự tự do và độc lập của mình, và do sự tẩy chay một cái gì đó được nghĩ là chỉ có tính thiết chế và thủ tục”.[15] Chúng ta cần tìm ra ngôn ngữ thích hợp, những lập luận và những hình thức làm chứng có thể giúp ta chạm tới trái tim của các bạn trẻ, khích lệ họ phát huy lòng quảng đại, sự dấn thân, tình yêu và thậm chí phẩm cách anh hùng, và bằng cách đó mời gọi họ đảm nhận thách đố của hôn nhân với nhiệt tâm và can đảm.
  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “những xu thế văn hóa trong thế giới ngày nay dường như không đặt một giới hạn nào cho tâm cảm của người ta”; thật vậy, “một tâm cảm qui ngã, bất ổn, thay đổi thất thường sẽ không cho phép người ta đạt tới trưởng thành chín chắn”. Các Nghị Phụ cũng bày tỏ quan ngại về “sự lan tràn của các sản phẩm khiêu dâm và việc thương mại hóa thân xác, được thúc đẩy bởi sự lạm dụng internet”, và về “những tình huống thật đáng bức xúc trong đó người ta bị buộc đi vào hoạt động mại dâm”. Trong bối cảnh này, “các đôi bạn thường bất quyết, lưỡng lự và trăn trở để tìm những cách thế lớn lên. Nhiều người có xu hướng ở lại nơi những giai đoạn phôi thai của đời sống tình cảm và tính dục. Khủng hoảng trong một mối tương quan vợ chồng sẽ làm rúng chuyển cả gia đình và – qua việc ly thân và ly dị – có thể dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng cho người lớn, trẻ em và toàn xã hội, làm suy yếu các mối liên kết cá nhân và xã hội”.[16] Những vấn đề của hôn nhân “thường được đương đầu một cách nông nổi, và không có can đảm để biết kiên nhẫn suy nghĩ, để chấp nhận hy sinh và tha thứ cho nhau. Và những thất bại sẽ làm nảy sinh các quan hệ mới, các đôi bạn mới, các kết hợp dân sự mới, và các hôn phối mới, tạo nên những hoàn cảnh gia đình phức tạp và bất ổn cho đời sống đạo”.[17]
  1. Hơn nữa, “sự sụt giảm dân số, do một não trạng chống lại việc có con, được hậu thuẫn bởi những chủ trương của thế giới về sức khỏe sinh sản, tạo ra không chỉ một tình trạng trong đó mối tương quan giữa các thế hệ không còn được bảo đảm, mà còn có mối nguy rằng, dần dà, sự tụt giảm này sẽ dẫn đến kiệt quệ về kinh tế và mất hết hy vọng về tương lai. Sự phát triển của công nghệ sinh học cũng có một tác động lớn trên tỉ lệ sinh sản”.[18] Thêm vào đó là những yếu tố khác như “công nghiệp hóa, cách mạng tình dục, nỗi sợ lạm phát dân số và những vấn đề về kinh tế… Chủ nghĩa tiêu thụ cũng ngăn cản người ta sinh con, đơn giản vì họ muốn duy trì một sự tự do và một lối sống nào đó”.[19] Lương tâm ngay thẳng của các vợ chồng vốn quảng đại trong việc chuyển thông sự sống vẫn có thể đưa họ đến chỗ hạn chế số con của mình, vì những lý do chính đáng, tuy nhiên, cũng chính “vì phẩm giá của lương tâm mà Giáo Hội mạnh mẽ phản bác sự can thiệp có tính áp đặt của nhà nước trong việc thúc đẩy ngừa thai, triệt sản và ngay cả phá thai”.[20] Những biện pháp như thế không thể chấp nhận được ngay cả tại những nơi có tỉ lệ sinh sản cao, thế nhưng tại những nước có tỉ lệ sinh sản thấp một cách đáng ngại người ta cũng thấy các chính trị gia hô hào điều này. Như các giám mục Hàn Quốc đã nói, đó là “hành động tự mâu thuẫn và chối bỏ bổn phận của mình”.[21]
  1. Tại một số xã hội, sự suy yếu về đức tin và thực hành tôn giáo có một hệ lụy trên các gia đình, bỏ mặc các gia đình càng chơ vơ giữa bao khó khăn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “một triệu chứng của sự nghèo nàn khủng khiếp trong nền văn hóa thời nay, đó là sự cô đơn, phát xuất từ sự vắng mặt Thiên Chúa trong đời sống con người, và từ tình trạng mong manh của các mối tương quan. Cũng có phổ biến một mặc cảm bất lực khi đứng trước những thực trạng xã hội-văn hóa thường làm tan nát các gia đình… Các gia đình thường cảm thấy bị bỏ rơi do thiếu sự quan tâm của các cơ chế. Tác động tiêu cực trên trật tự xã hội thật rõ ràng, như thấy trong vấn đề khủng hoảng dân số, trong nỗi khó khăn của việc nuôi dạy con cái, trong thái độ ngần ngại không muốn đón nhận sự sống mới, trong xu hướng xem người già như gánh nặng, và trong sự gia tăng các vấn đề về cảm xúc và những bùng nổ của bạo lực. Nhà nước có trách nhiệm thông qua những đạo luật và tạo ra công ăn việc làm để bảo đảm tương lai của giới trẻ và giúp họ thực hiện kế hoạch xây dựng gia đình của họ”.[22]
  1. Tình trạng thiếu nhà ở tương xứng hoặc vừa túi tiền thường dẫn đến việc trì hoãn các mối tương quan chính thức. Cần lưu ý rằng “gia đình có quyền có chỗ ở xứng đáng, phù hợp với đời sống gia đình và có đủ chỗ cho các thành viên, trong một môi trường tự nhiên cung ứng các dịch vụ căn bản cho đời sống của gia đình và cộng đồng”.[23] Gia đình và nhà ở luôn đi đôi với nhau. Điều này giúp ta nhận ra rằng cần phải nhấn mạnh các quyền của gia đình chứ không chỉ của các cá nhân. Gia đình là thiện ích thiết yếu của xã hội,và nó phải được bảo vệ.[24] “Giáo Hội luôn luôn xem một phần sứ mạng của mình là thăng tiến hôn nhân và gia đình, bảo vệ nó và chống lại những gì tấn công nó”,[25] đặc biệt ngày nay, khi hôn nhân và gia đình không nhận được mấy quan tâm trong các đề cương chính sách. Các gia đình có quyền “được kỳ vọng một chính sách đúng đắn về gia đình từ giới hữu trách trong các lãnh vực tư pháp, kinh tế, xã hội và tài chánh”.[26] Có những lúc gia đình khốn khổ khủng khiếp khi đương đầu với bệnh tật của một người thân trong tình trạng thiếu sự chăm sóc y tế thích đáng, hay phải vất vả loay hoay để tìm được công việc làm thích hợp. “Những khó khăn kinh tế không cho phép gia đình được tiếp cận giáo dục, các hoạt động văn hóa, và sự tham dự vào đời sống xã hội. Cách này hay cách khác, tình hình kinh tế hiện nay đang không cho phép người ta hòa nhập vào xã hội. Đặc biệt, các gia đình phải hứng chịu những vấn đề liên quan đến việc làm, trong đó người trẻ chẳng có mấy cơ hội, và sự cung ứng việc làm thì rất kén chọn và không vững chắc. Ngày làm việc kéo dài và nhiều khi càng trở nên nặng nề hơn bởi những quãng thời gian xa nhà ngày càng lâu hơn. Tình hình này không giúp cho các thành viên gia đình sum họp với nhau, không giúp cho cha mẹ gần gũi con cái bằng một cách thế khả dĩ vun xới các mối quan hệ mỗi ngày”.[27]
  1. Nhiều trẻ em sinh ngoài hôn nhân, vì thế nhiều em lớn lên với chỉ cha hoặc mẹ, hay trong một gia đình hỗn hợp hoặc chắp vá… Một thực tế thảm hại và gây phẫn nộ khác nữa trong xã hội ngày nay, đó là tình trạng bóc lột tình dục trẻ em. Các xã hội hứng chịu bạo lực do chiến tranh, khủng bố, hay do sự tồn tại của tội ác có tổ chức… đang chứng kiến sự suy vong của gia đình, nhất là tại các thành phố lớn, nơi mà, ở các vùng ngoại ô, hiện tượng ‘trẻ em đường phố’ đang ngày càng gia tăng”.[28] Sự lạm dụng tình dục trẻ em càng gây bức xúc hơn khi nó xảy ra ở những nơi mà đáng lẽ trẻ em được an toàn nhất, như gia đình, trường học, các cộng đoàn và các cơ chế Kitô giáo.[29]
  1. “Di dân, một dấu chỉ khác nữa của thời đại, phải được đối mặt và nhận hiểu các hệ quả tiêu cực của nó trên đời sống gia đình”.[30] Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua đã lưu ý đến vấn đề này, ghi nhận rằng “bằng nhiều cách, hiện tượng di dân ảnh hưởng đến toàn thể cư dân ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Giáo Hội đã đóng một vai trò đáng kể trong lãnh vực này. Gìn giữ và phát huy chứng tá này cho Tin Mừng (x. Mt 25,35) là điều rất cần thiết hôm nay, hơn bất cứ thời nào trước đây… Tính di động của con người, như được thấy trong sự thiên di tự nhiên của các dân tộc trong lịch sử, có thể có ý nghĩa phong phú thực sự cho cả các gia đình di dân lẫn những quốc gia đón nhận họ. Còn sự di cư bắt buộc của các gia đình – do hoàn cảnh chiến tranh, bách hại, nghèo đói, bất công, và gắn liền với những truân chuyên của một hành trình thường phải liều cả mạng sống – thì khiến người ta hoảng loạn và gây mất ổn định cho các gia đình. Trong việc đồng hành với những người nhập cư, Giáo Hội cần một chương trình mục vụ đặc biệt, nhắm đến không chỉ các gia đình nhập cư mà cả những thành viên vẫn còn ở lại đằng sau. Hoạt động mục vụ này phải được tiến hành với sự tôn trọng thích đáng văn hóa của họ, việc đào tạo nhân bản và tôn giáo tại bản quán của họ, cũng như gia sản tâm linh phong phú của các nghi lễ và truyền thống của họ, kể cả bằng một phương thức mục vụ đặc biệt… Cách riêng, di cư là thảm kịch và là sự tàn phá đối với các gia đình và các cá nhân khi nó xảy ra một cách bất hợp pháp và được hỗ trợ bởi những mạng lưới buôn người quốc tế. Cũng là thảm kịch như vậy khi tình hình liên quan đến các phụ nữ hay các trẻ em bơ vơ bị buộc phải chịu đựng những thời gian dài trong các điều kiện tạm bợ và các trại tị nạn, nơi mà người ta không thể bắt đầu một tiến trình hội nhập. Sự nghèo túng cùng cực và những hoàn cảnh gia đình phân cách đôi khi thậm chí dẫn đến việc bán con cái cho mại dâm hay cho con buôn cơ phận người”.[31] “Sự bách hại các Kitô hữu và các nhóm thiểu số tôn giáo và sắc tộc ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất là ở Trung Đông, là một thử thách lớn lao không chỉ cho Giáo Hội mà còn cho toàn thể cộng đồng quốc tế. Cần phải khích lệ mọi cố gắng, ngay cả bằng một cách thế thực tiễn, để hỗ trợ các gia đình và các cộng đoàn Kitô hữu tiếp tục ở lại nơi bản quán của họ”.[32]
  1. Các Nghị Phụ cũng đặc biệt mời gọi lưu tâm đến “gia đình của những người có các nhu cầu đặc biệt, trong đó cái thách đố bất ngờ phải đương đầu với một khuyết tật có thể làm xáo trộn sự quân bình, xáo trộn các mong ước và kỳ vọng của một gia đình… Thật đáng khâm phục những gia đình đầy yêu thương đón nhận cái thử thách cam go của một đứa con với những nhu cầu đặc biệt. Họ trao cho Giáo Hội và xã hội một chứng tá vô giá về sự trung thành đối với hồng ân sự sống. Trong những hoàn cảnh này, gia đình có thể khám phá, cùng với cộng đoàn Kitô hữu, những phương thức mới, những cách hành động mới, một cách khác để đồng cảm và liên đới với người khác, bằng việc đón nhận và nâng niu mầu nhiệm về tính mong manh của sự sống con người. Những người mang khuyết tật là một quà tặng cho gia đình và là một cơ hội để lớn lên trong tình yêu, trong sự trợ giúp nhau và hiệp nhất… Trong ánh sáng đức tin, nếu gia đình chấp nhận sự hiện diện của những người có các nhu cầu đặc biệt, thì họ sẽ có thể nhận ra và bảo đảm tôn trọng phẩm chất và giá trị của mọi sự sống con người, với những nhu cầu, những quyền và cơ hội riêng của nó. Cách tiếp cận này sẽ thúc đẩy sự săn sóc và phục vụ những người chịu thiệt thòi ấy, cũng như sẽ khích lệ sự gần gũi và cảm thông với họ ở mọi giai đoạn cuộc đời của họ”.[33] Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng sự dấn thân và quan tâm dành cho những người di cư cũng như những người có các nhu cầu đặc biệt là một dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Cả hai trường hợp đều có tính kiểu thức: cả hai đều phục vụ như một trắc nghiệm về sự dấn thân của chúng ta để bày tỏ lòng thương xót bằng cách đón nhận người khác và giúp những người yếu ớt hòa nhập đầy đủ vào các cộng đồng của mình.
  1. “Đa số các gia đình có lòng tôn kính đặc biệt dành cho những người cao tuổi, vây quanh họ với đầy ắp tình cảm và xem họ như một ân phúc. Cần phải tuyên dương cách riêng các hiệp hội và các phong trào gia đình dấn thân phục vụ những người cao tuổi, cả về tâm linh lẫn xã hội… Tại các xã hội công nghiệp hóa cao, nơi mà con số người cao tuổi gia tăng ngay cả khi tỉ lệ sinh sản sụt giảm, họ có thể bị xem như một gánh nặng. Đàng khác, sự săn sóc mà họ cần thường tạo nên một căng thẳng cho những người thân của họ”.[34] “Sự săn sóc và quan tâm dành cho những giai đoạn cuối cùng của đời sống là điều càng cần thiết hôm nay, khi mà xã hội hiện đại cố tháo gỡ mọi dấu vết của sự chết và sự hấp hối. Những người cao tuổi yếu ớt và phải lệ thuộc đôi khi bị khai thác một cách bất công để chỉ nhắm đến mối lợi kinh tế. Nhiều gia đình cho thấy rằng có thể tiếp cận những giai đoạn cuối cùng của cuộc sống bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm thức hoàn thành một đời người và sự tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa. Nhiều người cao tuổi được chăm sóc tại các cơ sở của Giáo Hội, ở đó, về vật chất và tinh thần, họ có thể sống trong một bầu khí gia đình êm ấm. Cái chết êm dịu và việc tự tử được hỗ trợ là những đe dọa nghiêm trọng cho các gia đình trên khắp thế giới; tại nhiều nước, những thực hành ấy đã được hợp pháp hóa. Giáo Hội, trong khi kiên quyết chống lại những thực hành ấy, cảm thấy cần phải hỗ trợ các gia đình đang chăm sóc cho các thành viên cao tuổi và yếu ớt của mình”.[35]
  1. Ở đây tôi cũng muốn đề cập hoàn cảnh của các gia đình sống trong cái nghèo tận cùng và những hạn chế chồng chất. Các vấn đề mà những gia đình nghèo phải đối mặt thường gay go hơn rất nhiều.[36] Ví dụ, nếu một người mẹ đơn thân phải tự chăm sóc đứa con, và chị cần để đứa bé ở nhà một mình trong khi chị đi làm, đứa trẻ sẽ lớn lên trong tình trạng phó mặc cho mọi loại nguy cơ và mọi ngáng trở đối với sự trưởng thành nhân vị. Trong những hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo như thế, Giáo Hội phải quan tâm cách riêng để cung ứng sự thông cảm, an ủi và đón nhận, hơn là bất nhẫn áp đặt một mớ qui tắc chỉ làm cho người ta cảm thấy bị xét đoán và bỏ rơi bởi chính người Mẹ được mời gọi bày tỏ cho họ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa. Thay vì cung ứng năng lực chữa trị của ân sủng và ánh sáng của sứ điệp Tin Mừng, một số người sẽ “giáo điều hóa” sứ điệp ấy, biến nó thành “những viên đá để ném vào người khác”.[37]

