Tổng Quan Về Nhạc Jazz Và Nghệ Thuật Hứng Tấu Trong Jazz

Nhạc Jazz là thể loại nhạc được nhiều người yêu thích và xuất hiện rất nhiều trong nền âm nhạc hiện tại. Vậy nhạc Jazz là gì, ra đời từ khi nào và có sức ảnh ra sao?

Để góp phần tăng trải nghiệm của bạn, hãy cùng 3kShop tìm hiểu rõ hơn về nhạc Jazz và nghệ thuật hứng tấu từ nhạc Jazz nhé:

Nhạc Jazz Là Gì? Lịch sử ra đời nhạc Jazz

Các Thể Loại Nhạc Jazz Theo Từng Giai Đoạn

Nghệ Thuật Ngẫu Hứng Là Gì?

Giải Pháp Nào Để Nghe Nhạc Jazz Tốt Hơn?

Tổng Kết

__

Nhạc Jazz Là Gì? Lịch sử ra đời nhạc Jazz

Đang tải tinhte-jazz-history-3.jpg…

Jazz ra đời ở New Orleans vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi người Mỹ gốc Phi kết hợp văn hóa bản địa với các nhạc cụ Châu Âu. Sau đó Jazz được lấy thêm cảm hứng từ phim ảnh, thể thao, âm nhạc, nghệ thuật, văn chương và cả chủng tộc.

Jazz đặc biệt vì sự đổi mới không ngừng của các nghệ sĩ xuyên suốt lịch sử của dòng nhạc này. Xuyên suốt 100 năm, các nghệ sĩ không chỉ nỗ lực cách tân Jazz ở góc độ kỹ thuật nội tại mà còn đi tìm sự đổi mới bằng cách kết hợp những chất liệu nghệ thuật của các dòng nhạc khác (Rock, Funk, World Music,…)

Một điều dễ nhận thấy nhất ở nhạc jazz, ngay cả đối với người mới nghe jazz chưa nhiều, đó là sự ngẫu hứng. Các nghệ sĩ nhạc jazz cũng luôn cố gắng kết hợp thật ăn ý để biểu diễn một cách trơn tru nhất. Không ngoa khi nói nhạc jazz luôn mang đến sự bất ngờ cho người nghe, không giống với các dòng nhạc khác đôi khi bạn có thể đoán được các cao trào.

Đang tải tinhte-jazz-history-2.jpg…

Các Thể Loại Nhạc Jazz Theo Từng Giai Đoạn

Nhạc jazz có nhiều phân nhánh (sub-genre) khác nhau, các phân nhánh này vẫn giữ nguyên kiểu thể hiện ngẫu hứng, chỉ khác nhau ở phong cách của từng thời kỳ trong lịch sử, cũng như xu hướng phát triển của xã hội. 

Cùng điểm qua các phân nhánh của jazz được chia theo từng giai đoạn

1.Blues (xuất hiện từ khoảng cuối thế kỷ 19 đến nay)

Tương tự như jazz, blues bắt đầu xuất hiện từ khoảng thế kỷ 19 và được ngân nga bởi những người nô lệ, và sau đó là nông dân. Khi người Nam Mỹ học chơi các nhạc cụ Châu Âu, thông dụng nhất là guitar. Nhạc blue ra đời khi người ta nghêu nghao bên cạnh cây guitar.  Phong cách chung của nhạc blues là luôn đánh theo các quy cách nhất định, cũng như có đặc trưng riêng với nốt trầm gọi là “blue note”, mang đến cảm xúc buồn man mác khó tả.

Nhạc blues phát triển song song với nhạc jazz trong khoảng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, và lúc đó các nghệ sỹ jazz cũng thường sử dụng những đặc điểm của blues để pha trộn vào phong cách jazz của mình nhằm tạo nên sự mới lạ.

Các nghệ sỹ jazz-blues nổi bật có thể nhắc đến gồm W.C. Handy, Huddie “Lead Belly” Leadbetter hay Bessie Smith.