MỘT SỐ THÁCH ĐỐ

  1. Những phúc đáp cho hai cuộc tham vấn tiền Thượng Hội Đồng đã đề cập đến nhiều hoàn cảnh và những thách đố mới mà các hoàn cảnh ấy đặt ra. Ngoài tất cả những gì đã được nhắc đến, nhiều phúc đáp đã chỉ ra những vấn đề mà các gia đình phải đối mặt trong việc nuôi dạy con cái. Trong nhiều trường hợp, cha mẹ (từ sở làm) về nhà mệt lả, không muốn nói chuyện, và nhiều gia đình thậm chí không còn dùng bữa chung với nhau. Bao nhiêu thứ làm phân tán tâm trí, kể cả chứng nghiện ti-vi. Điều này làm cho cha mẹ càng khó hơn trong việc chuyển thông đức tin cho con cái. Có những câu trả lời lưu ý tác dụng của tình trạng áp lực đè nặng trên các gia đình, trong đó người ta thường lo toan cho tương lai hơn là cảm nếm hiện tại. Đây là một vấn đề văn hóa rộng lớn, càng trở nên tệ hại hơn nữa bởi những nỗi lo lắng về việc làm ổn định, về tài chánh và về tương lai của con cái.
  1. Ma túy cũng được đề cập như một trong những hiểm họa của thời đại chúng ta, gây bao nỗi khổ lớn lao và thậm chí phá vỡ nhiều gia đình. Tình hình cũng như thế đối với nạn nhậu nhẹt, cờ bạc và các thứ nghiện khác. Gia đình có thể là nơi đề phòng và khắc phục những vấn đề này, nhưng xã hội và chính trị không nhìn thấy rằng các gia đình đang có nguy cơ “mất khả năng hành động trong việc giúp các thành viên của mình… Chúng ta thấy những hậu quả nghiêm trọng của thất bại này nơi các gia đình bị phân rã, nơi những người trẻ bị trốc rễ và những người già bị hất hủi, nơi những con cái ‘mồ côi’ dù cha mẹ vẫn đang còn sống, nơi các bạn thanh niên và những người mới bước vào tuổi trưởng thành gặp hoang mang và không được ai nâng đỡ.”[38] Như các giám mục Mêhicô đã chỉ ra, bạo lực trong các gia đình sinh ra những dạng mới của xung đột xã hội, vì “các mối tương quan gia đình cũng có thể là nguyên nhân của một tính cách ưa bạo lực. Điều này thường xảy ra với các gia đình trong đó thiếu sự liên lạc cách trầm trọng, thái độ phòng thủ được thấy tràn lan, các thành viên không nâng đỡ nhau, không có những hoạt động gia đình khích lệ sự nối kết, mối tương quan giữa cha mẹ thường đầy xung đột và bạo lực, còn tương quan giữa cha mẹ và con cái thì đầy dấu vết xung khắc. Bạo lực bên trong gia đình sản sinh ra sự phẫn uất và căm thù ngay trong những mối tương quan nhân văn nền tảng nhất”.[39]
  1. Không ai nghĩ rằng sự suy yếu của gia đình – trong tư cách là dạng xã hội tự nhiên đặt nền trên hôn nhân ấy – sẽ đem lại ích lợi cho xã hội xét như một toàn thể. Điều ngược lại mới đúng: nó là mối đe dọa cho sự trưởng thành của các cá nhân, sự vun xới các giá trị cộng đồng, và sự thăng tiến đạo đức của các đô thị và các quốc gia. Người ta không nhận ra rằng duy chỉ mối kết hợp độc nhất và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ mới đảm nhận vai trò đầy đủ trong xã hội xét như một mối ràng buộc vững chắc đem lại hoa trái sự sống mới. Ta cần nhìn nhận rằng có nhiều hoàn cảnh gia đình khác nhau có thể cung ứng một sự ổn định nào đó, nhưng những sự kết hợp de facto hay đồng giới, chẳng hạn, thì không thể đơn giản đánh đồng với hôn nhân. Không sự kết hợp nào chỉ có tính tạm bợ hoặc đóng cửa đối với việc truyền sinh lại có thể bảo đảm cho tương lai của xã hội. Nhưng hiện nay, ai là những người đang cố gắng củng cố hôn nhân, giúp các đôi vợ chồng vượt qua những vấn đề của họ, hỗ trợ họ trong việc nuôi dạy con cái và, nói chung, khích lệ sự ổn định của mối dây hôn phối?
  1. “Một số xã hội vẫn duy trì chế độ đa thê; tại những nơi khác, dạng hôn phối được dàn xếp vẫn còn tiếp tục… Tại nhiều nơi, không chỉ ở phương Tây, việc sống chung trước hôn nhân đang lan rộng, cũng như có một kiểu chung sống mà hoàn toàn không có ý định kết hôn”.[40] Tại nhiều nước, pháp luật hậu thuẫn cho rất nhiều dạng thức thay thế hôn nhân, mà hậu quả là hôn nhân – với những đặc tính đơn nhất, bất khả phân ly và mở ra đón nhận sự sống – hóa ra bị coi như là một sự chọn lựa ngổ ngáo và lỗi thời. Nhiều quốc gia đang chứng kiến một sự phân rã hợp pháp của gia đình, hướng tới vận dụng những kiểu thức hầu như duy chỉ đặt nền trên sự tự trị của ý chí cá nhân. Đành rằng thật là hợp lẽ và đúng đắn việc loại bỏ những dạng thức cũ của gia đình truyền thống mang dấu ấn của chủ nghĩa độc đoán và thậm chí bạo lực, nhưng điều này không được phép dẫn tới việc bôi bác chính hôn nhân, mà đúng hơn phải dẫn tới việc khám phá lại ý nghĩa đích thực của nó và canh tân nó. Sức mạnh của gia đình “nằm ở khả năng yêu thương và dạy cách yêu thương. Bất chấp tất cả các vấn đề xảy ra cho gia đình, nó luôn luôn có thể lớn lên, khởi đi từ tình yêu.”[41]
  1. Trong cái nhìn toát lược này, tôi muốn nhấn mạnh rằng cho dù đã có những bước tiến quan trọng trong việc nhìn nhận các quyền của phụ nữ và sự tham dự của họ vào đời sống công cộng, tại một số nước vẫn còn rất nhiều việc phải làm để thăng tiến những quyền này. Những tập tục không thể chấp nhận vẫn cần được loại bỏ. Tôi nghĩ cách riêng đến sự bạc đãi đáng xấu hổ mà đôi khi phụ nữ phải chịu, những bạo lực trong gia đình và rất nhiều hình thức nô dịch hóa, trong đó không hề cho thấy sức mạnh của đàn ông mà đúng hơn chỉ là những hành động nhu nhược nhát đảm. Bạo lực trong lời nói, trên thân thể và trong tình dục mà phụ nữ phải chịu đựng trong một số cuộc hôn nhân là điều mâu thuẫn với chính bản chất của sự kết hợp vợ chồng. Tôi nghĩ đến việc cắt xẻo rất đáng khiển trách trên cơ quan truyền sinh của phụ nữ, vẫn được thực hành trong một số nền văn hóa, cũng như tình trạng phụ nữ thiếu cơ hội bình đẳng để có được việc làm xứng đáng và có những vai trò đưa ra quyết định. Lịch sử đã bị đè nặng bởi những thái quá của các nền văn hóa gia trưởng vốn xem phụ nữ là thấp kém, nhưng trong thời của chúng ta, không thể bỏ qua việc sử dụng các bà mẹ đẻ thay cũng như “việc khai thác và thương mại hóa thân xác phụ nữ trong văn hóa truyền thông hiện nay”.[42] Có những người cho rằng nhiều vấn đề của ngày nay đã xuất hiện là do sự giải phóng phụ nữ. Tuy nhiên, lập luận ấy không có căn cứ, “nó sai lạc, không đúng,và nó là một hình thức của chủ nghĩa đàn ông trị”.[43] Phẩm giá bình đẳng của nam và nữ làm cho chúng ta vui mừng khi nhìn thấy những dạng kỳ thị của thời trước biến mất, và trong các gia đình đang có sự tương nhượng ngày càng tăng. Trong khi một số hình thức dấy lên của phong trào nữ quyền phải được xem là không phù hợp, thì ta cũng phải nhìn phong trào phụ nữ như là hoạt động của Chúa Thánh Thần, để phẩm giá và các quyền của phụ nữ được nhìn nhận rõ hơn.
  1. Người đàn ông “đóng một vai trò có tính quyết định không kém trong đời sống gia đình, nhất là liên quan đến việc bảo vệ và nâng đỡ vợ con… Nhiều người đàn ông ý thức tầm quan trọng của vai trò mình đảm nhận trong gia đình, và họ sống tính cách đàn ông của mình một cách thích đáng. Sự vắng mặt của người cha sẽ ảnh hưởng nặng nề đến đời sống gia đình, việc nuôi dạy con cái và việc hội nhập chúng vào xã hội. Sự vắng mặt này – có thể là vắng mặt về thể lý, tình cảm, tâm lý hay tâm linh – sẽ tước mất khỏi con cái một hình ảnh người cha thích hợp”.[44]
  1. Một thách đố nữa được đặt ra bởi các dạng khác nhau của một ý thức hệ về phái tính chủ trương “phủ nhận sự khác biệt và tính hỗ tương vốn thuộc bản chất của người nam và người nữ, và hình dung một xã hội không có những khác biệt về tình dục, từ đó loại trừ cả nền tảng nhân học của gia đình. Ý thức hệ này dẫn đến những chương trình giáo dục và sự ban hành các đạo luật cổ xúy một căn tính cá nhân và sự mật thiết tình cảm tách rời hẳn khỏi những khác biệt sinh học giữa nam và nữ. Hệ quả là căn tính con người trở thành một sự chọn lựa của cá nhân, là điều có thể thay đổi qua thời gian”.[45] Thật rất đáng ưu tư khi một số ý thức hệ loại này – vốn nhằm đáp ứng những cảm hứng đôi khi là chính đáng – có thể tự khẳng định như một cái gì tuyệt đối và không thể chất vấn, thậm chí chúng qui định cả cách mà người ta phải nuôi dạy con cái nữa. Cần nhấn mạnh rằng “giới tính sinh học và vai trò văn hóa xã hội của giới tính là những thứ có thể phân biệt nhau nhưng không tách rời nhau”.[46] Đàng khác, “cuộc cách mạng công nghệ trong lãnh vực sinh sản của con người đã dẫn đến khả năng bóp méo hành động truyền sinh, làm cho nó độc lập đối với mối tương quan tính dục giữa một người nam và một người nữ. Theo đó, sự sống con người và tư cách cha mẹ đã trở thành những chi tiết rời và những thực tại có thể bóc tách được, chủ yếu tùy vào ước muốn của các cá nhân hay của các đôi bạn”.[47] Việc thông cảm sự yếu đuối của con người và những phức tạp của cuộc sống, đó là một chuyện; còn việc chấp nhận những ý thức hệ nhắm làm phân rã những khía cạnh bất khả phân ly của thực tại, thì đó lại là chuyện khác. Chúng ta đừng rơi vào tội cả gan thay thế Đấng Tạo Hóa. Chúng ta là những thụ tạo, và chúng ta không toàn năng. Công trình sáng tạo có trước chúng ta và phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng thời, chúng ta được mời gọi bảo vệ nhân tính của mình, và điều này trước hết có nghĩa là đón nhận nhân tính ấy và tôn trọng nó như nó đã được sáng tạo nên.
  1. Tôi tạ ơn Thiên Chúa về nhiều gia đình, dù họ không hề dám tự nghĩ mình hoàn hảo, nhưng đang sống trong yêu thương, đang chu toàn tiếng gọi của mình và tiếp tục bước tới, cho dẫu họ vấp ngã nhiều lần trên đường đi. Những suy tư của Thượng Hội Đồng cho chúng ta thấy rằng không có nguyên mẫu cho gia đình lý tưởng, mà đúng hơn đó là một bức khảm đầy thách đố hình thành từ nhiều thực tại khác nhau, với tất cả những niềm vui, hy vọng, và những vấn đề. Các hoàn cảnh liên quan tới chúng ta quả là những thách đố. Chúng ta không nên mắc kẹt trong việc phung phí năng lực vào những than thở ai oán, thay vào đó hãy tìm kiếm những hình thức mới cho tính sáng tạo trong sứ mạng. Bất luận tình huống nào, “Giáo Hội vẫn ý thức rằng cần phải cung ứng một lời của sự thật và hy vọng… Các giá trị lớn lao của hôn nhân và của gia đình Kitô giáo tương ứng với một khát vọng gắn không rời với hiện sinh con người”.[48] Dù chúng ta nhìn thấy bao nhiêu vấn đề đi nữa, thì – theo cách nói của các giám mục Colombia – những vấn đề ấy nên là một lời hiệu triệu chúng ta “khôi phục niềm hy vọng của mình, biến chúng thành nguồn của những tầm nhìn ngôn sứ, những hành động chuyển hóa, và những dạng thức đầy sáng tạo của đức ái”.[49]

CHƯƠNG BA:

HƯỚNG NHÌN ĐỨC GIÊSU:

ƠN GỌI CỦA GIA ĐÌNH

  1. Trong và giữa các gia đình, sứ điệp Tin Mừng cần phải luôn vang vọng; cốt lõi của sứ điệp ấy, tức lời rao giảng tiên khởi (kerygma), là phần “đẹp nhất, trỗi vượt nhất, đánh động nhất và đồng thời cần thiết nhất”.[50] Sứ điệp này “phải chiếm chỗ trung tâm trong tất cả hoạt động Phúc Âm hóa”.[51] Đó là lời rao giảng đầu tiên và quan trọng nhất, “mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, và phải luôn luôn loan báo bằng cách này hay cách khác”.[52] Thật vậy, “không có gì vững chắc, thâm sâu, bảo đảm, súc tích và khôn ngoan hơn sứ điệp ấy”. Do đó, “mọi sự đào tạo Kitô giáo đều bao hàm việc đi sâu hơn vào trong lời rao giảng tiên khởi”.[53]
  1. Giáo huấn của chúng ta về hôn nhân và gia đình nhất thiết phải được gợi hứng và chuyển hóa bởi sứ điệp yêu thương và dịu dàng này; nếu không, nó chẳng là gì ngoài sự bảo vệ cho một giáo điều khô khan và thiếu sinh khí. Mầu nhiệm gia đình Kitô giáo chỉ có thể được nhận hiểu đầy đủ trong ánh sáng tình yêu vô hạn của Chúa Cha, được mạc khải nơi Đức Kitô, Đấng đã hiến mình vì chúng ta và vẫn tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta. Giờ đây tôi muốn hướng ánh nhìn đến Đức Kitô hằng sống, Đấng nằm ở trung tâm của biết bao câu chuyện tình yêu, và khẩn cầu ngọn lửa Thánh Thần xuống trên mọi gia đình của thế giới này.
  1. Chương ngắn này, vì thế, sẽ toát lược giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Ở đây tôi cũng sẽ đề cập những gì các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nói về ánh sáng nhận được từ đức tin của chúng ta. Các Nghị Phụ bắt đầu với ánh nhìn của Đức Giêsu, các ngài nói về cách mà Đức Giêsu “nhìn những con người, nam và nữ, mà Người gặp gỡ, với tình yêu và sự dịu dàng, đồng hành với những bước chân của họ trong sự thật, kiên nhẫn và thương xót, như những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mà Người đã công bố”.[54] Chúa cũng ở với chúng ta hôm nay, khi chúng ta tìm cách thực hành và chuyển đạt Tin Mừng về gia đình.

ĐỨC GIÊSU KHÔI PHỤC VÀ HOÀN THÀNH

CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

  1. Đối ngược với những kẻ tẩy chay hôn nhân vì coi đó là sự dữ, Tân Ước dạy rằng “mọi sự Thiên Chúa dựng nên đều tốt và không được loại bỏ bất cứ gì” (1Tm 4,4). Hôn nhân là “một quà tặng” của Chúa (1Cr 7,7). Đồng thời, chính do ý nghĩa tích cực này mà Tân Ước mạnh mẽ nêu bật sự cần thiết phải giữ gìn quà tặng của Thiên Chúa: “Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế” (Dt 13,4). Quà tặng thần linh này có bao gồm tính dục: “Đừng từ chối nhau” (1Cr 7,5).
  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng Đức Giêsu, “khi nói về kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa cho người nam và người nữ, đã tái khẳng định mối kết hợp bất khả phân ly giữa họ, thậm chí Người tuyên bố rằng ‘vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu’ (Mt 19,8). Tính bất khả phân ly của hôn nhân – tức “điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly’ (Mt 19,6) – không nên được nhìn như một ‘cái ách’ áp đặt lên con người, nhưng như một ‘quà tặng’ được ban cho những ai gắn kết với nhau trong hôn nhân… Tình thương khoan dung của Thiên Chúa luôn luôn đi theo hành trình cuộc đời chúng ta; qua ân sủng, tình thương ấy chữa trị và biến đổi những trái tim chai cứng, dẫn chúng về lại từ đầu xuyên qua con đường thập giá. Tin Mừng trình bày rất rõ mẫu gương của Đức Giêsu, Đấng công bố ý nghĩa của hôn nhân như sự tròn đầy của mạc khải có sức vãn hồi kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (x. Mt 19,3)”.[55]
  2. “Đức Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự nơi chính Người, đã phục hồi hôn nhân và gia đình theo dạng thức nguyên thủy (x. Mt 10,1-12). Hôn nhân và gia đình đã được cứu chuộc bởi Đức Kitô (x. Ep 5,21-32) và được khôi phục theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, là mầu nhiệm mà từ đó mọi tình yêu đích thực tuôn trào ra. Giao ước vợ chồng, bắt nguồn trong sáng tạo và được mạc khải trong lịch sử cứu độ, đạt được ý nghĩa đầy đủ của nó trong Đức Kitô và Giáo Hội của Người. Qua Giáo Hội, Đức Kitô ban cho hôn nhân và gia đình ơn sủng cần thiết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa và để sống hiệp thông. Tin Mừng về gia đình trải suốt dòng lịch sử thế giới, từ việc sáng tạo người nam và người nữ theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa (x. St 1,26-27), cho tới sự hoàn thành mầu nhiệm giao ước trong Đức Kitô ở cuối thời gian với hôn lễ Chiên Con (x. Kh 19,9)”.[56]
  1. “Mẫu gương của Đức Giêsu là một kiểu thức cho Giáo Hội… Người bắt đầu sứ vụ công khai của Người với phép lạ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2,1-11). Người chia sẻ những khoảnh khắc tình bạn đời thường với gia đình của Ladarô và các chị của anh ấy (x. Lc 10,38), và với gia đình của Phêrô (x. Mc 8,14). Người đồng cảm với những người cha và mẹ đang than khóc con mình, và Người trao lại sự sống cho con cái họ (x. Mc 5,41; Lc 7,14-15). Bằng cách đó Người cho thấy ý nghĩa đích thực của lòng thương xót, là nguồn đem lại sự khôi phục giao ước (x. Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, 4). Điều này thật rõ trong cuộc trò chuyện với người phụ nữ Samaria (x. Ga 4,1-30), và với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,1-11), trong đó cảm thức về tội được đánh thức bởi một cuộc gặp gỡ với tình yêu nhưng không của Đức Giêsu”.[57]
  1. Cuộc nhập thể của Lời trong một gia đình nhân loại, ở Nadarét, bằng chính tính mới mẻ của nó đã thay đổi lịch sử thế giới. Chúng ta cần đi vào trong mầu nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu, đi vào trong tiếng “xin vâng” của Maria đáp lại sứ điệp của thiên thần, khi Lời được thành thai trong cung lòng Mẹ, cũng như tiếng “xin vâng” của Giuse, người đã đặt tên cho Giêsu và đã chăm sóc Maria. Chúng ta cần chiêm ngắm niềm vui của các mục đồng trước máng cỏ, sự tôn thờ của các nhà chiêm tinh và cuộc trốn chạy sang Ai Cập, trong đó Đức Giêsu chia sẻ kinh nghiệm lưu đày, tình trạng bị bách hại và nhục nhã của dân Người. Chúng ta cần chiêm ngắm mối kỳ vọng đầy lòng mộ đạo của Dacaria và niềm vui của ông khi Gioan Tẩy Giả chào đời, sự ứng nghiệm của lời hứa được ban cho Simêon và Anna trong Đền Thờ, và thái độ sửng sốt của các kinh sư khi lắng nghe sự khôn ngoan của trẻ Giêsu. Rồi chúng ta cần nhìn chăm chú vào ba mươi năm ròng rã ấy, trong đó Đức Giêsu sinh sống bằng chính lao động của đôi tay mình, khi Người đọc các kinh nguyện truyền thống, các diễn tả đức tin của dân tộc mình, và nhận biết đức tin của cha ông, cho tới khi Người làm cho đức tin ấy sinh hoa trái trong mầu nhiệm về Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Giáng Sinh và bí mật Nadarét, tỏa ra vẻ đẹp của đời sống gia đình! Chính mầu nhiệm này đã cuốn hút Phanxicô Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Charles de Foucauld, và vẫn tiếp tục đổ đầy hy vọng và niềm vui cho các gia đình Kitô hữu.
  1. “Giao ước yêu thương và trung thành được sống bởi Thánh Gia Nadarét soi sáng cho nguyên tắc giúp định hình mọi gia đình, và giúp gia đình có thể đương đầu tốt hơn với những thăng trầm của cuộc sống và của lịch sử. Trên nền tảng này, mọi gia đình, bất chấp những yếu kém, có thể trở thành một ánh sáng trong đêm tối của thế giới. ‘Nadarét dạy chúng ta ý nghĩa của đời sống gia đình, mối hiệp thông yêu thương của nó, vẻ đẹp đơn sơ và giản dị của nó, đặc tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm của nó. Ước gì nó dạy ta nhận hiểu trường đào tạo của nó ngọt ngào và bất khả thay thế như thế nào, nhận hiểu vai trò của nó đối với trật tự xã hội có tính nền tảng và độc đáo như thế nào’ (Phaolô VI, Diễn từ tại Nadarét, 5.1.1964)”.[58]

GIA ĐÌNH TRONG

CÁC VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI

  1. Công đồng Vatican II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, bày tỏ ưu tư về sự “thăng tiến phẩm giá của hôn nhân và gia đình (x. các số 47-52)”. Hiến chế này “định nghĩa hôn nhân là một cộng đồng sự sống và tình yêu (x. 48), đặt tình yêu ở trung tâm gia đình… ‘Tình yêu đích thực giữa vợ và chồng (49) gắn liền với việc tự hiến cho nhau, bao gồm và hội nhập những chiều kích tính dục và tình cảm, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa (x. 48-49)”. Văn kiện này của Công đồng cũng nhấn mạnh “việc đôi vợ chồng cắm rễ trong Đức Kitô. Đức Kitô ‘đích thân hiện diện với đôi vợ chồng Kitô hữu trong Bí tích Hôn phối’ (48) và vẫn ở lại với họ. Trong cuộc nhập thể, Người đảm nhận tình yêu nhân loại, thanh luyện nó và đem nó đến chỗ viên mãn. Nhờ Thánh Thần của Người, Người trao cho đôi vợ chồng khả năng sống tình yêu ấy, làm thấm nhuần mọi khía cạnh của đời sống họ bằng đức tin, đức cậy và đức ái. Nhờ đó, đôi vợ chồng được thánh hiến, và nhờ một ân sủng đặc biệt họ xây dựng Thân Mình Đức Kitô và làm nên Hội Thánh tại gia (x. Lumen Gentium, 11), để cho Giáo Hội, nếu muốn hiểu biết đầy đủ mầu nhiệm của mình, sẽ hướng nhìn gia đình Kitô hữu, là sự thể hiện của Giáo Hội một cách thực tiễn”.[59]
  1. “Chân Phước Phaolô VI, ngay sau Công đồng Vatican II, đã phát triển thêm giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, với Thông điệp Humanae Vitae, ngài chỉ ra mối gắn kết nội tại giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản: ‘Tình yêu hôn nhân đòi hỏi người chồng và người vợ ý thức đầy đủ về các nghĩa vụ của mình trong vấn đề làm cha mẹ có trách nhiệm, điều mà ngày nay người ta có lý để nhấn mạnh rất nhiều, nhưng đồng thời đó cũng là điều cần phải được hiểu đúng… Việc thực thi vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm đòi hỏi rằng người chồng và vợ, giữ một thứ tự đúng đắn các mối ưu tiên, phải nhận ra các bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, với chính mình, với gia đình mình và với xã hội con người’ (số 10). Trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh mối tương quan giữa gia đình và Giáo Hội”.[60]
  1. “Thánh Gioan Phaolô II dành quan tâm đặc biệt cho gia đình trong những bài giáo lý của ngài về tình yêu nhân loại, trong Thư của ngài gửi các gia đình, Gratissimam Sane, và nhất là trong Tông huấn Familiaris Consortio. Trong những văn kiện này, vị Giáo hoàng đã định nghĩa gia đình là ‘con đường của Giáo Hội’. Ngài cũng đưa ra một tầm nhìn chung về ơn gọi của những người nam và nữ, đó là yêu thương, và ngài đề ra những hướng dẫn căn bản cho sự săn sóc mục vụ đối với gia đình, cũng như cho vai trò của gia đình trong xã hội. Cách riêng, khi nói về tình yêu vợ chồng (x. số 13), ngài mô tả cách mà các đôi vợ chồng, trong tình yêu thương nhau, nhận được quà tặng bởi Thánh Thần của Đức Kitô và đáp trả tiếng gọi nên thánh dành cho mình”.[61]
  1. “Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong Thông điệp Deus Caritas Est, đã trở lại với chủ đề về sự thật của tình yêu nam nữ, vốn chỉ được soi sáng đầy đủ trong tình yêu của Đức Kitô chịu đóng đinh (x. số 2). Ngài nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân, dựa trên một tình yêu dứt khoát và độc hữu, trở thành một biểu tượng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và ngược lại. Cung cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo cho tình yêu nhân loại’ (11). Hơn nữa, trong Thông điệp Caritas in Veritate, ngài nêu bật tầm quan trọng của tình yêu như một nguyên tắc cho đời sống trong xã hội (x. 44), nơi mà ở đó chúng ta học kinh nghiệm về thiện ích chung”.[62]

BÍ TÍCH HÔN PHỐI

  1. “Thánh Kinh và Truyền Thống trao cho chúng ta nẻo đường tiếp cận để nhận thức về Chúa Ba Ngôi, được mạc khải với những nét của một gia đình. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông của các ngôi vị. Khi Đức Kitô chịu Phép Rửa, tiếng Chúa Cha vang lên, gọi Đức Giêsu là Con yêu dấu, và trong tình yêu này chúng ta có thể nhận ra Chúa Thánh Thần (x. Mc 1,10-11). Đức Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự nơi chính Người và đã cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi, không chỉ trả hôn nhân và gia đình về dạng thức nguyên thủy của nó, mà còn nâng hôn nhân lên thành dấu hiệu bí tích của tình yêu mà Người dành cho Giáo Hội (x. Mt 19,1-12; Mc 10,1-12; Ep 5,21-32). Trong gia đình nhân loại, được qui tụ bởi Đức Kitô, “hình ảnh và sự giống với” Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh (x. St 1,26) đã được phục hồi, đó là mầu nhiệm mà từ đó mọi tình yêu đích thực tuôn tràn ra. Xuyên qua Giáo Hội, hôn nhân và gia đình đón nhận ân sủng Chúa Thánh Thần từ Đức Kitô, để làm chứng cho Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa”.[63]
  1. Bí tích Hôn Phối không phải là một qui ước xã hội, một nghi thức trống rỗng, hay duy chỉ là dấu hiệu bên ngoài của một cam kết. Bí tích này là một quà tặng nhắm đến sự thánh hóa và ơn cứu độ của đôi vợ chồng, vì “việc họ thuộc về nhau là một diễn tả thực sự, qua dấu chỉ bí tích, về chính mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Vì thế đôi bạn kết hôn là một sự nhắc nhớ thường hằng cho Giáo Hội về điều đã xảy ra trên thập giá; đối với nhau và đối với con cái, họ là những chứng nhân của ơn cứu độ mà họ tham dự nhờ bí tích này”.[64] Hôn nhân là một ơn gọi, xét như đó là sự đáp trả trước một tiếng gọi đặc biệt đưa người ta vào kinh nghiệm tình yêu vợ chồng, như một dấu hiệu không hoàn hảo của tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Vì thế, quyết định kết hôn và xây dựng gia đình phải là kết quả của một tiến trình phân định ơn gọi.
  1. “Việc tự hiến cho nhau trong Bí tích Hôn Phối cắm rễ trong ơn Phép Rửa, ở đó giao ước nền tảng được thiết lập giữa mỗi người với Đức Kitô, trong Giáo Hội. Khi đón nhận nhau, và với ơn sủng của Đức Kitô, đôi bạn hứa với nhau sẽ hoàn toàn tự hiến cho nhau, trung thành với nhau và sẵn sàng cởi mở đón nhận sự sống mới. Đôi bạn nhìn nhận đó là những yếu tố thiết yếu của hôn nhân, những quà tặng được Thiên Chúa ban cho mình, và nghiêm túc cam kết thuộc về nhau, nhân danh Thiên Chúa và trước sự hiện diện của Giáo Hội. Như vậy đức tin làm cho họ có thể đảm nhận những thiện ích của hôn nhân, như những sự cam kết dấn thân, những cam kết mà họ có thể giữ tốt hơn nhờ sự hỗ trợ của ơn sủng bí tích… Vì thế, Giáo Hội nhìn đôi bạn như trái tim của toàn thể gia đình, và đến lượt mình, đôi bạn hướng nhìn Đức Giêsu”.[65] Bí tích Hôn Phối không phải là một “vật” hay một “quyền lực” gì đó, vì trong bí tích này chính Đức Kitô “giờ đây gặp gỡ đôi vợ chồng Kitô hữu… Người cư ngụ với họ, trao cho họ sức mạnh để vác thập giá của họ và đi theo Người, để đứng lên mỗi khi vấp ngã, để tha thứ cho nhau, và để mang lấy gánh nặng của nhau”.[66] Hôn nhân Kitô giáo là một dấu hiệu cho thấy Đức Kitô yêu Giáo Hội của Người biết bao trong giao ước được đóng ấn trên thập giá, nhưng nó cũng làm cho tình yêu ấy hiện diện trong mối hiệp thông của đôi vợ chồng. Bằng cách trở nên một xương một thịt, họ diễn tả việc Con Thiên Chúa đón lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Vì thế “trong niềm vui của tình yêu và của đời sống gia đình, ngay trong đời sống dương thế này họ được Đức Kitô cho cảm nếm trước tiệc cưới của Chiên Con”.[67] Mặc dù sự so sánh loại suy giữa đôi vợ chồng nhân loại và mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh của Người thì “không hoàn toàn tương ứng”,[68] nó cũng thúc đẩy chúng ta nài xin Chúa ban cho mọi đôi vợ chồng dồi dào tình yêu thần linh của Người.
  1. Sự kết hợp tính dục, được cảm nghiệm với đầy yêu thương và được thánh hóa bởi Bí tích Hôn Phối, đến lượt nó trở thành một nẻo đường để lớn lên trong đời sống ân sủng cho đôi vợ chồng. Đó là “mầu nhiệm kết hợp phu phụ”.[69] Ý nghĩa và giá trị của sự kết hợp thể lý được diễn tả trong những lời ưng thuận, trong đó người này chấp nhận và trao hiến chính mình cho người kia, để chia sẻ toàn thể cuộc sống với nhau. Những lời ấy trao ý nghĩa cho mối tương quan tính dục và giải phóng nó khỏi sự hàm hồ. Nói cách khái quát hơn, đời sống chung của vợ chồng, toàn thể mạng lưới các mối quan hệ mà họ xây dựng với con cái và với thế giới xung quanh, sẽ được nhận chìm trong ân sủng của bí tích và được củng cố bởi ân sủng ấy. Vì Bí tích Hôn Phối phát nguồn từ cuộc nhập thể và từ mầu nhiệm Vượt Qua, ở đó Thiên Chúa cho thấy sự viên mãn của tình yêu mà Ngài dành cho con người qua việc trở thành một người giữa chúng ta. Không có người vợ hay người chồng nào sẽ đơn độc khi đối diện với bất luận thách đố nào xuất hiện trên đường mình đi. Cả hai được mời gọi đáp lại quà tặng của Thiên Chúa với thái độ dấn thân, sáng tạo, kiên trung, và với sự cố gắng mỗi ngày. Họ luôn luôn có thể khẩn cầu sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thánh hiến mối kết hợp của họ, để họ cảm nghiệm được ân sủng của Ngài trong mọi hoàn cảnh mới mà họ gặp.
  1. Trong truyền thống Giáo Hội La tinh, các thừa tác viên của Bí tích Hôn Phối là chính người nam và người nữ đang kết hôn;[70] qua việc bày tỏ sự ưng thuận và diễn tả nó một cách cụ thể, họ nhận được một quà tặng lớn lao. Sự ưng thuận của họ và sự kết hợp thân xác là phương tiện được Thiên Chúa đặt định nhờ đó họ trở nên “một xương một thịt”. Nhờ sự thánh hiến trong Phép Rửa, họ được trao khả năng bước vào hôn nhân trong tư cách những thừa tác viên của Chúa, và do đó có thể đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Vì thế, khi đôi bạn ngoài Kitô giáo lãnh Phép Rửa, họ không cần lặp lại những lời hứa kết hôn; chỉ cần họ đừng loại bỏ các lời hứa ấy, vì do việc lãnh Phép Rửa, sự kết hợp của họ trở nên bí tích một cách tự động. Giáo Luật cũng nhìn nhận tính hữu hiệu của một số sự kết hợp được cử hành mà không có sự hiện diện của một thừa tác viên chức thánh.[71] Trật tự tự nhiên đã được thấm đẫm ơn cứu chuộc của Đức Giêsu đến nỗi “một khế ước hôn nhân hữu hiệu không thể tồn tại giữa những người đã nhận Phép Rửa nếu khế ước ấy không phải là một bí tích”.[72] Giáo Hội có thể đòi hỏi rằng lễ cưới phải được cử hành công khai, với sự hiện diện của những người làm chứng, và những điều kiện khác nữa vốn thay đổi qua thời gian, nhưng điều này không hề làm sút giảm sự thật rằng chính đôi bạn kết hôn là những thừa tác viên của bí tích. Nó cũng không ảnh hưởng đến tính cốt lõi của sự ưng thuận được diễn tả bởi người nam và người nữ, tự nó sự ưng thuận này thiết lập mối dây bí tích. Với tất cả những gì đã đề cập như thế, vẫn cần phải suy tư thêm về hành động của Thiên Chúa trong nghi thức hôn phối; điều này được thể hiện rõ ràng trong các Giáo Hội Đông phương với tầm quan trọng của việc chúc phúc cho đôi bạn như dấu chỉ của ân huệ Thánh Thần.

HẠT GIỐNG CỦA LỜI VÀ

NHỮNG HOÀN CẢNH BẤT TOÀN

  1. “Tin Mừng về gia đình cũng nuôi dưỡng những hạt giống vẫn còn đang đợi phát triển, và phục vụ như cơ sở cho việc chăm sóc những cây đang héo rủ mà ta không được dửng dưng.”[73] Như thế, được xây dựng trên ân ban của Đức Kitô trong bí tích, đôi vợ chồng “có thể được hướng dẫn bền bỉ tiến tới, để đạt được một sự nắm hiểu sâu xa hơn và một sự hội nhập đầy đủ hơn mầu nhiệm này trong đời sống của họ”.[74]
  1. Dựa vào giáo huấn của Thánh Kinh rằng mọi sự đã được tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô (x. Cl 1,16), các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “trật tự cứu chuộc soi sáng và hoàn thành trật tự sáng tạo. Vì thế, hôn nhân tự nhiên được nhận hiểu đầy đủ trong ánh sáng sự hoàn thành của nó trong Bí tích Hôn Phối: chỉ bằng cách chiêm ngắm Đức Kitô người ta mới có thể đạt đến hiểu biết sự thật sâu xa nhất về các mối tương quan nhân loại. ‘Chỉ trong mầu nhiệm Lời Nhập Thể mầu nhiệm con người mới được soi sáng… Qua mạc khải mầu nhiệm của Chúa Cha và tình yêu của Ngài, Đức Kitô, Ađam mới, cho con người thấy đầy đủ về chính mình và làm cho ơn gọi nền tảng nhất của con người nên rõ ràng’ (Gaudium et Spes, 22). Thật rất hữu ích việc nhận hiểu thiện ích của đôi vợ chồng qua chìa khóa qui Kitô (bonum coniugum)”,[75] những thiện ích ấy bao gồm sự hiệp nhất, sự mở ra đón nhận sự sống, lòng chung thủy, tính bất khả phân ly, và – trong hôn nhân Kitô giáo – sự nâng đỡ nhau trên con đường hướng đến tình thân hữu trọn vẹn với Chúa. “Việc phân định sự hiện diện của ‘các hạt giống Lời’ trong các nền văn hóa khác (x. Ad Gentes 11) cũng có thể áp dụng cho thực tại hôn nhân và gia đình. Bên cạnh hôn nhân tự nhiên đích thực, các yếu tố tích cực cũng tồn tại trong những dạng hôn nhân được gặp thấy trong các truyền thống tôn giáo khác”,[76] dù cho đôi khi chỉ thấy rất mờ nhạt. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng “bất cứ ai muốn đem lại cho thế giới này một gia đình mà ở đó con cái được dạy biết vui thích mọi hành động nhắm thắng vượt sự dữ – một gia đình cho thấy rằng Thánh Thần đang sống hoạt và hành động – thì sẽ nhận được lòng biết ơn và sự trân trọng của chúng ta. Cho dẫu họ thuộc dân tộc, tôn giáo hay vùng miền nào đi nữa!”[77]
  1. “Ánh sáng Đức Kitô chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9; Gaudium et Spes, 22). Việc nhìn mọi sự với đôi mắt của Đức Kitô sẽ gợi cảm hứng cho Giáo Hội trong việc chăm sóc mục vụ các tín hữu đang sống với nhau, hay chỉ kết hôn dân sự, hay đã ly dị và tái hôn. Đi theo khoa sư phạm thần linh này, Giáo Hội ân cần hướng đến những ai tham dự vào đời sống của mình trong một cách thế không hoàn hảo: Giáo Hội tìm kiếm ơn hoán cải cho họ; Giáo Hội khích lệ họ làm điều thiện, ân cần chăm sóc lẫn nhau và phục vụ cộng đồng nơi họ sống và làm việc… Khi một đôi bạn trong mối kết hợp bất thường đạt được một sự ổn định đáng ghi nhận xuyên qua một mối ràng buộc công khai – và được đặc trưng bởi tình cảm sâu xa, trách nhiệm đối với con cái và khả năng vượt qua các thử thách – thì điều này có thể được coi như một cơ hội, để nếu có thể, dẫn họ tới việc cử hành Bí tích Hôn Phối”.[78]
  1. “Khi đứng trước những hoàn cảnh khó khăn và những gia đình bị thương tích, luôn luôn cần phải nhớ lại nguyên tắc chung này: ‘Các mục tử phải biết rằng, vì sự thật, họ buộc phải cẩn thận phân định các hoàn cảnh’ (Familiaris Consortio, 84). Mức trách nhiệm không ngang nhau trong mọi trường hợp, và có thể tồn tại các yếu tố làm hạn chế khả năng quyết định. Vì thế, trong khi nêu rõ ràng giáo huấn của Giáo Hội, các mục tử phải tránh những phán đoán không xét đến sự phức tạp của các hoàn cảnh khác nhau, và các ngài cần lưu tâm đến nỗi khổ mà người ta đang chịu do tình trạng của họ”.[79]

THÔNG TRUYỀN SỰ SỐNG

VÀ NUÔI DẠY CON CÁI

  1. Hôn nhân trước hết là một “liên kết mật thiết của sự sống và tình yêu”[80] vốn là một thiện ích cho chính đôi vợ chồng,[81] trong khi tính dục được “sắp xếp cho tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ”.[82] Theo đó thì “những vợ chồng mà Thiên Chúa không ban con cái vẫn có thể có một đời sống phu phụ đầy ý nghĩa, xét cả về nhân bản lẫn Kitô giáo”.[83] Tuy nhiên, mối kết hợp vợ chồng “tự bản tính của nó” được sắp xếp để sinh sản.[84] Đứa con được sinh ra không đến từ bên ngoài như thể một cái gì được đính thêm vào tình yêu thương nhau giữa vợ chồng, nhưng đứa con phát xuất từ chính trung tâm của việc trao hiến cho nhau, như hoa trái và sự hoàn thành của việc trao hiến ấy”.[85] Đứa con không xuất hiện ở cuối một tiến trình, nhưng hiện diện từ đầu của tình yêu như nét thiết yếu, và nó không thể bị phủ nhận nếu không muốn làm méo mó chính tình yêu ấy. Ngay từ đầu, tình yêu từ khước mọi sức ép đóng kín với chính mình; nó mở ra cho khả năng sinh hoa trái có sức thúc đẩy tình yêu vượt quá chính nó. Vì thế không một hành vi giao hợp vợ chồng nào có thể khước từ ý nghĩa này,[86] ngay cả dù, vì nhiều lý do, nó có thể không luôn luôn thực sự đem lại một sự sống mới.
  1. Đứa con xứng đáng được sinh ra từ tình yêu như thế, chứ không phải bằng bất cứ phương tiện nào khác, vì “đứa con không phải là một món nợ trả cho người ta, nhưng là một quà tặng”,[87] đứa con là “hoa trái của hành vi chuyên biệt của tình yêu phu phụ giữa cha mẹ”.[88] Đó là sự thật, bởi vì “theo trật tự sáng tạo, tình yêu phu phụ giữa một người nam và một người nữ, và sự thông truyền sự sống, hai thực tại này được sắp xếp cho nhau (x. St 1,27-28). Vì thế Đấng Sáng Tạo đã làm cho người nam và người nữ tham dự vào công trình sáng tạo của Ngài, và đồng thời làm cho họ thành những dụng cụ diễn tả tình yêu của Ngài, ủy thác cho họ trách nhiệm đối với tương lai của loài người xuyên qua việc thông truyền sự sống con người”.[89]
  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng “sự lan tràn của một não trạng muốn giảm trừ việc thông truyền sự sống con người đến chỉ còn là một ý muốn thất thường của những kế hoạch cá nhân hay của đôi bạn, đó là điều quá rõ ràng”.[90] Giáo huấn của Giáo Hội nhằm “giúp các vợ chồng kinh nghiệm, một cách trọn vẹn, hòa điệu và ý thức, về mối hiệp thông vợ chồng của họ, cũng như về trách nhiệm của họ đối với việc sinh sản. Chúng ta cần trở lại với Thông điệp Humanae Vitae của Chân Phước Phaolô VI, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải tôn trọng phẩm giá của nhân vị khi đánh giá về mặt đạo đức những phương pháp điều hòa sinh sản… Việc chọn lựa con nuôi cũng có thể diễn tả hoa trái vốn là đặc trưng của đời sống vợ chồng”.[91] Với lòng biết ơn đặc biệt, Giáo Hội “ủng hộ các gia đình đón nhận, nuôi dưỡng và bao bọc bằng tình thương những con cái bị các khuyết tật khác nhau”.[92]
  1. Ở đây tôi thấy thật khẩn thiết phải tuyên bố rằng nếu gia đình là cung thánh của sự sống, là nơi mà sự sống được thai nghén và chăm sóc, thì quả là mâu thuẫn khủng khiếp khi nó trở thành một nơi mà sự sống bị loại bỏ và hủy diệt. Giá trị của sự sống con người cao cả biết bao, và quyền được sống của một trẻ thơ vô tội lớn lên trong cung lòng người mẹ là quyền bất khả nhượng, đến nỗi không ai có thể viện lẽ rằng mình có quyền trên thân thể mình để biện minh cho quyết định chấm dứt sự sống ấy, vốn là cứu cánh nơi chính nó, và không bao giờ có thể bị xem như “tài sản” của một con người khác. Gia đình bảo vệ sự sống con người trong mọi giai đoạn của nó, kể cả giai đoạn cuối cùng. Do đó, “những ai làm việc trong các cơ sở y tế được nhắc nhớ về bổn phận luân lý phải biết phản đối theo lương tâm. Cũng vậy, Giáo Hội không chỉ cảm thấy cần phải khẳng định quyền được chết tự nhiên, không chấp nhận sự can thiệp thô bạo và cái chết êm dịu (euthanasia)”, mà Giáo Hội còn “mạnh mẽ phản đối án tử hình” nữa.[93]
  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng muốn nhấn mạnh rằng “một trong những thách đố nền tảng mà các gia đình hôm nay phải đối mặt, đó hẳn là việc nuôi dạy con cái, việc này càng khó khăn và phức tạp hơn nữa do thực tế văn hóa thời nay và do ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thông”.[94] “Giáo Hội đảm nhận một vai trò đầy ý nghĩa trong việc nâng đỡ các gia đình, bắt đầu với việc khai tâm Kitô giáo, xuyên qua các cộng đoàn luôn sẵn sàng đón tiếp”.[95] Đồng thời tôi cảm thấy thật quan trọng việc lặp lại rằng toàn bộ việc giáo dục con cái là một “bổn phận hệ trọng nhất” và đồng thời là một “quyền bậc nhất” của cha mẹ.[96] Đây không chỉ là một công tác hay một gánh nặng, nhưng còn là một quyền thiết yếu và bất khả nhượng mà cha mẹ được mời gọi để bảo vệ và không ai có thể tước nó khỏi cha mẹ. Nhà nước cung ứng các chương trình giáo dục một cách bổ trợ, hỗ trợ các cha mẹ trong vai trò không thể phủ nhận này của họ; cha mẹ giữ quyền tự do chọn lựa loại giáo dục – có phẩm chất tốt và tiếp cận được – mà họ muốn trao cho con cái mình, phù hợp với những xác tín của họ. Trường học không thay thế cha mẹ, nhưng chỉ bổ sung thôi. Đây là một nguyên tắc căn bản: “tất cả những người tham dự vào tiến trình giáo dục chỉ có thể thi hành trách nhiệm của mình nhân danh các phụ huynh, với sự đồng thuận của phụ huynh và, trong mức độ nào đó, với sự ủy quyền của các phụ huynh”.[97] Thế nhưng, “một kẽ nứt đã lộ ra giữa gia đình và xã hội, giữa gia đình và học đường; khế ước giáo dục ngày nay đã bị phá vỡ, và vì thế sự liên kết có tính giáo dục giữa xã hội và gia đình đang lâm vào khủng hoảng”.[98]
  1. Giáo Hội được mời gọi cộng tác với các bậc cha mẹ xuyên qua những sáng kiến mục vụ thích hợp, hỗ trợ họ trong việc chu toàn sứ mạng giáo dục của họ. Giáo Hội phải luôn luôn làm việc này bằng cách giúp các bậc cha mẹ trân trọng vai trò riêng của mình và nhận ra rằng với việc lãnh Bí tích Hôn Phối, họ trở thành những thừa tác viên của công cuộc giáo dục con cái mình. Trong việc giáo dục con cái, họ xây dựng Giáo Hội,[99] và khi làm thế, họ chấp nhận một ơn gọi do Thiên Chúa ban.[100]

GIA ĐÌNH VÀ GIÁO HỘI

  1. “Với niềm vui bên trong và niềm an ủi thâm sâu, Giáo Hội hướng nhìn đến các gia đình kiên trung với các giáo huấn của Tin Mừng, khích lệ họ và cám ơn họ về chứng từ mà họ trao. Vì họ làm chứng, một cách đáng tin, về vẻ đẹp của hôn nhân trong đặc tính bất khả phân ly và chung thủy. Trong gia đình, ‘vốn có thể gọi là Giáo Hội tại gia’ (Lumen Gentium, 11), các cá nhân đi vào một kinh nghiệm Giáo Hội về mối hiệp thông giữa các nhân vị mà, nhờ ân sủng, vốn có sức phản ảnh chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. ‘Ở đây người ta học về sự nhẫn nại và niềm vui làm việc, về tình huynh đệ, sự quảng đại tha thứ (ngay cả tha thứ hết lần này đến lần khác), và trên hết là học thờ phượng Thiên Chúa trong cầu nguyện và hiến dâng chính mình’ (Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, 1657)”.[101]
  1. Giáo Hội là một gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo Hội tại gia ấy. “Với Bí tích Hôn Phối, mọi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho toàn Giáo Hội. Từ quan điểm này, việc suy tư về mối tương tác giữa gia đình và Giáo Hội sẽ là một ân ban quí giá cho Giáo Hội trong thời chúng ta. Giáo Hội rất tốt cho gia đình, và gia đình rất tốt cho Giáo Hội. Việc gìn giữ ân ban của Chúa trong Bí tích Hôn Phối là một mối quan tâm không chỉ của các gia đình riêng lẻ, nhưng là của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu”.[102]
  1. Kinh nghiệm yêu thương trong các gia đình là một nguồn sức mạnh bất tận cho đời sống của Giáo Hội. “Cứu cánh kết hợp của hôn nhân là một lời kêu gọi không ngừng làm sao cho tình yêu này được lớn lên và đào sâu. Xuyên qua sự kết hợp trong tình yêu của mình, đôi bạn kinh nghiệm vẻ đẹp của vai trò làm cha làm mẹ, và họ chia sẻ những kế hoạch, những thử thách, những kỳ vọng và những ưu tư; họ học biết chăm sóc nhau và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu này, họ cử hành những khoảnh khắc hạnh phúc của mình và nâng đỡ nhau trong những thời khắc khó khăn của đời sống chung… Vẻ đẹp của món quà nhưng không và hỗ tương này, niềm vui đến từ một sự sống được sinh ra và sự săn sóc ân cần của mọi thành viên gia đình – từ thơ bé cho đến tuổi già – chỉ là một số trong rất nhiều hoa trái làm cho việc đáp trả đối với ơn gọi của gia đình trở nên độc đáo và không thể thay thế được”,[103] cả về phần Giáo Hội lẫn về phần xã hội xét như một toàn thể.