Đang tải tinhte-jazz-history-4.jpg…

Lead Belly

2. Ragtime (giai đoạn 1895 – 1918)

Ragtime cũng là tiền thân của phong cách jazz hiện nay, được chơi chủ yếu bằng piano tuy nhiên đôi khi cũng được thể hiện bởi các nhạc cụ khác. Ragtime có cách thể hiện ngắn gọn súc tích, tạo ra sự độc đáo khó đoán trước. Các kỹ thuật piano ragtime sau đó có ảnh hưởng rất lớn đến kỹ thuật chơi piano jazz.

Đang tải tinhte-jazz-history-5.jpg…

Scott Joplin – cha đẻ của phong cách piano ragtime nguyên bản

Các tác phẩm nên nghe thử là Maple Leaf Rag hoặc The Entertainer.

3. New Orleans Jazz (giai đoạn 1900 – 1920)

New Orleans Jazz bắt nguồn từ phong cách chơi lạ lẫm của các ban nhạc mới xuất hiện thời đó ở New Orleans. Các nhạc cụ như cornet (giống kèn trumpet) được sử dụng thường xuyên trong New Orleans Jazz. New Orleans Jazz sau đó chịu ảnh hưởng của ragtime (xuất hiện cùng thời nhưng được yêu thích hơn) và bắt đầu chuyển sang phong cách chơi tương tự. Nó chỉ khác biệt ở chỗ là đôi khi được điểm thêm 1 chút chất blues.

Đang tải tinhte-jazz-history-6.jpg…

Jelly Roll Morton – chủ nhân tác phẩm Wolverine Blues

New Orleans Jazz được thể hiện với tiếng đàn banjo, string bass, drums, piano và 1 số nhạc cụ cổ điển khác. Các ban nhạc New Orleans cũng chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, và cũng không có các nghệ sỹ solo hay tác phẩm nào nổi bật, vì thế nó ít được biết đến hơn các phân nhánh khác. New Orleans Jazz chỉ được biết đến ở Mỹ sau khí chiếc máy hát phonograph được phát minh. Nhiều nghệ sỹ New Orleans Jazz sau đó cũng rời New Orleans đến Chicago trong đợt di cư Great Migration.

Các tác phẩm được nghe nhiều nhất có Dipper Mouth Blues (Joe “King” Oliver), King Porter Stomp hay Wolverine Blues (Jelly Roll Morton).

4. Chicago (giai đoạn năm 1920)

Các ban nhạc jazz ở Chicago có phong cách chơi khác biệt so với New Orleans khi thay thế đàn banjo bằng chiếc guitar, thêm saxophone và chuyển nhịp 4/4 về 2/4. Một đổi mới nữa là sự xuất hiện của phần solo.

Đang tải tinhte-jazz-history-7.jpg…

Louis Armstrong – một trong những lão làng của Chicago Jazz 

Nghệ sĩ nổi tiếng của dòng nhạc Chicago Jazz chính là Louis Armstrong. Bạn đọc có thể tìm nghe 2 album được đánh giá rất cao của ông là The Hot 5s và The Hot 7s.

5.New York (giai đoạn năm 1920)

Phong trào jazz ở Chicago lan tỏa đến New York và cũng được thêm vào những đổi mới độc đáo hơn, trong đó có phong cách stride-piano. New York Jazz cũng quy tụ nhiều ban nhạc với tầm cỡ lớn hơn và có đầu tư chất lượng hơn.

Một số bản hit nên nghe là The Charleston, Carolina Shout (James P. Johnson) hay Flaming Youth (Duke Ellington).

Đang tải tinhte-jazz-history-8.jpeg…

Duke Ellington với tác phẩm Flaming Youth là siêu phẩm không thể bỏ qua của New York Jazz Các tên tuổi nổi tiếng có thể nhắc đến như James P. Johnson và Duke Ellington. Một số bản hit nên nghe là The CharlestonCarolina Shout (James P. Johnson) hay Flaming Youth (Duke Ellington).