CHƯƠNG BỐN:

TÌNH YÊU TRONG HÔN NHÂN

  1. Tất cả những gì đã đề cập cho tới đây vẫn là chưa đủ để diễn tả Tin Mừng về hôn nhân và gia đình, nếu chúng ta không nói về tình yêu. Bởi vì chúng ta không thể thúc đẩy một nẻo đường trung thành và tự hiến cho nhau nếu không khích lệ sự lớn lên, sự củng cố và đào sâu tình yêu phu phụ và gia đình. Thật vậy, ơn sủng của Bí tích Hôn Phối được nhắm trước hết là “để làm cho tình yêu của đôi bạn nên trọn hảo”.[104] Ở đây chúng ta cũng có thể nói rằng “ngay cả dù tôi có đức tin có thể chuyển núi dời non, nhưng nếu tôi không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì. Nếu tôi trao tặng tất cả những gì tôi có, nếu tôi nộp mình chịu thiêu đốt, nhưng không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng được gì” (1Cr 13,2-3). Tuy nhiên, nếu từ “tình yêu” rất hay được dùng thì nó cũng rất hay bị lạm dụng.[105]

TÌNH YÊU HẰNG NGÀY CỦA CHÚNG TA

  1. Trong một bản văn tuyệt đẹp của Thánh Phaolô, chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích thực:

“Yêu thì nhẫn nhục,

nhân hậu,

yêu thì không ghen tương,

không vênh vang,

không tự đắc hay thô lỗ.

Yêu thì không cố chấp theo cách của mình,

không nóng giận,

không nuôi hận thù,

yêu thì không mừng khi thấy sự gian ác,

nhưng vui khi thấy điều chân thật.

Tình yêu bao dung tất cả,

tin tưởng tất cả,

hy vọng tất cả,

chịu đựng tất cả (1Cr 13,4-7).

Tình yêu được kinh nghiệm và được nuôi dưỡng trong đời sống hằng ngày của đôi vợ chồng và con cái họ. Thiết tưởng ở đây cần suy nghĩ sâu hơn về ý nghĩa bản văn của Thánh Phaolô, và tính phù hợp của nó đối với hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình.

Yêu thì nhẫn nhục

  1. Từ ngữ đầu tiên được dùng là makrothyméi. Ở đây không duy chỉ liên quan tới ý nghĩa “chịu đựng tất cả”, vì chúng ta gặp thấy ý tưởng ấy ở cuối câu 7. Ý nghĩa của từ này được làm sáng tỏ nhờ bản dịch tiếng Hy lạp của Cựu Ước, ở đó chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa “chậm giận” (Xh 34,6; Ds 14,18). Như vậy, nó qui chiếu đến phẩm chất của một người không hành động khi bức xúc và tránh gây tổn thương. Chúng ta tìm thấy phẩm chất này nơi vị Thiên Chúa của Giao ước, Đấng kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài cả trong đời sống gia đình. Từ ngữ này trong bản văn của Thánh Phaolô cần phải được đọc trong ánh sáng của sách Khôn Ngoan (x. 11,23; 12,2.15-18), ở đó ca ngợi sự kiềm chế của Thiên Chúa, như để ngỏ cho khả năng thống hối, nhưng vẫn khẳng định quyền lực của Ngài, như được mạc khải trong những hành động thương xót của Ngài. “Sự nhẫn nhục “ của Thiên Chúa, được thấy nơi lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân, là một dấu hiệu cho thấy quyền năng thực sự của Ngài.
  1. Nhẫn nhục không có nghĩa là cho phép mình thường xuyên bị xử tệ, nhận chịu sự bạo hành trên thân xác, hay cho phép người khác sử dụng mình. Chúng ta gặp vấn đề bất cứ khi nào chúng ta đòi rằng các mối tương quan hay thiên hạ chung quanh mình phải hoàn hảo, hay khi chúng ta đặt mình ở trung tâm và kỳ vọng mọi thứ đi theo đường của mình. Rồi mọi sự làm chúng ta mất kiên nhẫn, mọi sự làm chúng ta phản ứng cách bức xúc. Trừ phi chúng ta vun xới thái độ nhẫn nhục, chúng ta sẽ luôn luôn phải hối tiếc vì cư xử giận dữ. Rốt cục chúng ta sẽ không thể sống với nhau, ta chống lại xã hội, ta không có khả năng kiểm soát các xung năng của mình, và gia đình chúng ta sẽ trở thành bãi chiến trường. Vì thế Lời Chúa nói với chúng ta: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31). Sự nhẫn nhục sẽ bắt rễ khi tôi nhận ra rằng người khác cũng có quyền sống trong thế giới này, như sự thật quá hiển nhiên. Không thành vấn đề việc họ ngáng trở tôi, làm xáo trộn các kế hoạch của tôi, hay họ làm tôi bực mình do cách suy nghĩ và hành động của họ, hoặc họ không sống theo cách mà tôi muốn họ sống. Tình yêu luôn luôn có một khía cạnh thương cảm sâu xa dẫn tới việc chấp nhận người khác như một phần của thế giới này, ngay cả khi người ấy hành động khác với kỳ vọng của tôi.

Yêu là phục vụ người khác

  1. Từ ngữ kế tiếp mà Thánh Phaolô dùng là chrestéuetai. Trong toàn bộ Thánh Kinh, từ này chỉ được dùng ở đây mà thôi. Nó có gốc ở từ chrestós, có nghĩa: một người tốt, một người cho thấy lòng tốt qua các việc làm của mình. Ở đây, trong quan hệ song song chặt chẽ với động từ đi trước, nó phục vụ như một sự bổ sung. Phaolô muốn nêu rõ rằng “nhẫn nhục” không phải là một thái độ hoàn toàn thụ động, nhưng là một thái độ gắn liền với hoạt động, với một tương tác năng động và đầy sáng tạo với người khác. Từ ngữ này cho thấy rằng tình yêu giúp ích cho người khác. Vì vậy nó được dịch là “nhân hậu”, yêu thì luôn sẵn sàng giúp đỡ.
  1. Xuyên suốt bản văn, rõ ràng Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh rằng tình yêu không phải là một cảm xúc thuần túy. Đúng hơn, nó phải được hiểu theo động từ “yêu” của tiếng Híp-ri; nghĩa là “làm điều tốt”. Như Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Tình yêu được thể hiện bằng việc làm nhiều hơn bằng lời nói”.[106] Như vậy nó cho thấy hoa quả của nó và cho phép chúng ta cảm nghiệm niềm hạnh phúc của việc trao ban, sự cao quí và vĩ đại của việc dâng hiến chính mình một cách hào phóng, mà không yêu cầu được đền đáp, nhưng chỉ thuần túy vì niềm vui của việc trao ban và phục vụ.

Yêu thì không ghen tương

  1. Thánh Phaolô tiếp tục loại bỏ một thái độ đối ngược với tình yêu được diễn tả trong động từ zelói – tức ghen tương hay đố kị. Điều này có nghĩa là tình yêu không có chỗ cho sự khó chịu trước điều may mắn tốt lành của kẻ khác (x. Cv 7,9; 17,5). Ghen tị là một dạng buồn bực trước sự thành đạt của người khác; nó cho thấy rằng chúng ta không quan tâm đến hạnh phúc của người khác mà chỉ lo cho lợi ích của chính mình. Trong khi tình yêu nâng chúng ta lên trên chính mình, thì sự ghen tị đóng kín chúng ta nơi chính mình. Tình yêu đích thực thì trân trọng sự thành công của người khác. Nó không xem người ấy như sự đe dọa đối với mình. Nó giải phóng chúng ta khỏi sự chua chát của ghen tị. Nó nhìn nhận rằng mỗi người có những ân ban khác nhau và có một lối đi độc đáo trong cuộc sống. Vì thế nó cố gắng khám phá con đường hạnh phúc của mình, trong khi cho phép người khác tìm thấy con đường của họ.
  1. Nói tắt, tình yêu có nghĩa là chu toàn hai mệnh lệnh cuối cùng của Luật Chúa: “Ngươi sẽ không thèm muốn nhà của người hàng xóm; ngươi sẽ không thèm muốn vợ của anh ta, tôi trai tớ gái của anh ta, con bò con lừa của anh ta, hay bất cứ gì của anh ta” (Xh 20,17). Tình yêu khơi lên một niềm quí trọng chân thành đối với mọi người và nhìn nhận quyền được hạnh phúc của người ta. Tôi yêu con người này, và tôi nhìn người ấy với ánh nhìn của Thiên Chúa, Đấng trao ban mọi sự “cho chúng ta hưởng dùng” (1Tm 6,17). Và nhờ đó, tôi cảm nhận một niềm hạnh phúc và an bình sâu xa. Chính tình yêu cắm rễ sâu xa này cũng sẽ hướng dẫn tôi loại trừ sự bất công trong đó một số người chiếm hữu quá nhiều và những người khác thì sở hữu quá ít. Nó thúc đẩy tôi tìm ra các cách thế để giúp những người bị loại bỏ của xã hội tìm được một chút niềm vui. Đó không phải là ghen tị, nhưng là khát khao sự bình đẳng.

Yêu thì không vênh vang

  1. Từ perpereúetai hàm nghĩa sự tự đắc, xu hướng ngạo mạn, kệch cỡm và có vẻ huênh hoang. Những người yêu thương thì không chỉ biết kiềm chế để không nói quá nhiều về chính mình, nhưng tập trung vào người khác; họ không cần làm trung tâm thu hút sự chú ý. Từ physioútai tiếp theo sau cũng có nghĩa tương tự, cho thấy rằng tình yêu thì không cao ngạo. Theo sát nghĩa thì nó muốn nói rằng chúng ta không “lên mặt” trước người khác. Nó cũng có ý chỉ một cái gì đó tế nhị hơn: một thói khoe mẽ và sự mất cảm thức về thực tế. Những người như thế nghĩ rằng, vì họ “đạo đức” hay “khôn ngoan” hơn, nên họ quan trọng hơn. Phaolô dùng động từ này trong những trường hợp khác nữa, như khi ngài nói rằng “sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo”, trong khi “tình yêu thì xây dựng” (1Cr 8,1). Một số người nghĩ rằng họ quan trọng vì họ hiểu biết hơn những người khác; họ muốn khống chế những người khác. Tuy nhiên, điều thực sự làm chúng ta quan trọng chính là một tình yêu có sức cảm thông, bày tỏ quan tâm, và bênh vực những người yếu đuối. Ở chỗ khác, từ này được dùng để phê bình những người “phô trương” tầm quan trọng của họ (x. 1Cr 4,18) nhưng thực sự nơi họ chất đầy những lời trống rỗng hơn là “sức mạnh” thật sự của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 4,19).
  1. Thật quan trọng việc người Kitô hữu biết bày tỏ tình yêu của mình theo cách họ cư xử với những thành viên trong gia đình ít hiểu biết hơn mình về đức tin, những người yếu hay không chắc chắn trong những niềm xác tín của họ. Có những lúc xảy ra điều ngược lại: những tín hữu được cho là trưởng thành, trong gia đình, lại trở thành cao ngạo một cách không thể chấp nhận được. Tình yêu, đàng khác, được đánh dấu bằng sự khiêm nhường; để có thể thông cảm, tha thứ và phục vụ người khác từ tận đáy lòng, thì thói kiêu ngạo của chúng ta phải được chữa trị và lòng khiêm nhường phải tăng triển. Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng trong một thế giới mà quyền lực thống trị, mỗi người cố thống trị kẻ khác, nhưng “giữa anh em thì không như thế” (Mt 20,26). Tự căn bản của nó, tình yêu Kitô giáo không hướng đến tầm quan trọng hay quyền lực; đúng hơn, “ai đứng đầu anh em thì phải làm tôi tớ” (Mt 20,27). Trong đời sống gia đình, lối thống trị và cạnh tranh để khẳng định ai là người thông minh nhất hay quyền lực nhất sẽ hủy diệt tình yêu. Sự khiển trách của Thánh Phêrô cũng áp dụng cho gia đình: “Tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhường đối với nhau, vì ‘Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường’” (1Pr 5,5).

Yêu thì không thô lỗ

  1. Yêu cũng có nghĩa là dịu dàng và quan tâm, ý nghĩa này được chứa đựng trong từ aschemonéi. Từ này cho thấy rằng tình yêu thì không thô lỗ hay cục mịch; tình yêu không khắc nghiệt. Các hành động, lời nói và cử chỉ của nó đem lại sự dễ chịu và không gai góc hay cứng cỏi. Tình yêu tối kỵ làm cho người khác đau khổ. Nhã nhặn “là một trường học dạy sự nhạy cảm và tinh thần vô vụ lợi”, nó đòi người ta “phải phát triển tâm trí và các cảm nghĩ của mình, học biết cách lắng nghe, cách ăn nói, và có những lúc cũng biết cách thinh lặng”.[107] Nó không phải là một cái gì mà một Kitô hữu có thể chấp nhận hay từ khước. Xét như một đòi hỏi thiết yếu của tình yêu, “mọi người đều phải vui sống thuận thảo với những người xung quanh mình”.[108] Hằng ngày, “việc đi vào đời sống của một người khác, ngay cả khi người ấy vốn đã tham dự vào đời sống mình, đòi hỏi sự nhạy cảm và sự thận trọng, là những yếu tố có sức làm mới mẻ lòng tin tưởng và kính trọng. Thật vậy, tình yêu càng sâu xa, nó càng mời gọi tôn trọng tự do của người khác, và mời gọi khả năng chờ đợi cho đến khi người ấy cởi mở lòng họ”.[109]
  1. Để cởi mở đón nhận một cuộc gặp gỡ đích thực với người khác, thiết yếu phải có “một cái nhìn nhân hậu”. Điều này trái ngược với một thái độ tiêu cực luôn muốn vạch ra những khuyết điểm của người khác trong khi bỏ qua những khuyết điểm của chính mình. Một cái nhìn nhân hậu giúp chúng ta nhìn thấy xa hơn những giới hạn của chúng ta, để biết nhẫn nhục và cộng tác với người khác, bất chấp những khác biệt. Lòng nhân hậu yêu thương sẽ xây dựng các mối dây gắn kết, vun xới các tương quan, kiến tạo các mạng lưới hội nhập mới và đan kết một cơ cấu xã hội vững chắc. Bằng cách này, nó càng trở nên mạnh mẽ hơn, vì nếu không có một cảm thức thuộc về, thì chúng ta không thể bền bỉ dấn thân cho người khác; chúng ta rốt cục sẽ chỉ tìm kiếm lợi ích của mình, và đời sống chung sẽ trở thành bất khả. Những người dị ứng với xã hội nghĩ rằng những người khác tồn tại chỉ để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Do đó, không có chỗ cho sự dịu dàng của tình yêu và những diễn tả của nó. Những người biết yêu thương thì có khả năng nói những lời vấn an, động viên, thông cảm và khích lệ. Đó là những lời mà chính Đức Giêsu đã nói: “Này con, cứ yên tâm!” (Mt 9,2); “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15,28); “Hãy trỗi dậy đi!” (Mc 5,41); “Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50); “Đừng sợ” (Mt 14,27). Đó không phải là những lời hạ thấp chính mình, gây buồn phiền, chọc tức hay khinh mạn. Trong các gia đình chúng ta, chúng ta phải học bắt chước sự dịu dàng của chính Đức Giêsu trong cách ta ăn nói với nhau.

Yêu thì quảng đại

  1. Chúng ta đã lặp đi lặp lại rằng để yêu thương nhau, trước hết chúng ta phải yêu thương chính mình. Tuy nhiên, bài ca của Thánh Phaolô nêu rõ rằng tình yêu “không tìm ích lợi riêng mình”, cũng không “tìm kiếm chính mình”. Ý tưởng tương tự được diễn tả trong một bản văn khác: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4). Thánh Kinh cho thấy rõ rằng việc quảng đại phục vụ người khác thì cao quí hơn là yêu thương chính mình. Việc yêu thương chính mình chỉ quan trọng như một điều kiện tâm lý để có thể yêu thương người khác: “Nếu một người bần tiện với chính mình, thì người ấy sẽ quảng đại với ai? Không ai ác hơn là người ác với chính mình” (Hc 14,5-6).
  1. Thánh Tôma Aquinô giải thích rằng “đức ái được đặc trưng ở khát vọng yêu hơn là ở khát vọng được yêu”;[110] thật vậy, “những người mẹ, là những người yêu nhiều nhất, luôn tìm cách để yêu hơn là để được yêu”.[111] Vì thế, tình yêu có thể siêu vượt và tràn lấp những đòi hỏi của công bằng, “không chờ mong được đáp trả gì” (Lc 6,35), và tình yêu lớn nhất có thể dẫn đến “việc hiến mạng sống mình” cho người khác (x. Ga 15,13). Sự quảng đại như thế, điều làm ta có thể trao đi cách tự do và trọn vẹn, phải chăng là điều thực sự có thể? Vâng, nó có thể, bởi vì nó được đòi hỏi bởi Tin Mừng: “Anh em đã nhận cách nhưng không, thì hãy trao đi cách nhưng không” (Mt 10,8).

Yêu thì không nóng giận, không nuôi hận thù

  1. Nếu từ đầu tiên trong bài ca của Thánh Phaolô nói về sự cần thiết của một lòng nhẫn nhục giúp người ta không lập tức phản ứng một cách khắc nghiệt trước những yếu đuối và sai lỗi của người khác, thì từ kế tiếp mà ngài sử dụng, là paroxýnetai, có liên hệ nhiều hơn tới một sự bức xúc bên trong do một cái gì đó từ bên ngoài khơi lên. Nó qui chiếu đến một phản ứng bạo lực ở bên trong, một sự tức tối ẩn kín làm cho ta bực bội về người khác, như thể họ gây phiền hà hay đe dọa và do đó ta phải tránh xa họ. Việc nuôi dưỡng thái độ gây hấn trong lòng như thế sẽ không giúp ích gì cho ai. Nó chỉ gây tổn thương và làm người ta xa lánh. Bức xúc chỉ lành mạnh khi nó làm cho ta phản ứng trước một bất công nghiêm trọng; còn khi bức xúc ướp đẫm trong thái độ của chúng ta đối với người khác thì nó chỉ gây tai hại.
  1. Tin Mừng bảo chúng ta hãy nhìn cái xà trong mắt mình (x. Mt 7,5). Kitô hữu không thể phớt lơ sự cảnh cáo thường xuyên của Lời Chúa rằng đừng nuôi cơn giận: “Đừng để cho sự ác thắng được mình” (Rm 12,21). “Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí” (Gl 6,9). Việc đột nhiên cảm thấy một nỗi oán hận trào lên, đó là một chuyện; còn việc dung dưỡng nó, cho phép nó bắt rễ trong tâm hồn mình, thì đó là một chuyện khác: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội; chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Tôi muốn khuyên rằng đừng bao giờ để ngày trôi qua mà không làm hòa trong gia đình. “Nhưng tôi sẽ làm hòa bằng cách nào? Tôi sẽ quì xuống chăng? Không! Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một cái gì đó rất đơn sơ thôi, và sự hòa điệu trong gia đình sẽ được vãn hồi. Chỉ cần một chút âu yếm, chẳng cần lời lẽ gì. Nhưng bạn đừng để ngày trôi qua mà không làm hòa trong gia đình”.[112] Phản ứng đầu tiên của chúng ta khi bị gây phiền nhiễu nên là một phản ứng chân thành chúc phúc, xin Thiên Chúa chúc phúc, giải phóng và chữa trị người đó. “Nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1Pr 3,9). Nếu chúng ta phải chiến đấu chống lại sự dữ, thì hãy chiến đấu; nhưng chúng ta phải luôn luôn nói “không” với bạo lực trong gia đình.

Tình yêu tha thứ

  1. Một khi chúng ta cho phép ác ý bắt rễ trong lòng mình, nó sẽ dẫn đến sự oán hận sâu xa. Cụm từ ou logízetai to kakón có nghĩa rằng tình yêu “không chấp sự dữ”; “nó không oán hận”. Đối ngược với oán hận là tha thứ, xuất phát từ một thái độ tích cực muốn tìm cách thông cảm sự yếu đuối của người khác và bỏ qua cho họ. Như Đức Giêsu nói: “Cha ơi, xin tha cho họ, vì họ không biết điều họ làm” (Lc 23,24). Thế nhưng chúng ta cứ mải tìm kiếm thêm những điều sai lỗi, tưởng tượng những điều xấu xa hơn, giả định mọi loại ác ý, và vì thế sự oán hận tăng lên và ăn sâu. Do đó mà mọi lỗi lầm hay sai sót từ người vợ (hay chồng) đều có thể làm hại đến mối dây yêu thương và sự ổn định của gia đình. Có gì đó sai lạc khi chúng ta xem mọi vấn đề đều hệ trọng như nhau; bằng cách ấy, chúng ta liều tỏ ra khắc nghiệt một cách quá đáng đối với những thiếu sót của người khác. Khát vọng chính đáng muốn thấy các quyền của mình được tôn trọng sẽ biến thành một khao khát trả thù thay vì là một sự bảo vệ chính đáng phẩm giá của mình.
  1. Khi chúng ta bị làm tổn thương hay bị coi thường, thì sự tha thứ là điều có thể và đáng mong ước, nhưng không ai có thể nói rằng đó là điều dễ. Sự thật là “mối hiệp thông gia đình chỉ có thể được gìn giữ và được hoàn thiện xuyên qua một tinh thần hy sinh. Thật vậy, nó đòi sự cởi mở quảng đại và sẵn lòng, của từng người và mọi người, để cảm thông, nhịn nhục, tha thứ và hòa giải. Không có gia đình nào mà không kinh nghiệm cách mà sự ích kỷ, bất hòa, căng thẳng và xung đột tấn công thô bạo mối hiệp thông của mình, và có những lúc gây thương tích nặng nề cho mối hiệp thông ấy: do đó mới xảy ra biết bao hình thức chia rẽ trong đời sống gia đình”.[113]
  1. Ngày nay chúng ta nhận ra rằng khả năng tha thứ người khác bao hàm kinh nghiệm giải phóng chính mình qua việc cảm thông và tha thứ cho chính mình. Thường các lỗi lầm của chúng ta, hay những gì mà người thân yêu phê bình ta, có thể dẫn đến sự mất lòng tự trọng. Chúng ta trở nên xa lánh người khác, tránh né tình cảm và tỏ ra sợ hãi các mối tương quan liên vị của mình. Việc đổ lỗi cho người khác trở thành cách sai trái để trấn an mình. Chúng ta cần học biết đưa quá khứ đời mình vào lời cầu nguyện, để biết chấp nhận chính mình, biết cách sống với những hạn chế của mình, và thậm chí biết tha thứ cho chính mình, để có thể có cùng thái độ như vậy đối với người khác.
  1. Tất cả những điều này giả thiết rằng chính chúng ta đã có kinh nghiệm được Thiên Chúa tha thứ, được công chính hóa bởi ân sủng của Ngài chứ không bởi công trạng của chúng ta. Chúng ta đã kinh nghiệm một tình yêu đi trước mọi cố gắng của chính mình, một tình yêu luôn luôn mở cửa, thúc đẩy và khích lệ. Nếu chúng ta chấp nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa thì vô điều kiện, rằng tình yêu của Chúa Cha không thể được mua hay bán, thì chúng ta sẽ có khả năng bày tỏ tình yêu vô hạn và tha thứ cho người khác ngay cả khi họ cư xử tệ hại với chúng ta. Nếu chẳng vậy, đời sống gia đình chúng ta sẽ không còn là một nơi của thông cảm, nâng đỡ và khích lệ nữa, mà thay vào đó sẽ là một nơi thường xuyên căng thẳng và chỉ trích lẫn nhau.

Yêu thì vui với người khác

  1. Thành ngữ chaírei epì te adikía có liên quan tới một tính tiêu cực ẩn sâu trong lòng người ta. Đó là thái độ độc ác của những người vui mừng khi thấy người khác phải chịu đựng sự bất công. Cụm từ sygchaírei te aletheía diễn tả điều ngược lại, có nghĩa là “vui mừng khi thấy điều chân thật”. Nói cách khác, chúng ta vui mừng về điều tốt lành của người khác khi chúng ta thấy phẩm giá của họ và trân trọng các khả năng và các việc tốt của họ. Điều này là không thể đối với những ai luôn luôn so kè và ganh đua, ngay cả với vợ hay chồng mình, để rồi vui mừng trong lòng trước những thất bại của người ấy.
  1. Khi một người, với tình yêu thương, có thể làm điều tốt cho người khác, hay nhìn thấy rằng người khác đang hạnh phúc, thì chính họ cũng cảm thấy hạnh phúc, và bằng cách này họ tôn vinh Thiên Chúa, vì “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2Cr 9,7). Chúa chúng ta đặc biệt trân trọng những ai tìm thấy niềm vui trong hạnh phúc của người khác. Nếu chúng ta không học biết vui mừng trước những điều tốt lành của người khác, và chủ yếu tập trung vào các nhu cầu của mình, thì chúng ta đang tự đày đọa mình trong một cuộc sống vắng bóng niềm vui, như Đức Giêsu dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Gia đình phải luôn luôn là một nơi mà khi một điều gì tốt lành xảy ra với một thành viên, thì người ấy biết rằng những thành viên khác cũng sẽ ở đó để mừng với mình.

Tình yêu bao dung tất cả

  1. Bảng liệt kê của Phaolô kết thúc với bốn cụm từ chứa những từ “tất cả”. Tình yêu bao dung tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Ở đây chúng ta thấy rõ sức mạnh lội ngược dòng văn hóa của một tình yêu có sức đương đầu với bất cứ gì có thể đe dọa nó.
  1. Trước hết, Phaolô nói rằng tình yêu “bao dung tất cả” (panta stégei). Điều này không đơn thuần là chịu đựng sự dữ; nó có liên quan tới việc sử dụng cái lưỡi. Động từ này có nghĩa là “giữ sự bình tâm” đối với điều có thể là sai lỗi nơi người khác. Nó hàm nghĩa sự hạn chế xét đoán, kiểm soát nỗi bức xúc vốn có thể làm bật ra một sự lên án nghiệt ngã và bất nhẫn: “Đừng xét đoán và anh em sẽ không bị xét đoán” (Lc 6,37). Đi ngược lại cách mà chúng ta vẫn thường sử dụng cái lưỡi của mình, Lời Thiên Chúa bảo chúng ta: “Đừng nói xấu nhau, thưa anh chị em” (Gc 4,11). Thói nói xấu người khác là một cách để chúng ta khẳng định chính mình, trút sự oán hận và ghen tị, mà không quan tâm đến tai hại mà mình có thể gây ra. Chúng ta thường quên rằng vu khống có thể là tội; nó xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa khi nó làm thiệt hại nghiêm trọng thanh danh của người khác và gây ra những tổn thất khó sửa chữa được. Vì thế Lời Chúa tuyên bố thẳng thắn rằng cái lưỡi “là cả một thế giới của sự ác”, nó “làm cho toàn thân bị ô nhiễm” (Gc 3,6); nó là một “sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người” (3,8). Trong khi cái lưỡi có thể được dùng để “nguyền rủa những con người đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (3,9), thì tình yêu trân trọng thanh danh của người khác, ngay cả của kẻ thù. Trong khi tìm cách biểu dương luật Chúa, chúng ta không bao giờ được phép quên đòi hỏi đặc biệt này của tình yêu.
  1. Những vợ chồng được liên kết bởi tình yêu sẽ nói tốt về nhau; họ cố gắng nêu khía cạnh tốt nơi người bạn đời của mình, chứ không phải điểm yếu hay những khuyết điểm. Trong bất luận trường hợp nào, họ giữ thinh lặng thay vì nói điều không tốt về người kia. Đây không phải là đóng kịch trước mặt người khác; đúng hơn nó phát xuất từ một thái độ nội tâm. Đây hoàn toàn không phải là việc ngớ ngẩn bảo rằng mình không thấy những vấn đề và những điểm yếu của người kia, mà đúng hơn mình nhìn những điểm yếu và khiếm khuyết ấy trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Chúng ta nhận ra rằng những khuyết điểm ấy là một phần của bức tranh lớn hơn. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là một hỗn hợp phức tạp của ánh sáng và bóng tối. Nơi người kia còn có nhiều điều khác nữa chứ không chỉ là tổng số những điều vặt vãnh làm phiền lòng tôi. Tình yêu không cần phải hoàn hảo thì mới được chúng ta trân trọng. Người kia yêu tôi hết mức trong khả năng của người ấy, với tất cả những giới hạn của người ấy, nhưng sự kiện rằng tình yêu không hoàn hảo không có nghĩa rằng nó không chân thực. Nó vẫn thực đó, dù cho nó giới hạn và phàm trần. Nếu tôi kỳ vọng nhiều quá, người kia sẽ cho tôi biết, vì người ấy không thể sắm vai Thiên Chúa, cũng không thể đáp ứng mọi nhu cầu của tôi. Tình yêu cùng tồn tại với sự bất toàn. Nó “bao dung tất cả” và có thể giữ bình tâm trước những giới hạn của người mình yêu.

Tình yêu tin tưởng tất cả

  1. Panta pisteúei. Tình yêu tin tưởng tất cả. Ở đây “tin” không được hiểu theo nghĩa thần học chặt chẽ, nhưng đúng hơn theo nghĩa “tin tưởng” mà chúng ta vẫn dùng. Điều này vượt quá sự giả định đơn thuần rằng người kia không đang dối lừa chúng ta. Sự tin tưởng căn bản ấy nhìn nhận ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu vượt quá bóng tối, giống như một cục than hồng rực sáng bên dưới đống tro.
  1. Sự tin tưởng này giúp cho một mối tương quan được tự do. Nó có nghĩa rằng chúng ta không cần phải kiểm soát người kia, bám theo từng bước chân của người ấy để không cho người ấy thoát khỏi sự kìm kẹp của mình. Tình yêu thì tin tưởng, nó giải phóng, nó không cố kiểm soát, chiếm hữu hay thống trị mọi sự. Sự tự do này – vốn có sức củng cố sự độc lập, và là một sự cởi mở đón nhận thế giới xung quanh chúng ta và đón nhận những kinh nghiệm mới mẻ – luôn giúp làm phong phú và mở rộng các mối tương quan. Theo đó những người vợ chồng sẽ san sẻ cho nhau niềm vui về tất cả những gì họ nhận được hay biết được bên ngoài phạm vi gia đình. Đồng thời, sự tự do này sẽ giúp người ta có được sự chân thành và minh bạch, vì những ai biết rằng mình được tin tưởng và trân trọng thì sẽ có thể cởi mở mà không che giấu điều gì. Những ai biết rằng người bạn đời của mình luôn nghi ngờ, hay xét nét và thiếu một tình yêu vô điều kiện, thì sẽ có khuynh hướng giữ bí mật, che giấu những khiếm khuyết và những điểm yếu của mình, và giả vờ làm một ai đó khác với con người thật của mình. Đàng khác, một gia đình được đánh dấu bởi sự tin tưởng đầy yêu thương, thì dẫu điều gì xảy ra, gia đình ấy cũng giúp các thành viên trở thành chính mình, và một cách tự nhiên loại trừ sự lừa gạt, giả tạo, và dối trá.

Tình yêu hy vọng tất cả

  1. Panta elpízei. Tình yêu không thất vọng về tương lai. Tiếp theo những gì đã được đề cập, cụm từ này nói về niềm hy vọng của người biết rằng người khác có thể thay đổi, trưởng thành và tỏa ra vẻ đẹp không ngờ cũng như những tiềm năng chưa từng được biết. Điều này không có nghĩa là mọi sự sẽ thay đổi trong đời sống này. Nó liên quan đến việc nhận thức rằng – dù mọi sự có thể không luôn xảy ra như ta mong ước – Thiên Chúa vẫn hoàn toàn có thể uốn thẳng những đường cong và rút ra điều tốt lành nào đó từ sự dữ mà chúng ta chịu đựng trong thế giới này.
  1. Ở đây niềm hy vọng đạt mức trọn vẹn nhất của nó, vì nó đoan chắc về sự sống sau cái chết. Mỗi người, với tất cả những khiếm khuyết của mình, được mời gọi đạt đến sự sống viên mãn trên thiên quốc. Ở đó, được biến đổi hoàn toàn bởi sự phục sinh của Đức Kitô, mọi yếu nhược và bóng tối sẽ không còn. Ở đó, hiện hữu đích thực của mỗi người sẽ chiếu sáng trong tất cả sự tốt lành và vẻ đẹp của nó. Nhận thức này giúp chúng ta, giữa những phiền muộn chồng chất của cuộc đời này, biết nhìn mỗi người bằng một cái nhìn siêu nhiên, trong ánh sáng của đức cậy, và chờ đợi sự viên mãn mà người ấy sẽ nhận được trong Nước Trời, mặc dù hiện nay chưa nhìn thấy được.

Tình yêu chịu đựng tất cả

  1. Panta hypoménei. Cụm từ này có nghĩa là tình yêu chấp nhận mọi gian nan thử thách với một thái độ tích cực. Nó đứng vững trong môi trường đối nghịch lại nó. Sự “chịu đựng” này không chỉ liên quan đến khả năng đón nhận một số phiền phức, mà còn hơn thế: một thái độ luôn sẵn sàng để đương đầu với mọi thách đố. Đó là một tình yêu không bao giờ đầu hàng, ngay cả trong những giờ phút tăm tối nhất. Nó cho thấy một thái độ anh hùng can trường nào đó, một sức mạnh đề kháng lại mọi trào lưu tiêu cực, một dấn thân bất khuất cho sự thiện. Ở đây tôi nghĩ đến những lời của Martin Luther King, người đã đương đầu với mọi loại thử thách và gian khổ bằng tình yêu huynh đệ: “Nơi người ghét bạn nhất cũng có điều tốt nào đó; ngay cả nơi dân tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt nào đó; thậm chí nơi chủng tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt nào đó. Và khi bạn bắt đầu nhìn vào mặt mỗi người và thấy rõ trong sâu xa con người ấy điều mà tôn giáo gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa”, thì bạn bắt đầu yêu người ấy bất kể [mọi sự]. Dù người ấy làm gì đi nữa, bạn vẫn thấy hình ảnh của Thiên Chúa ở đó. Có một yếu tố của sự thiện mà người ấy không bao giờ có thể vứt bỏ được… Đây là một cách khác để bạn yêu kẻ thù: khi có cơ hội để bạn đánh bại kẻ thù, thì đó chính là lúc bạn đừng làm thế… Khi bạn vươn lên tới bình diện tình yêu, tới bình diện của vẻ đẹp và sức mạnh lớn lao của tình yêu, thì bạn chỉ tìm cách đánh bại những hệ thống sự dữ. Đối với những cá nhân bị mắc kẹt trong hệ thống ấy, bạn yêu họ, và bạn chỉ tìm cách đánh bại hệ thống đó thôi… Lấy oán báo oán thì chỉ gia cố thêm sự tồn tại của oán hận và sự dữ trên đời này. Nếu tôi đánh bạn và bạn đánh tôi, rồi tôi đánh trả lại bạn, và bạn đánh trả lại tôi, cứ thế, thì bạn thấy đó, sẽ tiếp tục mãi không cùng. Nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Một ai đó, ở đâu đó, phải biết điều một chút, và đó là người mạnh. Người mạnh là người có thể chặt đứt dây xích oán hận, dây xích của sự dữ… Một ai đó phải có ‘đạo’ và có ‘đức’ cho đủ để chặt đứt dây xích ấy và đưa vào trong chính cấu trúc của đời sống này yếu tố tình yêu đầy sức mạnh”.[114]
  1. Trong đời sống gia đình, chúng ta cần vun xới sức mạnh của tình yêu, là điều có thể giúp chúng ta chiến đấu chống lại mọi sự dữ đe dọa nó. Tình yêu không chịu thua lòng oán giận, sự khinh bỉ đối với người khác hay ước muốn gây tổn thương hoặc lấn lướt người khác. Lý tưởng Kitô giáo, đặc biệt trong các gia đình, là một tình yêu không bao giờ đầu hàng. Đôi khi tôi ngạc nhiên thấy những người, nam hay nữ, vốn đã phải chia tay với người bạn đời để tự bảo vệ mình, tuy nhiên, vì tình nghĩa vợ chồng vẫn bền vững, họ vẫn cố gắng giúp đỡ người bạn đời, thậm chí qua việc thuê mướn người khác, trong những khi người bạn đời đau ốm, gặp khổ sở hay hoạn nạn. Ở đây chúng ta cũng thấy một tình yêu không bao giờ đầu hàng.

LỚN LÊN TRONG TÌNH YÊU PHU PHỤ

  1. Suy tư của chúng ta về bài ca yêu thương của Thánh Phaolô giúp chúng ta sẵn sàng thảo luận về tình yêu phu phụ. Đây là tình yêu giữa vợ và chồng,[115] một tình yêu được thánh hóa, được làm cho phong phú và được chiếu sáng bởi ân sủng của Bí tích Hôn Phối. Đó là một “sự kết hợp tình cảm”,[116] có tính thiêng liêng và hy sinh, trong đó kết tụ sự ấm áp của tình bạn và niềm đam mê tình ái, nó vẫn kéo dài sau khi các cảm xúc và đam mê lụi tàn. Đức Giáo hoàng Piô XI dạy rằng tình yêu này thấm đẫm các bổn phận của đời sống hôn nhân và được nhìn nhận là tình yêu ưu việt nhất.[117] Được thông truyền bởi Chúa Thánh Thần, tình yêu mãnh liệt này là một phản ảnh của giao ước kiên vững giữa Đức Kitô và nhân loại, đạt đỉnh điểm nơi sự tự hiến của Người trên thập giá. “Thánh Thần mà Chúa tuôn đổ sẽ trao ban một quả tim mới và làm cho người nam và người nữ có thể yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu phu phụ đạt tới sự viên mãn vốn được đặt định cho nó, đó là, đức ái giữa vợ chồng.”[118]
  2. Hôn nhân là một dấu chỉ quí giá, vì “khi một người nam và một người nữ cử hành Bí tích Hôn Phối, thì quả nhiên Thiên Chúa được “phản chiếu” trong họ; Ngài ghi khắc trong họ những đặc nét của Ngài và dấu ấn tình yêu không thể xóa nhòa được của Ngài. Hôn nhân là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa cũng là hiệp thông: Ba Ngôi Vị – Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần – hằng sống trong mối hiệp nhất hoàn hảo. Và đây chính là mầu nhiệm hôn nhân: Thiên Chúa làm cho hai vợ chồng trở thành một hiện sinh độc nhất”.[119] Điều này có những hệ quả cụ thể trong đời sống hằng ngày, vì những người vợ và chồng, “do bí tích, được ủy trao một sứ mạng riêng và đích thực, để bắt đầu từ những việc đơn giản thông thường của đời sống, họ có thể cho thấy cụ thể tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh và Người vẫn tiếp tục hiến mạng sống mình vì Hội Thánh”.[120]
  1. Tuy nhiên chúng ta không được lẫn lộn các cấp độ khác nhau: không cần phải đặt lên vai hai con người đầy giới hạn cái gánh nặng sừng sững của việc phải trình bày cách hoàn hảo mối kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh, vì hôn nhân – xét như một dấu hiệu – là “một tiến trình năng động…, một tiến trình tiến tới dần dần với sự hội nhập ngày càng hơn các ân ban của Thiên Chúa”.[121]

Chia sẻ suốt đời

  1. Sau tình yêu kết hợp chúng ta với Thiên Chúa, tình yêu phu phụ là “dạng thức cao cả nhất của tình bạn”.[122] Đó là một sự kết hợp có bao hàm mọi đặc nét của một tình bạn tốt đẹp: sự quan tâm tới thiện ích của người kia, tính hỗ tương, sự mật thiết, sự ấm áp, sự ổn định và nét giống nhau phát xuất từ một đời sống chung. Hôn nhân gắn kết vào tất cả những điều này một tính độc quyền bất khả phân ly được diễn tả trong sự cam kết kiên trung chia sẻ và cùng nhau gầy dựng toàn thể đời sống. Chúng ta hãy thành thực và nhìn nhận những dấu hiệu ở đây. Những người yêu nhau không nhìn mối tương quan của mình như cái gì chỉ có tính tạm bợ. Những người kết hôn không kỳ vọng niềm vui thú của họ sẽ phai nhạt. Những người làm chứng cho cuộc cử hành một mối kết hợp đầy yêu thương, dù mong manh đến mấy, cũng tin tưởng rằng nó sẽ đứng vững qua thử thách của thời gian. Con cái không chỉ muốn cha mẹ chúng yêu nhau, mà còn trung thành và gắn bó với nhau. Những dấu hiệu này và những dấu tương tự khác cho thấy rằng chính trong bản chất của nó, tình yêu phu phụ có tính dứt khoát. Mối kết hợp bền vững được diễn tả bởi các lời đoan hứa kết hôn không chỉ là một thể thức hay một công thức có tính truyền thống; nó cắm rễ trong những khuynh hướng tự nhiên của nhân vị. Đối với những người tin, nó cũng là một giao ước trước mặt Thiên Chúa đòi người ta trung thành: “Chúa là chứng nhân giữa ngươi và người vợ của tuổi xuân ngươi. Ngươi đã phản bội nó, mà nó đã phối ngẫu với ngươi, là vợ thuộc giao ước của ngươi, … Ngươi đừng phản bội người vợ tuổi xuân xanh ngươi. Vì chưng Ta ghét việc ly dị – Chúa phán” (Ml 2,14-16).
  1. Một tình yêu yếu nhược, không có khả năng chấp nhận hôn nhân như thách đố để đảm nhận và chiến đấu, để được sinh lại, được đổi mới và kiến tạo cho tới chết, thì không thể nâng đỡ nổi một cam kết có tầm lớn lao. Nó sẽ đầu hàng trước nền văn hóa tạm bợ không dung nạp được một tiến trình không ngừng trưởng thành. Nhưng “việc hứa yêu thương suốt đời sẽ là điều có thể, khi chúng ta nhận hiểu một kế hoạch to lớn hơn các ý tưởng và dự phóng của chính mình, một kế hoạch nâng đỡ chúng ta và làm chúng ta có thể hoàn toàn phó thác tương lai của mình cho người mình yêu thương”.[123] Nếu tình yêu này phải vượt thắng mọi thử thách và giữ được sự trung thành trước mọi hoàn cảnh, thì nó cần ơn sủng để củng cố và nâng cao nó. Theo cách diễn tả của Thánh Robert Bellarmine, “sự kiện rằng một người nam kết hợp với một người nữ trong một mối ràng buộc bất khả phân ly, và rằng họ trung thành gắn kết với nhau bất chấp mọi khó khăn, ngay cả khi không còn hy vọng có con cái, chỉ có thể là dấu hiệu của một mầu nhiệm cao cả”.[124]
  1. Hôn nhân có thể ví như một tình bạn được đánh dấu bởi đam mê, nhưng đó là đam mê luôn được dẫn dắt tới một sự kết hợp ngày càng ổn định và mãnh liệt hơn. Đấy bởi vì “hôn nhân không được thiết lập duy chỉ nhắm đến việc sinh sản con cái”, mà còn nhắm đến tình yêu thương nhau “được diễn tả cách xác đáng, để nó có thể tăng triển và chín muồi”.[125] Tình bạn độc đáo này giữa một người nam và một người nữ chỉ đạt được tính bao hàm toàn thể trong mối kết hợp phu phụ. Chính vì nó bao hàm toàn thể, nên mối kết hợp này cũng có tính độc hữu, trung thành và mở ra sẵn sàng đón nhận sự sống mới. Nó chia sẻ mọi sự trong niềm kính trọng thường hằng dành cho nhau. Công đồng Vatican II làm âm vang điều này qua tuyên bố rằng “một tình yêu như thế, kết tụ tính nhân loại và tính thần linh, dẫn đưa các người phối ngẫu tới một sự tự hiến tự nguyện cho nhau, được kinh nghiệm trong cử chỉ âu yếm và trong hành động, và thấm đẫm toàn thể đời sống của họ”.[126]