6. Swing / Big Band Era (giai đoạn 1930 – 1945)

Từ những năm 1930, nhạc jazz rất được yêu thích bởi 1 số tầng lớp trung lưu người Mỹ do có sự kết nối sâu sắc với văn hóa Mỹ gốc Phi. Big Band Era ra đời với các ban nhạc có lượng nhạc công hùng hậu, bắt nguồn từ thời kỳ Great Depression khiến nhiều nhạc công jazz mất việc và phải tập hợp lại thành những nhóm lớn để kiếm sống đồng thời theo đuổi niềm đam mê.

Khác với kiểu chơi nhanh gọn trước đó, các nhóm trong thời kỳ Big Band Era chơi nhạc 1 cách thoáng và “phiêu” hơn. Kiểu chơi này chính là nhạc swing, 1 kiểu nhạc dance có ảnh hưởng đến nhiều phân nhánh nhạc dance xuất hiện sau nó (ví dụ Lindy Hop). Ngoài jazz, các nhóm trong thời kỳ Big Band Era còn chơi theo tiêu chuẩn nhạc Mỹ, càng mang đến chất jazz nhiều hơn nữa.

nhac-jazz

Benny Goodman và dàn nhạc giao hưởng của ông

Bạn có thể tìm hiểu thêm các tên tuổi như Fletcher Henderson, Benny Goodman, Count Basie, Duke Ellington và Cab Calloway. Các ca khúc nên nghe có It Don’t Mean a Thing (Duke Ellington), Sing Sing Sing (Benny Goodman) và Minnie the Moocher (Cab Calloway).

7. Jazz sau thời kỳ Big Band Era

Ngay từ khi mới xuất hiện, jazz đã luôn nhắm đến mục tiêu trở thành dòng nhạc xu hướng. Điều này có nghĩa là nó phải khiến người nghe nhún nhảy theo, hay ít nhất là cũng phải nhịp chân hay gục gặc đầu. Tuy nhiên trong những năm 1940, nhạc jazz đã chuyển sang 1 hướng đi mới. Thay vì sáng tác theo thị hiếu công chúng, các nghệ sỹ jazz lúc này lại sáng tác theo những gì mình thích. Điều này vô tình giúp jazz trở nên đa dạng hơn, không còn chỉ gói gọn ở 1 chủ đề hay phong cách đang ăn khách nữa.

Phong cách chơi jazz bắt đầu trở nên trừu tượng, điều mà các nghệ sỹ và người yêu nhạc jazz gọi chung là “sự ngẫu hứng”. Nhiều phong cách thử nghiệm mới bắt đầu xuất hiện, thành công có, mà thất bại cũng có. Nhạc jazz thực sự chưa bao giờ phong phú đến vậy.

Trong thời kỳ này các nghệ sỹ cũng bắt đầu pha trộn các phong cách jazz khác nhau để tạo ra hình thái cho riêng mình, cũng như các tác phẩm được sáng tác bằng cách “nhồi nhét” càng nhiều kiểu chơi nhạc cụ càng tốt. Nói chung từ thời điểm này khó có thể phân chia rõ ràng các nhánh con trong nhạc jazz nữa.

8. Bebop (giai đoạn 1939 – 1950)

Bebop xuất hiện từ khoảng đầu những năm 1940, bắt đầu bằng việc giới nghệ sỹ trẻ cùng nhau tập luyện trong các jam-session, cùng lúc chơi chung và thử nghiệm các phong cách mới. Các nghệ sỹ phong cách bebop tận dụng lối chơi nhạc cụ theo từng lượt, đồng thời cũng chú trọng đến phần biểu diễn solo hơn. Phần tempo cũng được tăng lên khiến tiết tấu tác phẩm rất nhanh và có phần hơi “loạn”, trái ngược hẳn với kiểu nhún nhảy hay dance của thời Big Band Era.

nhac-jazz

Dizzy Gillespie

Các nghệ sỹ nổi bật gồm Coleman Hawkins, Charlie Parker, Dizzy Gillespie, Thelonious Monk, Bud Powell, Max Roach. Tác phẩm nên nghe là Blue Monk, Round Midnight (Thelonious Monk), Night in Tunisia, Shaw ‘Nuff (Dizzy Gillespie, Charlie Parker).