Niềm vui và vẻ đẹp

  1. Trong hôn nhân, niềm vui của tình yêu cần được vun xới. Khi sự tìm kiếm lạc thú trở thành điều ám ảnh người ta, nó sẽ giữ người ta trong tình trạng nô lệ và không cho phép họ kinh nghiệm những sự thỏa mãn khác. Niềm vui, đàng khác, tăng cường niềm hoan lạc của chúng ta và giúp chúng ta tìm thấy sự mãn nguyện trong bất cứ việc gì, ngay cả vào những giai đoạn của đời sống khi mà khoái lạc thể lý đã suy giảm. Thánh Tôma Aquinô nói rằng từ “niềm vui” qui chiếu đến một sự mở rộng của trái tim.[127] Niềm vui hôn nhân có thể được kinh nghiệm ngay cả giữa những buồn phiền; nó liên quan đến việc chấp nhận rằng hôn nhân là một hỗn hợp đương nhiên của thưởng ngoạn và chiến đấu, của căng thẳng và nghỉ ngơi, đau đớn và xoa dịu, thỏa mãn và khát khao, phiền muộn và khoan khoái, nhưng luôn luôn ở trên nẻo đường của tình bạn, trong đó đôi bạn được thúc đẩy chăm sóc cho nhau: “Họ giúp đỡ và phục vụ nhau”.[128]
  1. Lòng yêu thương trong tình bạn được gọi là “bác ái” khi nó nhận hiểu và trân trọng “giá trị lớn” của người kia.[129] Vẻ đẹp – tức “giá trị lớn” ấy, khác với dáng vẻ thể lý hay tâm lý – giúp chúng ta có thể trân trọng tính thánh thiêng của một nhân vị, mà không cảm thấy nhu cầu chiếm hữu người ấy. Trong một xã hội tiêu thụ, cảm thức về cái đẹp bị làm cho nghèo kiệt đi, và do đó niềm vui cũng hời hợt. Mọi thứ có đó, kể cả con người, để cho người ta mua sắm, sở hữu hay tiêu xài. Sự âu yếm dịu dàng, đàng khác, là dấu hiệu của một tình yêu không nhuốm màu chiếm hữu ích kỷ. Nó giúp ta tiếp cận một con người với lòng kính trọng sâu xa và sự ý tứ tinh tế để không gây hại gì cho người ấy hoặc làm người ấy mất tự do. Yêu thương một người sẽ gắn liền với niềm vui chiêm ngắm và trân trọng vẻ đẹp và sự thánh thiêng tự nhiên của người ấy, những điều này thì lớn lao hơn các nhu cầu của tôi. Điều này giúp tôi có thể tìm kiếm thiện ích cho người ấy ngay cả khi người ấy không thể thuộc về tôi, hay khi họ không còn nét duyên dáng ở ngoại hình nữa, mà chỉ là gánh nặng và sự phiền toái. Vì “tình yêu mà nhờ đó người này làm vui lòng người kia tùy thuộc vào việc người ấy trao ban một cái gì đó hoàn toàn nhưng không”.[130]
  1. Mỹ cảm của tình yêu được diễn tả trong “cái nhìn” quan chiêm người khác xét như là cứu cánh nơi chính họ, ngay cả dù họ yếu ớt, già nua hay có ngoại hình không hấp dẫn. Một cái nhìn trân trọng có tầm quan trọng rất lớn lao, còn thái độ miễn cưỡng thường gây tổn thương cho người ta. Biết bao điều mà đôi khi những người vợ, chồng hay con cái làm để kêu gọi sự quan tâm! Nhiều sự tổn thương và nhiều vấn đề xảy ra khi chúng ta không còn nhìn nhau. Điều này nằm đàng sau những lời than phiền và trách cứ mà chúng ta thường nghe trong các gia đình: “Chồng tôi không quan tâm tới tôi; anh ta làm như thể tôi không có mặt trên đời”. “Xin vui lòng nhìn em khi em nói chuyện với anh!” “Vợ tôi chẳng còn nhìn đến tôi, cô ấy chỉ quan tâm đến con cái thôi”. “Trong nhà này chẳng ai đoái hoài đến tôi; mọi người thậm chí không nhìn tôi, như thể tôi không tồn tại”. Tình yêu mở đôi mắt chúng ta và giúp chúng ta nhìn thấy, vượt quá mọi điều khác, giá trị cao quí của một con người.
  1. Niềm vui của tình yêu biết chiêm ngắm này cần phải được vun xới. Vì chúng ta được dựng nên cho tình yêu, chúng ta biết rằng không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của việc san sẻ những điều tốt lành: “Hãy lấy, hãy cho, và hãy chăm sóc chính mình” (Hc 14,16). Niềm vui thâm sâu nhất trong đời sống trào dâng khi chúng ta có thể khơi lên niềm vui nơi người khác, như một cảm nếm trước thiên đàng. Chúng ta có thể nghĩ đến cảnh đáng yêu trong phim Bữa Tiệc của Babette, khi cô đầu bếp từ tâm nhận được cái ôm nồng nhiệt lòng biết ơn với lời khen ngợi: “Ôi, cô thắp lên niềm vui cho cả các thiên thần!” Thật là một niềm vui và niềm an ủi lớn lao khi ta đem lại niềm vui cho người khác, nhìn thấy họ hoan hỉ. Niềm vui này, là hoa trái của tình huynh đệ, không phải là niềm vui của kẻ tự phụ và vị kỷ, nhưng là niềm vui của người yêu thương biết vui mừng trước điều tốt lành của những người mình yêu, niềm vui của người tự nguyện trao ban cho họ và nhờ đó sinh hoa trái tốt lành.
  1. Mặt khác, niềm vui cũng lớn lên xuyên qua khổ đau. Như Thánh Augustinô diễn tả, “hiểm nguy của chiến trận càng lớn thì niềm vui chiến thắng càng cao”.[131] Sau khi cùng chịu khổ và cùng chiến đấu sát cánh nhau, những người vợ chồng có thể kinh nghiệm rằng đó là điều đáng giá, vì họ đạt được điều gì đó tốt lành, họ cùng nhau học được một điều gì đó, hoặc họ bắt đầu trân trọng những gì mình có. Ít có niềm vui nhân loại nào sâu xa và cảm kích bằng niềm vui được kinh nghiệm bởi hai người yêu nhau và cùng nhau đạt được một cái gì đó như kết quả của một cố gắng lớn lao của cả hai người.

Kết hôn vì tình yêu

  1. Tôi muốn nói với những người trẻ rằng không có gì nguy hại khi tình yêu của họ tìm thấy sự diễn tả trong hôn nhân. Sự kết hợp của họ gặp thấy trong cơ chế này phương tiện để bảo đảm rằng tình yêu của họ sẽ thực sự bền vững và triển nở. Hẳn nhiên, tình yêu thì lớn hơn nhiều chứ không chỉ là một biểu lộ ưng thuận bên ngoài hay một khế ước, tuy nhiên quả thật là việc chọn trao cho hôn nhân một hình thức cụ thể trong xã hội bằng việc đưa ra một số lời cam kết cho thấy rằng nó quan trọng biết bao. Nó biểu hiện sự nghiêm túc của việc người này đồng hóa với người kia, và việc họ quyết định dứt khoát bỏ lại đằng sau mình xu hướng cá nhân chủ nghĩa của tuổi thanh niên để thuộc về nhau. Hôn nhân là một phương tiện để nói lên rằng chúng ta đã thực sự rời khỏi sự an toàn của ngôi nhà trong đó chúng ta đã lớn lên, để xây dựng những mối ràng buộc chặt chẽ khác và đảm nhận trách nhiệm mới đối với một người khác. Điều này có ý nghĩa hơn nhiều so với một sự liên kết đơn thuần tự phát nhắm đến sự thỏa mãn cho nhau, điều sẽ biến hôn nhân thành một công việc thuần túy riêng tư. Trong tư cách một cơ chế xã hội, hôn nhân bảo vệ và định hình cho một cam kết chung nhắm đến sự trưởng thành sâu xa hơn trong tình yêu và sự dấn thân cho nhau, vì lợi ích của xã hội xét như một toàn thể. Vì thế hôn nhân không phải là một trào lưu chóng lụi tàn; nó có tầm quan trọng bền vững. Yếu tính của nó rút ra từ bản tính con người và đặc tính xã hội của chúng ta. Nó liên quan tới một loạt những bổn phận phát sinh từ chính tình yêu, một tình yêu nghiêm túc và quảng đại đến mức sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm.
  1. Việc chọn kết hôn theo cách này diễn tả một quyết định thực sự và dứt khoát muốn đi chung nẻo đường, cho dù bất cứ điều gì sẽ xảy ra. Do tính nghiêm túc của nó, sự cam kết công khai này của tình yêu không thể là kết quả của một quyết định bồng bột, nhưng nó cũng không thể bị trì hoãn vô hạn định. Việc dấn thân chính mình một cách độc hữu và dứt khoát cho một người khác luôn luôn bao hàm một nguy cơ và một sự dũng cảm đánh cuộc. Việc không sẵn lòng đưa ra một cam kết như vậy cho thấy tính cách ích kỷ, tính toán và nhỏ nhen. Nó không nhìn nhận quyền của một người khác và không giới thiệu người ấy cho xã hội như một con người đáng được yêu thương vô điều kiện. Nếu hai người thực sự yêu nhau, đương nhiên họ sẽ cho mọi người thấy như vậy. Khi tình yêu được diễn tả trước những người khác trong khế ước hôn nhân, với tất cả những cam kết công khai của nó, nó xác nhận rõ và bảo vệ sự ưng thuận mà hai người nói lên một cách tự do và dứt khoát với nhau. Lời ưng thuận này nhằm bảo rằng họ có thể luôn luôn tin tưởng nhau, và rằng họ sẽ không bao giờ bị bỏ rơi khi khó khăn xảy đến, hay khi những lôi cuốn mới hoặc những mối quan tâm ích kỷ chợt xuất hiện.

Một tình yêu tự biểu lộ và tăng trưởng

  1. Lòng yêu thương của tình bạn hợp nhất mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân và giúp các thành viên gia đình không ngừng lớn lên. Tình yêu này phải được diễn tả cách tự do và quảng đại bằng lời nói và hành động. Trong gia đình, “có ba từ rất cần được dùng. Tôi muốn lặp lại, ba từ đó là: ‘Làm ơn’, ‘Cám ơn’, và ‘Xin lỗi’. Những tiếng thật thiết yếu!”[132] “Trong gia đình của mình, khi chúng ta không cường quyền và biết nói: ‘Xin cho phép…’; trong gia đình của mình, khi chúng ta không ích kỷ và có thể nói ‘Cám ơn!’; và trong gia đình của mình, khi ai đó nhận ra rằng mình đã làm điều gì đó sai trái và có thể nói ‘Xin lỗi!’, thì gia đình chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự bình an và niềm vui”.[133] Chúng ta đừng ngần ngại nói những tiếng ấy, nhưng hãy lặp đi lặp lại chúng, ngày này qua ngày khác. Vì “một số sự thinh lặng sẽ gây ngột ngạt, đôi khi ngay cả trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em”.[134] Những lời phù hợp, nói lên vào những lúc phù hợp, sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu hằng ngày.
  1. Tất cả những điều này xảy ra xuyên qua một tiến trình lớn lên. Hình thức rất đặc biệt của tình yêu, tức hôn nhân, được mời gọi để biểu hiện điều mà Thánh Tôma Aquinô nói về đức ái cách chung. Theo ngài, “đức ái, do chính bản chất của nó, không có giới hạn trong sự tăng trưởng, vì đó là một sự tham dự vào đức ái vô hạn là chính Chúa Thánh Thần… Về phần chủ thể, cũng không thể đặt giới hạn cho đức ái, vì khi đức ái tăng trưởng, thì khả năng tăng trưởng của nó càng nhiều hơn”.[135] Thánh Phaolô cầu nguyện: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” (1Tx 3,12), và một lần nữa: “còn về tình huynh đệ… chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới ngày càng nhiều hơn nữa” (1Tx 4,9-10). Ngày càng nhiều hơn nữa! Tình yêu hôn nhân không được bảo vệ chủ yếu bằng việc trình bày tính bất khả phân ly của nó như một bổn phận, hay bằng việc lặp đi lặp lại giáo thuyết, nhưng bằng cách giúp cho nó lớn lên ngày càng mạnh mẽ hơn dưới sự thúc đẩy của ơn sủng. Một tình yêu không lớn lên được là một tình yêu đang lâm nguy. Sự lớn lên chỉ có thể xảy ra khi chúng ta đáp lại ơn sủng của Thiên Chúa xuyên qua các hành động yêu thương không ngừng, những hành động của lòng từ tâm trở nên ngày càng thường xuyên hơn, nồng nhiệt, quảng đại, dịu dàng và vui tươi hơn. Những người chồng và vợ “trở nên ý thức về sự hợp nhất của mình và kinh nghiệm nó cách sâu sắc hơn từ ngày này qua ngày khác”.[136] Ân ban của tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn trên đôi bạn cũng là một lời mời gọi không ngừng lớn lên trong ơn sủng.
  1. Thật ngớ ngẩn việc mơ một tình yêu lý tưởng và hoàn hảo theo nghĩa nó không cần được tác động để lớn lên. Một ý niệm hão huyền về tình yêu trên thế gian quên rằng điều tốt nhất còn chưa xảy đến, quên rằng rượu càng để lâu năm càng ngon. Như các Giám mục Chi-lê đã chỉ ra, “mẫu gia đình hoàn hảo mà sự tuyên truyền bịp bợm của chủ nghĩa tiêu thụ đề ra thì không hề tồn tại. Trong những gia đình ấy, không có ai già đi, không có đau ốm, buồn phiền hay tang tóc… Sự tuyên truyền của chủ nghĩa tiêu thụ trình bày một ảo tưởng không liên quan gì với thực tế mà mỗi ngày những người đứng đầu các gia đình phải đối diện”.[137] Sẽ lành mạnh hơn nhiều nếu ta nhìn nhận thực tế những giới hạn, những khiếm khuyết và những bất toàn của chúng ta, và đáp lại tiếng gọi lớn lên cùng với nhau, đưa tình yêu đến mức trưởng thành và củng cố mối kết hợp, cho dẫu điều gì xảy ra đi nữa.

Đối thoại

  1. Đối thoại là điều thiết yếu để kinh nghiệm, bày tỏ và củng cố tình yêu trong đời sống hôn nhân và gia đình. Nhưng người ta chỉ có thể đạt được nó sau quá trình thực tập lâu dài và cam go. Người ta, nam và nữ, trẻ và già, giao tiếp một cách khác nhau. Họ nói ngôn ngữ khác nhau và hành động theo cách khác nhau. Cách chúng ta hỏi và trả lời, cung giọng của chúng ta, sự lựa chọn thời điểm của chúng ta, và nhiều yếu tố khác nữa sẽ ấn định chúng ta giao tiếp tốt mức nào. Chúng ta cần phát triển một số thái độ diễn tả tình yêu thương và thúc đẩy sự đối thoại đích thực.
  1. Hãy dành thời gian, thời gian chất lượng. Điều này có nghĩa là sẵn sàng lắng nghe một cách kiên nhẫn và chú ý tới mọi điều mà người kia muốn nói. Nó đòi phải có kỷ luật bản thân để không lên tiếng khi chưa phải lúc. Thay vì đưa ra một ý kiến hay một lời khuyên, chúng ta cần bảo đảm rằng mình đã nghe mọi điều người kia muốn trình bày. Điều này giả thiết việc vun xới một sự thinh lặng nội tâm giúp ta lắng nghe người khác mà không bị chia trí do tư tưởng hay do cảm xúc. Đừng hấp tấp, hãy đặt qua một bên tất cả các nhu cầu và bận tâm riêng của bạn, và hãy dành chỗ để lắng nghe. Thường thì người bạn đời không cần một giải pháp cho vấn đề của người ấy, mà chỉ cần được nghe, người ấy cần cảm nhận rằng có người hiểu nỗi đau của mình, hiểu sự chán nản, nỗi sợ, cơn giận, những hy vọng và những ước mơ của mình. Biết bao lần chúng ta nghe những lời phàn nàn như: “Anh ấy không lắng nghe tôi.” “Ngay cả khi dường như anh có vẻ lắng nghe em, thì thực sự anh cũng đang làm một việc gì đó khác.” “Tôi nói với cô ấy và tôi cảm thấy như cô ấy không thể đợi tôi nói hết ý của mình.” “Khi tôi nói với cô ấy, cô ấy cố đánh trống lảng, hoặc cô ấy chỉ trả lời cộc lốc để chấm dứt cuộc trò chuyện”.
  1. Hãy phát triển thói quen trao tầm quan trọng thực sự cho người kia. Điều này có nghĩa là biết trân trọng họ và nhìn nhận quyền tồn tại, quyền suy nghĩ theo cách riêng và quyền hạnh phúc của họ. Đừng bao giờ chế giễu những gì họ nói hay nghĩ, ngay cả khi bạn cần diễn tả quan điểm riêng của mình. Ai cũng có cái gì đó để đóng góp, bởi vì người ta có kinh nghiệm sống, họ nhìn sự vật từ một góc nhìn khác, và họ có những mối quan tâm, những khả năng và những tri thức riêng. Chúng ta phải nhận ra được sự thật của người kia, giá trị của những quan tâm sâu xa nhất của người ấy, và những gì mà người ấy đang muốn chuyển đạt, dù một cách bức xúc đến mấy đi nữa. Chúng ta phải đặt mình vào chỗ của người ấy, cố gắng nhìn vào trái tim của người ấy, nhận hiểu những bận tâm sâu xa nhất của người ấy, và lấy đó làm khởi điểm cho một cuộc đối thoại xa hơn.
  1. Hãy cởi mở trong suy nghĩ. Đừng mắc kẹt trong những ý kiến và quan điểm giới hạn của mình, nhưng hãy sẵn sàng để thay đổi hay mở rộng chúng. Sự kết hợp của hai cách nghĩ khác nhau có thể dẫn đến một tổng hợp làm phong phú cả hai. Sự hợp nhất mà chúng ta tìm kiếm không phải là sự đồng nhất, nhưng là một sự “hợp nhất trong khác biệt”, hay “sự khác biệt được hòa giải”. Mối hiệp thông huynh đệ được làm cho phong phú bằng sự kính trọng và trân trọng những khác biệt trong một nhãn giới bao quát giúp thăng tiến thiện ích chung. Chúng ta cần giải phóng chính mình khỏi cái cảm nghĩ rằng tất cả chúng ta đều giống như nhau. Cũng cần tinh tế mức nào đó để phòng tránh sự xuất hiện của “nỗi bực tức” có thể ngáng trở tiến trình đối thoại. Chẳng hạn, nếu những cảm nghĩ gay gắt bắt đầu nổi lên, chúng phải được xử lý một cách thận trọng, nếu không chúng sẽ làm gián đoạn mạch đối thoại. Khả năng nói lên những gì mình nghĩ mà không gây khó chịu cho người khác là điều rất quan trọng. Cần phải lựa lời mà nói để không làm tổn thương người ta, nhất là khi thảo luận những vấn đề gay cấn. Việc nêu quan điểm của mình đừng bao giờ gắn với việc xả cơn giận và công kích người ta. Một giọng điệu cha chú chỉ gây tổn thương, nhạo báng, tố cáo và làm người ta bực bội. Nhiều sự bất đồng giữa vợ chồng thực sự không phải là những chuyện quan trọng. Phần lớn chúng là những chuyện vặt vãnh. Tuy nhiên, điều làm thay đổi bầu khí chính là cách nói hay thái độ của người nói.
  1. Hãy bày tỏ tình cảm và sự quan tâm đối với người kia. Tình yêu có thể vượt qua cả những rào chắn tệ hại nhất. Khi chúng ta yêu thương một người, hay khi chúng ta cảm thấy mình được họ yêu thương, thì chúng ta có thể hiểu tốt hơn những gì mà họ cố gắng truyền đạt. Nỗi sợ đối với người kia như thể một “đối thủ cạnh tranh” là một dấu hiệu của yếu nhược và cần phải được vượt qua. Thật quan trọng việc đặt nền quan điểm của mình trên những lựa chọn, những niềm tin hay những giá trị vững chắc, chứ không đặt trên nhu cầu thắng một cuộc tranh cãi hay nhu cầu chứng minh rằng mình đúng.
  1. Cuối cùng, chúng ta phải nhìn nhận rằng trong một cuộc đối thoại có ý nghĩa quan trọng nào đó, thì chúng ta phải có gì đó để nói. Điều này chỉ có thể là hoa trái của một sự phong phú nội tâm được nuôi dưỡng bằng việc đọc sách vở, suy tư cá nhân, cầu nguyện, và mở lòng ra với thế giới chung quanh mình. Nếu không, các cuộc trò chuyện sẽ trở nên chán ngán và tầm thường. Khi cả vợ lẫn chồng đều không đầu tư cho việc này, và chẳng có mấy sự tiếp xúc thật sự với những người khác, thì đời sống gia đình sẽ nặng nề và đối thoại sẽ rất nghèo nàn.

Tình yêu đam mê

  1. Công đồng Vatican II dạy rằng tình yêu phu phụ “bao trùm thiện ích của toàn thể nhân vị; nó có thể làm cho những tình cảm của tinh thần và sự diễn tả thể lý của chúng nên phong phú với một phẩm giá độc đáo, và làm cho chúng nên cao quí xét như là những đặc nét và như sự biểu đạt của tình bạn chuyên biệt trong hôn nhân”.[138] Vì thế, một tình yêu nếu thiếu khoái cảm hoặc sự say mê thì không đủ để làm biểu tượng cho sự kết hợp của trái tim con người với Thiên Chúa: “Tất cả các nhà thần bí đều khẳng định rằng tình yêu siêu nhiên và tình yêu thiên giới gặp thấy những biểu tượng của chúng trong tình yêu vợ chồng, hơn là trong tình bạn, trong lòng hiếu thảo hay trong nhiệt tâm dấn thân cho một chính nghĩa nào đó. Lý do được tìm thấy trong chính toàn thể tính của nó”.[139] Vì vậy ta cũng nên đề cập đến những cảm xúc và dục tính trong hôn nhân.

Thế giới xúc cảm

  1. Những khao khát, những tâm cảm, những cảm xúc, điều mà người xưa gọi là “những đam mê”, tất cả có một chỗ quan trọng trong đời sống hôn nhân. Chúng được đánh thức bất cứ khi nào “một người khác” trở nên hiện diện và thành một phần trong đời sống của mình. Đặc trưng của mọi hữu thể sống động, đó là vươn ra tới những hữu thể khác, và xu hướng này luôn luôn có những dấu hiệu tình cảm căn bản: hoan lạc hay đớn đau, vui hay buồn, âu yếm hay sợ hãi. Chúng đặt nền móng cho sinh hoạt tâm lý căn bản nhất. Con người sống trên trần gian này, và tất cả những gì họ làm và tìm kiếm đều mang đầy dấu vết đam mê.
  2. Là con người thực sự, Đức Giêsu đã cho thấy cảm xúc của Người. Người bị tổn thương vì Giêrusalem tẩy chay Người (x. Mt 23,27) và điều đó khiến Người rơi lệ (x. Lc 19,41). Người cũng cảm động sâu xa trước những nỗi thống khổ của người khác (x. Mc 6,34). Người thổn thức trước nỗi tiếc thương của họ (x. Ga 11,33), và Người khóc trước cái chết của một người bạn (x. Ga 11,35). Những ví dụ này về sự nhạy cảm của Đức Giêsu cho thấy trái tim nhân loại của Người rộng mở biết bao đối với người khác.
  1. Kinh nghiệm một cảm xúc thì tự nó không phải là một việc tốt hay xấu về mặt luân lý.[140] Sự sôi trào lên của dục vọng hay của sự dị ứng không hề là tội lỗi và cũng chẳng đáng trách. Điều tốt hay xấu về mặt luân lý là điều mà chúng ta làm trên cơ sở của một đam mê nào đó, hay dưới ảnh hưởng của nó. Nhưng khi các đam mê được khuấy động hay tìm kiếm, và kết quả là chúng ta có những hành động xấu, thì sự dữ nằm ở trong cái quyết định kích động các đam mê và ở trong những hành động xấu mà ta thực hiện từ đó. Cũng vậy, sự việc tôi được lôi cuốn hướng tới một người nào đó thì không tự nó tốt. Nếu sự hấp dẫn của người ấy khiến tôi tìm cách thống trị người ấy, thì cảm xúc của tôi chỉ phục vụ cho sự ích kỷ của mình. Tin rằng mình tốt chỉ bởi vì “mình cảm thấy tốt”, đó là một ảo tưởng ghê gớm. Có những người cảm thấy mình có tình yêu vĩ đại chỉ vì họ có một nhu cầu to lớn về tình cảm, nhưng họ cho thấy không có khả năng thực hiện những nỗ lực cần thiết để đem lại hạnh phúc cho người khác. Họ chỉ loay hoay với những nhu cầu và những khao khát của riêng mình. Trong những trường hợp như thế, các cảm xúc làm người ta sao lãng các giá trị cao nhất và che đậy một thái độ vị kỷ vốn làm người ta không thể xây dựng một đời sống gia đình lành mạnh và hạnh phúc.
  1. Tuy nhiên, nếu đam mê đi kèm theo một hành động tự do, thì nó có thể biểu lộ chiều sâu của hành động ấy. Tình yêu hôn nhân cố gắng bảo đảm rằng toàn thể đời sống tâm cảm của người ta sinh ích cho gia đình xét như một toàn thể, và nhằm phục vụ cho đời sống chung của gia đình. Một gia đình trưởng thành khi đời sống tâm cảm của các thành viên trở nên một dạng nhạy bén không đè nén cũng không che mờ những quyết định và những giá trị lớn, nhưng đúng hơn tôn trọng sự tự do của mỗi người,[141] xuất phát từ sự tự do ấy, làm phong phú nó, hoàn thiện và hòa điệu nó nhằm phục vụ mọi người.

Thiên Chúa yêu thích niềm vui của con cái Ngài

  1. Điều này cần đến một tiến trình có tính sư phạm liên quan đến việc từ bỏ. Xác tín này của Giáo Hội thường bị tẩy chay viện lẽ rằng nó đi ngược lại hạnh phúc của con người. Đức Bênêđictô XVI đã đúc kết cáo buộc này thật rõ ràng: “Với tất cả những điều răn và những cấm đoán của mình, chẳng phải Giáo Hội muốn biến điều quí giá nhất trong đời thành sự cay đắng đó sao? Chẳng phải Giáo Hội thổi còi chính khi niềm vui – vốn là quà tặng của Tạo Hóa – đem lại cho chúng ta một niềm hạnh phúc mà tự nó là một cảm nếm trước thiên giới đó sao?”[142] Ngài trả lời rằng mặc dù đã có những sự cường điệu và những hình thức khổ hạnh lệch lạc trong Kitô giáo, nhưng giáo huấn chính thức của Giáo Hội, trong sự trung thành với Thánh Kinh, không hề bác bỏ “nhục cảm theo đúng nghĩa của nó, mà đúng hơn Giáo Hội tuyên chiến với một dạng méo mó và tàn phá của nó, bởi vì sự thần thánh hóa giả hiệu này của nhục cảm […] thực ra tước mất của nó phẩm giá thần linh và làm mất cả tính người của nó nữa”.[143]
  1. Thật cần thiết phải có sự đào tạo trong các lãnh vực cảm xúc và bản năng, và có những khi điều này đòi hỏi phải lập ra những giới hạn. Sự thái quá, sự thiếu kiểm soát hay sự ám ảnh với một dạng lạc thú đơn độc sẽ rốt cục làm suy yếu và bại hoại chính lạc thú ấy[144] và phá hỏng đời sống gia đình. Một người có thể chuyển thông những đam mê của mình bằng một cách thế đẹp đẽ và lành mạnh, không ngừng hướng chúng về phía vị tha và sự hoàn thành chính mình một cách toàn nhập, điều này luôn làm phong phú các mối tương quan liên vị ở trung tâm đời sống gia đình. Điều này không có nghĩa là khước từ những khoảnh khắc thích thú cực độ,[145] nhưng đúng hơn là hội nhập chúng với những khoảnh khắc khác của sự dấn thân quảng đại, của niềm hy vọng bền bỉ, của sự mệt mỏi không tránh được và của sự chiến đấu để đạt một lý tưởng. Đời sống gia đình là tất cả những điều này, và nó đáng được sống đến mức trọn vẹn nhất.
  1. Một số trào lưu linh đạo dạy rằng cần phải từ bỏ sự thèm khát như một con đường giải phóng khỏi đau khổ. Nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa yêu thích niềm vui thú mà con người cảm nghiệm: Ngài đã dựng nên chúng ta và “trang bị dồi dào cho chúng ta mọi sự để hưởng dùng” (1Tm 6,17). Chúng ta hãy vui mừng vì với tình yêu hải hà Ngài bảo chúng ta: “Hỡi con, hãy săn sóc lấy mình… Đừng tước mất của mình một ngày hạnh phúc” (Hc 14,11-14). Các đôi vợ chồng cũng đáp lại thánh ý Thiên Chúa khi họ tuân theo huấn thị của Thánh Kinh: “Vào ngày thịnh vượng, hãy hưởng lấy phúc” (Gv 7,14). Điều quan trọng là có sự tự do để nhận ra rằng lạc thú có thể có những cách diễn tả khác nhau vào những giai đoạn khác nhau của đời sống, phù hợp với các nhu cầu của tình yêu đối với nhau. Theo nghĩa này, chúng ta có thể trân trọng những giáo huấn của một số bậc thầy Đông phương thúc đẩy chúng ta giãn rộng ý thức của mình, phòng tránh việc chúng ta bị giam hãm bởi một kinh nghiệm giới hạn có thể bó hẹp tầm nhìn của mình. Sự giãn rộng ý thức này không phải là phủ nhận hay tiêu diệt lòng khát khao cho bằng là mở nó rộng ra và hoàn thiện nó.

Chiều kích nhục cảm của tình yêu

  1. Tất cả những điều này đưa chúng ta đến với chiều kích tình dục của hôn nhân. Chính Thiên Chúa tạo dựng nên tính dục, là món quà kỳ diệu cho các thụ tạo của Ngài. Nếu món quà này phải được phát huy và hướng dẫn, thì đó là để phòng tránh “sự phá giá một giá trị đích thực”.[146] Thánh Gioan Phaolô II bác bỏ quan điểm cho rằng giáo huấn của Giáo Hội là “một sự phủ nhận giá trị của tính dục con người”, hay cho rằng Giáo Hội miễn cưỡng chấp nhận tính dục “chỉ vì nó cần cho việc truyền sinh”.[147] Sự thèm khát tình dục không phải là một cái gì đáng bị coi thường, và “người ta không thể nào chất vấn sự cần thiết của nó”.[148]
  1. Nói với những người lo sợ rằng việc uốn nắn các đam mê và tình dục sẽ làm ảnh hưởng đến tính tự nhiên của tình yêu nam nữ, Thánh Gioan Phaolô II trả lời rằng nhân vị con người được “mời gọi đạt đến tính cách tự nhiên đầy đủ và trưởng thành trong các mối tương quan của mình”, một sự trưởng thành vốn “là hoa trái trổ sinh dần dần từ một sự phân định các xung năng trong lòng mình”.[149] Điều này đòi hỏi tính kỷ luật và khả năng tự chủ, bởi vì mọi người đều “phải học – một cách kiên trì và nhất quán – để biết ý nghĩa của thân xác mình”.[150] Tính dục không phải là một phương tiện để thỏa mãn hay để giải trí; nó là một ngôn ngữ liên vị trong đó người kia được nghiêm túc trân trọng, trong phẩm giá thánh thiêng và bất khả xâm phạm của người ấy. Như vậy, “trái tim con người tiến tới tham dự vào, có thể nói, một loại tính cách tự nhiên khác”.[151] Trong bối cảnh này, nhục cảm xuất hiện như một sự thể hiện tính dục chuyên biệt của con người. Nó giúp chúng ta khám phá “ý nghĩa hoàn hợp của thân xác và phẩm giá đích thực của ơn ban ấy”.[152] Trong các bài giáo lý về thần học thân xác của ngài, Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng sự dị biệt về tính dục không chỉ là “một nguồn của hoa trái và sinh sản”, mà nó còn sở hữu “khả năng diễn tả tình yêu: tình yêu mà chính ở đó nhân vị trở thành một quà tặng”.[153] Một khao khát tình dục lành mạnh, cho dù gắn với một sự mưu cầu lạc thú, luôn luôn liên quan tới một cảm thức ngạc nhiên, và chính bởi đó mà nó có thể làm cho các xung năng có tính người.
  1. Vì thế, chúng ta không thể xem chiều kích nhục cảm của tình yêu đơn thuần như một sự dữ được phép, hay như một gánh nặng phải chịu đựng vì thiện ích của gia đình. Đúng hơn, nó phải được xem như quà tặng từ Thiên Chúa, giúp làm phong phú mối tương quan của vợ chồng. Xét như một đam mê được thăng hoa bởi một tình yêu đầy kính trọng phẩm giá của người kia, nó trở thành một “khẳng định tinh thuần và trọn vẹn” cho thấy những điều kỳ diệu có thể ẩn chứa trong trái tim con người. Bằng cách này, thậm chí ngay lập tức, chúng ta có thể cảm thấy rằng “đời sống quả thật rất tốt lành và hạnh phúc”.[154]

Bạo lực và lệch lạc

  1. Trên cơ sở của cái nhìn tích cực này về tình dục, chúng ta có thể tiếp cận toàn thể chủ đề với một tinh thần hiện thực lành mạnh. Nói cho cùng, thực tế là tình dục thường bị phi nhân vị hóa và trở thành bệnh hoạn; kết quả là, “nó trở thành cơ hội và phương tiện cho người ta tự khẳng định mình và thỏa mãn cách ích kỷ những thèm khát và những bản năng của mình”.[155] Trong thời của chúng ta, tình dục có nguy cơ bị nhiễm độc bởi não trạng “sử dụng và vứt bỏ”. Thân xác của người kia thường được xem như một đồ vật để sử dụng bao lâu nó còn đem lại thỏa mãn, và bị vứt bỏ khi nó không còn gây thích thú nữa. Liệu chúng ta có thể thực sự phớt lờ hay bỏ qua những hình thức đang tiếp diễn của sự thống trị, ngạo mạn, lạm dụng, lệch lạc tình dục và bạo lực, vốn là sản phẩm của một cách nhận hiểu méo mó về tình dục? Hay chúng ta có thể bỏ qua sự kiện rằng phẩm giá của người khác và ơn gọi yêu thương của con người rốt cục trở thành không quan trọng bằng một nhu cầu ẩn kín muốn “tìm chính mình”?
  1. Chúng ta cũng biết rằng ngay trong chính hôn nhân, tình dục có thể trở thành một nguồn cơn của đau khổ và của sự thao túng. Vì thế cần phải xác nhận lại rõ ràng rằng “một hành vi vợ chồng áp đặt trên người phối ngẫu mà không xem xét đến điều kiện của người đó, hay không cần biết người đó có muốn hay không, thì không phải là hành vi đích thực của tình yêu, và do đó nó xúc phạm trật tự luân lý trong chức năng chuyên biệt của nó phục vụ cho mối tương quan mật thiết của vợ chồng”.[156] Những hành vi dành riêng cho sự kết hợp tính dục giữa vợ chồng phù hợp với bản chất của tính dục như được Thiên Chúa muốn khi chúng diễn ra trong “một cách thế thực sự có tính người”.[157] Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình” (1Tx 4,6). Ngay cả dù Thánh Phaolô đang viết trong bối cảnh một nền văn hóa có tính gia trưởng, trong đó người phụ nữ bị coi như là hoàn toàn phụ thuộc vào đàn ông, song ngài vẫn dạy rằng tình dục phải liên quan đến sự tương giao giữa vợ chồng: Thánh Phaolô nêu ra khả năng của việc đình hoãn quan hệ tình dục trong một giai đoạn nào đó, nhưng dĩ nhiên là “có sự đồng thuận” (1Cr 7,5).
  2. Thánh Gioan Phaolô II cảnh giác một cách rất tinh tế rằng đôi vợ chồng có thể bị “đe dọa bởi sự ham hố vô độ”.[158] Nói cách khác, trong khi được mời gọi đạt tới một mối kết hợp không ngừng thâm sâu hơn, thì có thể có nguy cơ hai người xóa bỏ những sự khác biệt và khoảng cách chính đáng giữa họ. Vì mỗi người sở hữu phẩm giá riêng và bất khả nhượng của mình. Khi tính cách thuộc về nhau chuyển thành thống trị, thì “cấu trúc hiệp thông trong những mối quan hệ liên vị sẽ bị thay đổi về bản chất”.[159] Một phần của tâm thức thống trị, đó là những người thống trị rốt cục phủ nhận phẩm giá của chính mình.[160] Cuối cùng, họ không còn “tự đồng hóa một cách chủ quan với thân xác của chính mình nữa”,[161] vì họ lấy đi ý nghĩa sâu xa nhất của nó. Kết cuộc, họ dùng tình dục như cách để thoát ly thực tế và chối bỏ vẻ đẹp của sự kết hợp vợ chồng.
  1. Mọi hình thức nô dịch tình dục phải bị dứt khoát loại trừ. Điều này bao gồm tất cả những diễn dịch sai lạc đoạn văn trong Thư gửi các tín hữu Êphêsô, trong đó Phaolô bảo các phụ nữ hãy “tùng phục chồng mình” (Ep 5,22). Đoạn văn này phản ảnh những phạm trù văn hóa của thời đó, nhưng mối quan tâm của chúng ta không ở chỗ ma trận văn hóa của nó, mà ở chỗ cái sứ điệp mạc khải mà nó chuyển tải. Như Thánh Gioan Phaolô II ghi nhận rất hay: “Tình yêu loại trừ mọi loại qui phục theo nghĩa người vợ có thể trở thành một tôi tớ hay nô lệ của người chồng… Tính cộng đồng hay sự hợp nhất mà họ phải kiến tạo xuyên qua hôn nhân được xây dựng bởi một sự tự hiến cho nhau, sự tự hiến này vốn cũng là một sự qui phục nhau”.[162] Vì thế Phaolô tiếp tục nói rằng “những người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân xác mình” (Ep 5,28). Bản văn Thánh Kinh này thực sự nhằm thúc đẩy mọi người vượt qua một chủ nghĩa cá nhân có tính tự mãn và biết không ngừng lưu tâm tới người khác: “Hãy tùng phục nhau” (Ep 5,21). Trong hôn nhân, sự “tùng phục” hỗ tương này mang một ý nghĩa đặc biệt, và được thấy như một sự thuộc về nhau được tự do chọn lựa, được đánh dấu bởi lòng trung thành, kính trọng và quan tâm. Tính dục gắn không rời với việc phục vụ cho tình bạn này giữa vợ chồng, vì nó được đặt định để giúp hoàn thành người kia.
  1. Cũng vậy, việc tẩy chay những bóp méo tính dục và nhục cảm không bao giờ được dẫn chúng ta đến chỗ xem thường hay dửng dưng với chúng xét trong bản chất của chúng. Lý tưởng của hôn nhân không thể bị xem đơn thuần như sự quảng đại trao hiến và quên mình, trong đó mỗi người phối ngẫu từ bỏ tất cả những nhu cầu riêng và chỉ tìm cách phục vụ người kia mà không quan tâm gì đến sự thỏa mãn riêng của mình. Chúng ta cần nhớ rằng tình yêu đích thực cũng cần khả năng đón nhận người kia, chấp nhận sự chênh vênh và các nhu cầu của riêng mình, và chân thành tri ơn đón nhận những diễn tả thể lý của tình yêu như trong một cử chỉ vuốt ve, một ôm siết, một nụ hôn, và sự kết hợp tính dục. Đức Bênêđictô XVI tuyên bố điều này rất rõ ràng: “Nếu người ta mong muốn trở thành tinh thần thuần túy và loại bỏ xác thịt như cái gì chỉ thuộc về bản tính động vật của mình mà thôi, thì cả tinh thần và thân xác đều sẽ đánh mất phẩm giá của nó”.[163] Vì vậy, “người ta không thể sống với tình yêu trao hiến mà thôi. Không thể luôn luôn cho đi, người ta cũng phải đón nhận nữa. Bất cứ ai muốn trao hiến tình yêu thì cũng phải đón nhận tình yêu như một quà tặng”.[164] Hơn nữa, chúng ta không bao giờ được quên rằng sự cân bằng của con người chúng ta rất mong manh; có một phần trong chúng ta đề kháng lại sự trưởng thành nhân bản thực sự, và bất cứ lúc nào nó cũng có thể bộc lộ những xu hướng ích kỷ và thô thiển nhất.