9. Cool (giai đoạn 1949 – 1955)

Cool Jazz trái ngược hẳn với Bebop bằng tiết tấu thư giãn chứ hoàn toàn không gấp gáp làm người nghe hụt hơi. Các nhạc công giảm tiết tấu tác phẩm và chú trọng hơn vào giai điệu, đồng thời sử dụng thêm các nhạc cụ cổ điển. Cool jazz có 1 thời gian còn được gọi là “West Coast Jazz”, tuy nhiên người quen nghe jazz sẽ nhận ra ngay những điểm khác biệt giữa 2 phân nhánh này.

nhac-jazz

Miles Davis

10. Hard Bop (giai đoạn 1951 – 1958)

Trong giai đoạn này khá nhiều các nghệ sỹ jazz cảm thấy rằng Cool Jazz nghe có vẻ quá cổ điển và đậm chất châu  u, và thế là họ quyết định dung hợp lại phong cách Hard Bop vào nó. Hard Bop mang đến cho nhạc jazz chất blues nguyên bản, cộng thêm hơi hướm châu Phi. Phân nhánh này ngoài ra còn có 1 chút ảnh hưởng từ gospel và rhythm nữa.

nhac-jazz

Art Blakey

Một số tác phẩm nổi bật có thể nhắc đến gồm Moanin’ (Art Blakey), Nica’s Dream(Horace Silver), St. Thomas (Sonny Rollins), Giant Steps (John Coltrane).

11. Modal (cuối những năm 1950)

Trong khi các tác phẩm Bebop và Cool Jazz được sáng tác và chơi theo 1 quy tắc (progression) nhất định nào đó thì Modal Jazz lại dựa trên các mode, từ đó phần nào khiến tác phẩm dễ chơi và cũng dễ nghe hơn. Ngoài ra, các mode trong Modal Jazz cũng chuyển biến rất chậm rãi chứ không gấp gáp như Bebop hoặc ngay cả Cool Jazz. Nghệ sỹ Modal Jazz cũng chỉ phải nghĩ cách hòa trộn 7 nốt trong mỗi mode nên sẽ có thể giành nhiều thời gian hơn cho các sáng tạo ngẫu hứng.

​Miles Davis vẫn tiếp tục là người đi đầu xu hướng với Modal Jazz

Nổi tiếng nhất với Modal Jazz  là Miles Davis và John Coltrane; Impression (John Coltrane) là 1 tác phẩm cực kỳ đáng nghe.

12. Free Jazz (giai đoạn 1959 – 1970)

Các nghệ sĩ nhạc jazz luôn luôn tìm cách “bứt phá” ra khỏi các rào cản âm nhạc, và Free Jazz chính là đỉnh điểm của mục tiêu đó. Thay vì sáng tác theo các khuôn khổ có sẵn, Free Jazz hoàn toàn dựa trên âm nhạc, nghĩa là chỉ cần nghe hay là được không cần đúng quy tắc gì cả. Free Jazz thường làm người nghe phải trầm trồ vì nó vượt qua tất cả những suy đoán của họ. Nó giống như sự trở lại của New Orleans Jazz – chất rượu tinh túy cũ trong 1 cái bình mới đẹp mắt hơn.

Ornette Coleman

Nổi bật trong phân nhánh này có Ornette Coleman, Cecil Taylor, Charles Mingus và John Coltrane. Bạn đọc cũng nên nghe thử Lonely Woman (Ornette Coleman) hay Enter Evening (Cecil Taylor).

13. Fusion (giai đoạn 1969 – 1990)

Sau hơn 3 thập kỷ khám phá các giới hạn của phong cách âm nhạc cấp tiến, các nghệ sỹ jazz của những năm 70′ bắt đầu mang nhạc jazz đến tiếp cận với đại chúng bằng Fusion. Fusion là sự hòa trộn của jazz với các thể loại nhạc phổ biến khác, chủ yếu là rock và funk. Về trình bày, Fusion Jazz kết hợp sức mạnh, âm điệu và sự đơn giản của rock’n’roll với sự ngẫu hứng tinh tế sẵn có của nhạc jazz. Các thiết bị điện tử của nhạc rock và funk cũng mang đến cho jazz 1 âm thanh hoàn toàn mới.

Nhiều nhà phê bình âm nhạc và người nghe chuyên nghiệp cho rằng Fusion Jazz chỉ là 1 thể loại “ăn theo”, không phải jazz mà cũng chẳng phải thứ mà nó đang kết hợp. Tuy nhiên không thể phủ nhận 1 điều rằng chính Fusion Jazz đã giúp nhạc jazz được nhiều người biết đến hơn, trong đó có giới trẻ đã quen nghe các dòng nhạc thị trường.

Herbie Hancock

Các nghệ sỹ đáng chú ý gồm có Miles Davis, Weather Report, Herbie Hancock, Chick Corea và Freddie Hubbard. Các ca khúc nên nghe gồm Bitches Brew (Miles Davis), Birdland (Weather Report), Chameleon (Herbie Hancock), Mr. Clean(Freddie Hubbard).

Nghệ Thuật Ngẫu Hứng Là Gì?

Mọi bản nhạc Jazz mà bạn nghe sẽ đều bao gồm một phần solo ứng tấu mà trong đó, người nghệ sĩ chơi các giai điệu nảy ra trong đầu mình ngay tại khoảnh khắc trình diễn. Phần ứng tấu này phản ánh sự sáng tạo, kỹ thuật của người nghệ sĩ thông qua tập luyện, sự tương tác của các nhạc cụ trong band và cả cảm xúc của người nghệ sĩ tại khoảnh khắc biểu diễn.

Ứng tấu cũng vậy, nghệ sĩ chơi những giai điệu tức thời ngay lúc biểu diễn và mỗi nốt nhạc đều phản ánh cảm xúc và sự sáng tạo, mà tất nhiên, là kết quả của sự luyện tập kỉ luật, cảm hứng âm nhạc và phong cách cá nhân của nghệ sĩ ấy.

Nghệ thuật ứng tấu không chỉ đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện, nghệ sĩ phải có khả năng lắng nghe và thể hiện được cảm xúc của bản thân ngay tại khoảnh khắc biểu diễn. Chính vì vậy, ứng tấu trong Jazz rất tự nhiên và sáng tạo, thể hiện phong cách mỗi nghệ sĩ khác nhau.

Giải Pháp Nào Để Nghe Nhạc Jazz Tốt Hơn?

Tiết tấu nhanh, nhiều chi tiết, cùng như nhiều lớp lan nên Jazz đòi hỏi người yêu thể loại nhạc này cần một hệ thống nghe nhạc đủ tốt để có thể cảm nhận hết cái hồn, cái hay của các bài nhạc. Nhưng với sự phát triển của ngày nay, các thiết bị nghe nhạc đã dần gọn gàng, đơn giản hơn và trên hết là người nghe không cần phải đầu tư quá nhiều tiền.

Ở phần còn lại của bài, 3kshop sẽ mách cho các bạn mới nhập môn hai giải pháp đơn giản nhất và kinh tế nhất để có thể trải nghiệm dòng nhạc này tốt hơn.