Hôn nhân và trinh khiết

  1. “Nhiều người không kết hôn không chỉ tận tụy với gia đình mình mà thường cống hiến những sự phục vụ lớn lao trong nhóm bạn hữu của họ, trong cộng đoàn Giáo Hội và trong đời sống nghề nghiệp của họ. Đôi khi sự hiện diện và những đóng góp của họ không được ghi nhận, gây cho họ một cảm giác đơn độc. Nhiều người dùng các tài năng của mình để phục vụ cộng đoàn Kitô hữu qua việc bác ái và thiện nguyện. Những người khác duy trì tình trạng không kết hôn vì họ thánh hiến cuộc đời của họ cho tình yêu đối với Đức Kitô và tha nhân. Sự hiến dâng của họ góp phần lớn lao làm phong phú cho gia đình, Giáo Hội và xã hội”.[165]
  1. Trinh khiết là một hình thức của tình yêu. Xét như một dấu chỉ, nó nói với chúng ta về Nước Thiên Chúa đang đến và về nhu cầu dấn thân hoàn toàn cho Tin Mừng (x. 1Cr 7,32). Trinh khiết cũng là một phản ảnh của sự viên mãn trên thiên quốc, ở đó “người ta không còn dựng vợ gả chồng” (Mt 22,30). Thánh Phaolô cổ võ sự trinh khiết vì ngài kỳ vọng sự trở lại nhanh chóng của Đức Giêsu và ngài muốn mọi người chỉ tập trung vào việc truyền rao Tin Mừng: “Thời gian chẳng còn bao lâu” (1Cr 7,29). Tuy nhiên, ngài nêu rõ rằng đây là quan điểm và ý muốn cá nhân của ngài (x. 1Cr 7,6-9), chứ không phải một cái gì do Đức Kitô đòi hỏi: “Tôi không có chỉ thị nào của Chúa” (1Cr 7,25). Cũng vậy, ngài nhìn nhận giá trị của những tiếng gọi khác nhau: “Mỗi người nhận được ân ban riêng của Thiên Chúa, người ơn này kẻ ơn khác” (1Cr 7,7). Suy tư về điều này, Thánh Gioan Phaolô II ghi nhận rằng các bản văn Thánh Kinh “không cho ta lý do để khẳng định tính ‘thấp kém’ của hôn nhân, cũng không khẳng định tính ‘ưu việt’ của trinh khiết hay độc thân”[166] dựa trên sự tiết dục. Thay vì nói một cách tuyệt đối về tính ưu việt của trinh khiết, ta nên chỉ ra rằng những bậc sống khác nhau bổ sung cho nhau, và vì thế một số người có thể hoàn hảo hơn trong cách sống này và những người khác sẽ hoàn hảo hơn trong cách sống khác. Alexander (gốc ở Hales), chẳng hạn, tuyên bố rằng theo một nghĩa nào đó thì hôn phối có thể được xem như ưu việt hơn các bí tích khác, trong mức độ nó là biểu tượng của thực tại lớn lao, đó là “sự kết hợp của Đức Kitô với Hội Thánh, hay sự kết hợp giữa thiên tính và nhân tính của Người”.[167]
  1. Do đó, “đây không phải là vấn đề giảm trừ giá trị của hôn nhân để thiên vị sự trinh khiết”.[168] “Không có nền tảng nào để ta hạ giá bên này và đề cao bên kia… Nếu người ta nói về “bậc trọn lành” (status perfectionis) theo một truyền thống thần học nào đó, thì điều đó không liên hệ với sự trinh khiết xét tự thân nó, nhưng là liên hệ tới toàn thể đời sống đặt nền trên các lời khuyên của Phúc Âm”.[169] Một người kết hôn có thể kinh nghiệm mức độ cao nhất của đức ái và do đó “đạt tới sự hoàn thiện phát xuất từ đức ái, xuyên qua việc trung thành với tinh thần các lời khuyên Phúc Âm. Sự hoàn thiện như thế là điều có thể, và mọi người nam nữ đều có khả năng đạt được”.[170]
  1. Giá trị của trinh khiết nằm ở chỗ nó là biểu tượng của một tình yêu vốn không có nhu cầu chiếm hữu người khác; bằng cách này nó phản ảnh sự tự do của Nước Trời. Trinh khiết khích lệ những người vợ chồng sống tình yêu phu phụ của họ dựa trên cơ sở tình yêu dứt khoát của Đức Kitô, đồng hành với nhau tiến tới sự viên mãn của Nước Trời. Về phần mình, tình yêu vợ chồng biểu tượng cho những giá trị khác. Một đàng, nó là một phản ảnh đặc biệt của sự hợp nhất trọn vẹn ngay trong những khác biệt như thấy nơi Chúa Ba Ngôi. Gia đình cũng là một dấu hiệu của Đức Kitô. Nó biểu thị sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng có mặt trong mọi đời sống con người, vì Ngài trở nên một với chúng ta qua cuộc nhập thể, cái chết và sự sống lại. Mỗi người phối ngẫu trở thành “một xương một thịt” với người kia, như một dấu chỉ sẵn sàng chia sẻ mọi sự với người ấy cho tới chết. Trong khi trinh khiết là một dấu chỉ “cánh chung” của Đức Kitô Phục sinh, thì hôn nhân là một dấu chỉ “lịch sử” cho chúng ta sống trên thế giới này, một dấu chỉ của Đức Kitô tại thế, là Đấng đã chọn trở thành một với chúng ta và tự hiến cho chúng ta đến mức đổ máu mình ra. Trinh khiết và hôn nhân là – và phải là – những cách thế khác nhau để yêu thương. Vì “con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là một hữu thể không thể hiểu nổi đối với chính mình, đời sống của con người sẽ vô nghĩa, nếu tình yêu không được mạc khải cho con người”.[171]
  1. Độc thân có thể có nguy cơ trở thành một đời sống thoải mái một mình, trong đó người ta có sự tự do để sống độc lập, để di chuyển từ chỗ ở này đến chỗ ở khác, từ công việc này đến công việc khác, hay từ sự chọn lựa này đến sự chọn lựa khác, để sử dụng tiền bạc và thời giờ với người khác theo cách mình muốn. Trong những trường hợp như thế, chứng tá của những người kết hôn trở thành hùng hồn cách đặc biệt. Những người được gọi để sống trinh khiết có thể gặp thấy trong một số cuộc hôn nhân một dấu hiệu rõ ràng của lòng trung thành bền bỉ và quảng đại của Thiên Chúa đối với giao ước của Ngài, và điều này có thể thúc đẩy họ sẵn sàng phục vụ người khác cách quảng đại và cụ thể hơn. Nhiều đôi vợ chồng vẫn trung thành với nhau khi một người trong họ trở nên không còn hấp dẫn về mặt thể lý, hay không còn có thể thỏa mãn các nhu cầu của người kia, bất chấp trong xã hội có những tiếng xúi quẩy họ bất trung hoặc rời bỏ người bạn đời của mình. Một người vợ có thể chăm sóc người chồng bệnh tật của mình, và như vậy, trong khi tiến gần tới Thập giá, chị làm mới lại lời cam kết yêu chồng mình đến suốt đời. Trong tình yêu như thế, phẩm giá của người yêu đích thực tỏa sáng, theo tiêu chuẩn rằng đức ái được đặc trưng ở yêu người nhiều hơn ở được người yêu.[172] Chúng ta cũng có thể nghĩ đến nhiều gia đình có khả năng phục vụ cách ân cần và quên mình khi con cái gây phiền nhiễu và thậm chí phụ bạc. Các bậc cha mẹ ở đây trở thành một dấu chỉ của tình yêu nhưng không và quên mình của Đức Giêsu. Những trường hợp này khích lệ những người độc thân sống sự dấn thân của họ cho Nước Trời một cách cởi mở và quảng đại nhiều hơn. Ngày nay, hiện tượng tục hóa đã che mờ giá trị của một sự kết hợp suốt đời và vẻ đẹp của ơn gọi hôn nhân. Vì thế, “cần phải đào sâu nhận thức về những khía cạnh tích cực của tình yêu vợ chồng”.[173]

SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TÌNH YÊU

  1. Ngày nay, tuổi thọ dài hơn có nghĩa rằng những mối tương quan mật thiết và độc hữu phải kéo dài bốn, năm hay thậm chí sáu thập niên; vì thế, cái quyết định ban đầu phải thường xuyên được làm mới lại. Trong khi một người phối ngẫu có thể không còn kinh nghiệm một khao khát tình dục mạnh mẽ đối với người kia, thì đương sự vẫn có thể kinh nghiệm niềm hoan lạc của sự thuộc về nhau, cũng như ý thức rằng không ai trong họ cô đơn, nhưng có một “bạn đời” để chia sẻ mọi sự trong đời sống của mình. Người này là bạn đồng hành trong hành trình cuộc sống của người kia, cả hai cùng đương đầu với những khó khăn và cùng hưởng những hoan lạc của đời sống. Niềm thỏa mãn này thuộc về tâm cảm riêng của tình yêu vợ chồng. Không có gì bảo đảm rằng chúng ta sẽ cảm nghiệm theo cùng một cách giống nhau trong suốt cuộc sống. Nhưng nếu một đôi bạn có thể thực hiện được dự án chia sẻ đời sống suốt đời, thì họ có thể yêu nhau và sống gắn bó cho đến khi cái chết tách lìa họ, họ vui hưởng và đào sâu sự mật thiết. Tình yêu mà họ cam kết thì lớn hơn mọi cảm tính, xúc cảm, hay mọi tình trạng tâm tưởng, dù nó có thể bao gồm tất cả những yếu tố ấy. Đó là một tình yêu sâu xa hơn, một quyết định có tầm vĩnh viễn của trái tim người ta. Ngay cả giữa những xung đột ngổn ngang và những hoàn cảnh tâm cảm lộn xộn, họ vẫn hằng ngày xác nhận lại quyết định yêu thương của mình, thuộc về nhau, chia sẻ đời sống với nhau, và tiếp tục yêu thương và tha thứ. Mỗi người tiến bộ trên con đường trưởng thành cá nhân và phát triển. Trên hành trình này, tình yêu vui mừng ở mỗi bước đi và ở mỗi chặng đường mới.
  1. Trong mọi cuộc hôn nhân, những dáng vẻ ngoại hình sẽ thay đổi, nhưng điều này không có nghĩa rằng tình yêu và sự hấp dẫn nhất thiết phải phai nhạt. Chúng ta yêu người kia vì chính con người của người ấy, không duy chỉ vì thân xác của người ấy. Dù thân xác già đi, nó vẫn diễn tả cái căn tính con người vốn đã chinh phục trái tim chúng ta lúc ban đầu. Ngay cả dù những người xung quanh không còn thấy được vẻ đẹp của căn tính ấy, thì người phối ngẫu vẫn tiếp tục nhìn thấy nó với đôi mắt của tình yêu, và vì thế tình cảm không suy giảm. Người phối ngẫu tái xác nhận quyết định thuộc về người kia và diễn tả sự chọn lựa này trong sự gần gũi trung thành và đầy yêu thương. Sự cao quí của quyết định này, do tính thâm sâu của nó, sẽ làm phát sinh một loại cảm xúc mới khi người ta chu toàn sứ mạng đời sống hôn nhân của mình. Vì “cảm xúc, gây ra bởi một người khác trong tư cách là một con người… tự nó không hướng đến hành vi vợ chồng”.[174] Nó tìm thấy những diễn tả khả giác khác. Thật vậy, tình yêu “là một thực tại đơn nhất, nhưng với những chiều kích khác nhau; vào những lúc khác nhau, chiều kích này hay chiều kích kia có thể hiện lộ rõ ràng hơn”.[175] Mối dây hôn nhân tìm thấy những hình thức diễn tả mới và không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để thắt chặt hơn. Cả hai điều này sẽ giữ gìn và củng cố mối dây. Chúng giả thiết những cố gắng hằng ngày. Tuy nhiên, những điều này sẽ là không thể, nếu người ta không cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để xin Ngài đổ tràn ân sủng của Ngài, sức mạnh siêu nhiên và ngọn lửa thiêng liêng của Ngài, để củng cố, hướng dẫn và biến đổi tình yêu của chúng ta trong mỗi hòan cảnh mới.

———————————–

[1] PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI NGOẠI THƯỜNG THỨ BA, THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Phúc trình THĐ. (18.10.2014), 2.

[2] PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THƯỜNG KỲ THỨ MƯỜI BỐN, THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Phúc trình chung kết (24.10.2015), 3.

[3] Diễn từ Bế mạc Phiên Họp Khoáng Đại Thường Kỳ Thứ Mười Bốn, Thượng Hội Đồng Giám Mục (24.10.2015), L’Osservatore Romano, 26-27.10. 2015, tr. 13; x. ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG, Fede e cultura alla luce della Bibbia. Atti della sessione plenaria 1979 della Pontificia Commissione Biblica, Turin, 1981; VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium et Spes, 44; GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7.12.1990), 52: AAS 83 (1991), 300; Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11. 2013), 69, 117: AAS 105 (2013), 1049, 1068-69.

[4] Diễn từ tại Hội Nghị các Gia đình ở Santiago, Cuba (22.9.2015): L’Osservatore Romano, 24.9.2015, tr. 7.

[5] JORGE LUIS BORGES, “Calle Desconocida”, trong Fervor de Buenos Aires, Buenos Aires, 2011, 23.

[6] Bài giảng tại Thánh Lễ cử hành ở Puebla de los Ángeles (28.01.1979), 2: AAS 71 (1979), 184.

[7] Cf. ibid.

[8] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 4: AAS 74 (1982), 84.

[9] Phúc trình THĐ. 2014, 5.

[10] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC TÂY BAN NHA, Matrimonio y familia (6.7.1979), 3, 16, 23.

[11] Phúc trình chung kết 2015, 5.

[12] Phúc trình THĐ. 2014, 5.

[13] Phúc trình chung kết 2015, 8.

[14] Diễn từ tại Quốc Hội Mỹ (24.9.2015): L’Osservatore Romano, 26.9. 2015, tr. 7.

[15] Phúc trình chung kết 2015, 29.

[16] Phúc trình THĐ. 2014, 10.

[17] PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THỨ BA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Sứ điệp, 18.10.2014.

[18] Phúc trình THĐ. 2014, 10.

[19] Phúc trình chung kết 2015, 7.

[20] Ibid., 63.

[21] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HÀN QUỐC, Hướng Đến Một Nền Văn Hóa Sự Sống! (15.3.2007), 2.

[22] Phúc trình THĐ. 2014, 6.

[23] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Hiến chương về các Quyền của Gia đình (22.10.1983), Art. 11.

[24] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 11-12.

[25] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Hiến chương về các Quyền của Gia đình (22.10.1983), Dẫn nhập.

[26] Ibid., 9.

[27] Phúc trình chung kết 2015, 14.

[28] Phúc trình THĐ. 2014, 8.

[29] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 78.

[30] Phúc trình THĐ. 2014, 8.

[31] Phúc trình chung kết 2015, 23; cf. Sứ điệp Ngày Thế giới những người Di cư và Tị nạn 17.01.2016 (12.9.2015), L’Osservatore Romano, 2.10.2015, tr. 8.

[32] Phúc trình chung kết 2015, 24.

[33] Ibid., 21.

[34] Ibid., 17.

[35] Ibid., 20.

[36] Cf. ibid., 15.

[37] Diễn từ Bế mạc Phiên họp Khoáng Đại Thứ Mười Bốn Thượng Hội Đồng Giám Mục (24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr. 13.

[38] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ARGENTINA, Navega mar adentro (31.5.2003), 42.

[39] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC MEXICO, Que en Cristo Nuestra Paz México tenga vida digna (15.02.2009), 67.

[40] Phúc trình chung kết 2015, 25.

[41] Ibid., 10.

[42] Bài giáo lý (22.4.2015): L’Osservatore Romano, 23.4.2015, tr. 7.

[43] Bài giáo lý (29.4.2015): L’Osservatore Romano, 30.4.2015, tr. 8.

[44] Phúc trình chung kết 2015, 28.

[45] Ibid., 8.

[46] Ibid., 58.

[47] Ibid., 33.

[48] Phúc trình THĐ. 2014, 11.

[49] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC COLOMBIA, A tiempos dificiles, colombianos nuevos (13.02.2003), 3.

[50] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 35: AAS 105 (2013), 1034.

[51] Ibid., 164: AAS 105 (2013), 1088.

[52] Ibid.

[53] Ibid., 165: AAS 105 (2013), 1089.

[54] Phúc trình THĐ. 2014, 12.

[55] Ibid., 14.

[56] Ibid., 16.

[57] Phúc trình chung kết 2015, 41.

[58] Ibid., 38.

[59] Phúc trình THĐ. 2014, 17.

[60] Phúc trình chung kết 2015, 43.

[61] Phúc trình THĐ. 2014, 18.

[62] Ibid., 19.

[63] Phúc trình chung kết 2015, 38.

[64] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 13: AAS 74 (1982), 94.

[65] Phúc trình THĐ. 2014, 21.

[66] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo , 1642.

[67] Ibid.

[68] Bài giáo lý (6.5.2015): L’Osservatore Romano, 7.5.2015, tr. 8.

[69] LÊÔ CẢ, Epistula Rustico Narbonensi Episcopo, Inquis. IV: PL 54, 1205A; cf. HINCMAR OF RHEIMS, Epist. 22: PL 126, 142.

[70] Cf. PIÔ XII, Thông Điệp Mystici Corporis Christi (29.6.1943): AAS 35 (1943), 202: “Matrimonio enim quo coniuges sibi invicem sunt ministri gratiae …”

[71] Cf. Bộ Giáo Luật, cc. 1116; 1161-1165; Bộ Giáo Luật các Giáo Hội Đông Phương, 832; 848-852.

[72] Ibid., c. 1055 §2.

[73] Phúc trình THĐ. 2014, 23.

[74] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 9: AAS 74 (1982), 90.

[75] Phúc trình chung kết 2015, 47.

[76] Ibid.

[77] Bài giảng Thánh Lễ Bế Mạc Đại Hội các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Tám ở Philadelphia (27.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr. 7.

[78] Phúc trình chung kết 2015, 53-54.

[79] Ibid., 51.

[80] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 48.

[81] Cf. Bộ Giáo Luật, c. 1055 § 1: “ad bonum coniugum atque ad prolis generationem et educationem ordinatum”.

[82] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2360.

[83] Ibid., 1654.

[84] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 48.

[85] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2366.

[86] Cf. PHAOLÔ VI, Thông Điệp Humanae Vitae (25.7.1968), 11-12: AAS 60 (1968), 488-489.

[87] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2378.

[88] THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Donum Vitae (22.02.1987), II, 8: AAS 80 (1988), 97.

[89] Phúc trình chung kết 2015, 63.

[90] Phúc trình THĐ. 2014, 57.

[91] Ibid., 58.

[92] Ibid., 57.

[93] Phúc trình chung kết 2015, 64.

[94] Phúc trình THĐ. 2014, 60.

[95] Ibid., 61

[96] Bộ Giáo Luật, c. 1136; cf. Bộ Giáo Luật các Giáo Hội Đông Phương , 627.

[97] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Sự Thật và Ý Nghĩa của Tính Dục Con Người (8.12.1995), 23.

[98] Bài giáo lý (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.

[99] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (28 November 1981) 38: AAS 74 (1982), 129.

[100] Cf. Diễn từ tại Hội Đồng Giáo Phận Rôma (14.6.2015): L’Osservatore Romano, 15-16.6.2015, tr. 8.

[101] Phúc trình THĐ. 2014, 23.

[102] Phúc trình chung kết 2015, 52.

[103] Ibid., 49-50.

[104] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 1641.

[105] Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 2: AAS 98 (2006), 218.

[106] Linh Thao, Chiêm niệm để được tình yêu (230).

[107] OCTAVIO PAZ, La llama doble, Barcelona, 1993, 35.

[108] TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae II-II, q. 114, art. 2, ad 1.

[109] Bài giáo lý (13.5.2005): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.

[110] TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae, II-II, q. 27, art. 1, ad 2.

[111] Ibid., q. 27, art. 1.

[112] Bài giáo lý (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.

[113] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 21: AAS 74 (1982), 106.

[114] MARTIN LUTHER KING JR., Bài giảng tại Nhà thờ Baptist Dexter Avenue, Montgomery, Alabama, 17.11.1957.

[115] Tôma Aquinô gọi tình yêu là một vis unitiva (Summa Theologiae I, q. 20, art. 1, ad 3), âm vang một từ ngữ của Pseudo-Dionysius (De Divinis Nominibus, IV, 12: PG 3, 709).

[116] TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae II-II, q. 27, art. 2.

[117] Thông Điệp Casti Connubii (31.12.1930): AAS 22 (1930), 547-548.

[118] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 13: AAS 74 (1982), 94.

[119] Bài giáo lý (2 April 2014): L’Osservatore Romano, 3.4.2014, tr. 8.

[120] Ibid.

[121] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 9: AAS 75 (1982), 90.

[122] TÔMA AQUINÔ, Summa Contra Gentiles III, 123; cf. ARISTOTLE, Nicomachean Ethics, 8, 12 (ed. Bywater, Oxford, 1984, 174).

[123] Thông Điệp Lumen Fidei (29.6.2013), 52: AAS 105 (2013), 590.

[124] De sacramento matrimonii, I, 2; trong Id., Disputationes, III, 5, 3 (ed. Giuliano, Naples, 1858), 778.

[125] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 50.

[126] Ibid., 49.

[127] Cf. Summa Theologiae I-II, q. 31, art. 3., ad 3.

[128] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 48.

[129] Cf. TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae I-II, q. 26, art. 3.

[130] Ibid., q. 110, art. 1.

[131] AUGUSTINÔ, Tự Thú, VIII, III, 7: PL 32, 752.

[132] Diễn từ cho Cuộc Hành Hương của Các Gia Đình trong Năm Đức Tin (26.10.2013): AAS 105 (2013), 980.

[133] Sứ điệp Kinh Truyền Tin (29.12.2013): L’Osservatore Romano, 30-31.12.2013, tr. 7.

[134] Diễn từ cho Cuộc Hành Hương của Các Gia Đình trong Năm Đức Tin (26.10.2013): AAS 105 (2013), 978.

[135] Summa Theologiae II-II, q. 24, art. 7.

[136] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 48.

[137] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CHI-LÊ, La vida y la familia: regalos de Dios para cada uno de nosotros (21.7.2014).

[138] Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium et Spes, 49.

[139] A. SERTILLANGES, L’Amour chrétien, Paris, 1920, 174.

[140] Cf. TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae I-II, q. 24, art. 1.

[141] Cf. ibid., q. 59, art. 5.

[142] Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 3: AAS 98 (2006), 219-220.

[143] Ibid., 4: AAS 98 (2006), 220.

[144] Cf. TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae I-II, q. 32, art.7.

[145] Cf. id., Summa Theologiae II-II, q. 153, art. 2, ad 2: “Abundantia delectationis quae est in actu venereo secundum rationem ordinato, non contrariatur medio virtutis”.

[146] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (22.10.1980), 5: Insegnamenti III/2 (1980), 951.

[147] Ibid., 3.

[148] ID., Bài giáo lý, (24.9.1980), 4: Insegnamenti III/2 (1980), 719.

[149] Bài giáo lý (12.11.1980), 2: Insegnamenti III/2 (1980), 1133.

[150] Ibid., 4.

[151] Ibid., 5.

[152] Ibid., 1: 1132.

[153] Bài giáo lý (16.01.1980), 1: Insegnamenti III/1 (1980), 151.

[154] JOSEF PIEPER, Über die Liebe, Munich, 2014, 174. Anh ngữ: Về Tình Yêu, trong Đức Tin, Cậy, Mến, San Francisco, 1997, tr. 256.

[155] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Evangelium Vitae (25.3.1995), 23: AAS 87 (1995), 427.

[156] PHAOLÔ VI, Thông Điệp Humanae Vitae (25.7.1968), 13: AAS 60 (1968), 489.

[157] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 49.

[158] Bài giáo lý (18.6.1980), 5: Insegnamenti III/1 (1980), 1778.

[159] Ibid., 6.

[160] Cf. Bài giáo lý (30.7.1980), 1: Insegnamenti III/2 (1980), 311.

[161] Bài giáo lý (8.4.1981), 3: Insegnamenti IV/1 (1981), 904.

[162] Bài giáo lý (11.8.1982), 4: Insegnamenti V/3 (1982), 205-206.

[163] Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 5: AAS 98 (2006), 221.

[164] Ibid., 7.

[165] Phúc trình chung kết 2015, 22.

[166] Bài giáo lý (14.4.1982), 1: Insegnamenti V/1 (1982), 1176.

[167] Glossa in quatuor libros sententiarum Petri Lombardi, IV, XXVI, 2 (Quaracchi, 1957, 446).

[168] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (7.4.1982), 2: Insegnamenti V/1 (1982), 1127.

[169] ID., Bài giáo lý (14.4.1982), 3: Insegnamenti V/1 (1982), 1177.

[170] Ibid.

[171] ID., Thông Điệp Redemptor Hominis (4.3.1979), 10: AAS 71 (1979), 274.

[172] Cf. TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae, II-II, q. 27, art. 1.

[173] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Gia Đình, Hôn Nhân và Những Kết Hợp“De Facto” (26.7.2000), 40.

[174] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (31.10.1984), 6: Insegnamenti VII/2 (1984), 1072.

[175] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 8: AAS 98 (2006), 224.

——————————

Xem phần 2 ở đây.

Từ khóa » Tóm Tắt Tông Huấn Niềm Vui Yêu Thương