1. Sử dụng sản phẩm loa/tai nghe với chất lượng âm thanh tốt

Có thể nói, thiết bị phát như tai nghe/loa đóng vai trò quyết định trong hệ thống nghe nhạc của người nghe. Một số sản phẩm giúp bạn nghe nhạc Jazz hay hơn phải kể đến như:

FiiO FD1

FiiO FD1 là mẫu tai nghe in-ear giá rẻ đầu tiên của hãng FiiO trong dòng sản phẩm tai nghe dynamic FD mới. FiiO FD1 sẽ sử dụng một driver dynamic N50. Thiết kế housing in 3D tương tự FH1S và connector 2 pin.

Driver dynamic N50 được phủ một màng phim zirconium, hệ thống nam châm được đặt ở cả hai mặt của driver nhằm tăng độ từ thẩm lên 55%

Chất âm mang hơi hướng dễ nghe, cân bằng và không mệt tai khi nghe trong thời gian dài.

Beyerdynamic DT 240 Pro

Chiếc tai nghe Beyerdynamic DT240 Pro này còn được Beyer gọi là “compact over-ears”, tuy có kích thước nhỏ gọn như những mẫu tai nghe on-ear thông thường, nhưng  ear pad được thiết kế có thể ôm trọn vành tai, giúp đeo thoải mái và cách âm tốt hơn những mẫu on-ear thông thường. Chất lượng âm thanh của DT 240 Pro phù hợp cả cho nhu cầu sử dụng cơ bản lẫn chuyên nghiệp. Bass sạch và sâu, mid sống động , treble lên cao không bị chói. Sản phẩm cũng rất tiện lợi khi có thể gấp gọn và dễ dàng di chuyển mà không mất quá nhiều diện tích.

Marshall Emberton II

Nếu bạn đang tìm một chiếc loa để có thể cảm thụ được chất nhạc Jazz một cách tiện lợi và đơn giản, đừng bỏ qua loa bluetooth Marshall Emberton II. Đây là một trong những phiên bản nhỏ nhất của Marshall Emberton. Với công nghệ âm thanh True Stereophonic 360 độ cùng với thiết kế 2 củ loa full range 5cm, hệ thống tản nhiệt thụ động có tổng công suất lên tới 20W class D, mang đến những thanh âm rõ ràng, cao cấp và vô cùng sống động. Mẫu loa Marshall Emberton II này hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn những phút giây trải nghiệm âm nhạc hoàn hảo.

2. Nâng cấp DAC/Amp

DAC/AMP chính là một thiết bị được tích hợp cả mạch ampli, preamp hoặc headamp cho DAC, đây là một lựa chọn để phối ghép tiếp theo sau khi bạn đã chọn cho mình được một chiếc tai nghe ưng ý. 

DAC/Amp không chỉ giúp phát huy được những tính năng tốt nhất của chiếc tai nghe mà còn làm giảm, che lấp đi những hạn chế về âm thanh để giúp người sử dụng có thể thưởng thức âm nhạc một cách tốt nhất.

Bạn có thể tham khảo một số DAC/Amp hay và dễ mua, dễ sử dụng dưới đây:

ddHiFi TC44A

ddHiFi TC44A là mẫu Dongle DAC/Amp dành cho người dùng Apple, với kết nối Lightning sang balance 4.4mm cùng chip DAC CS43131.

iFi GO link

iFi Go Link được xem là một giải pháp tuyệt vời để nâng cao trải nghiệm nghe nhạc không cần bỏ ra quá nhiều chi phí. DAC Amp này hỗ trợ kết nối với PC, Mac, máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh thông qua cổng USB Type-C. Đầu ra 3.5mm S-BAL tương thích tốt với nhiều loại tai nghe, giúp bạn đắm mình trong âm thanh mạnh mẽ và sống động.

FiiO KA1

Fiio KA1 là một USB Dongle Dac có nhiều tính năng hấp dẫn, thiết kế lại nhỏ gọn, chơi được với điện thoại, laptop và cả PC. Âm thanh tương đối dễ nghe: dày, mạnh và sáng.

Tổng Kết

Nhạc Jazz nói chung và các dòng nhạc Jazz nói riêng ngày nay đóng một vị trí không nhỏ trong nghệ thuật âm nhạc trên toàn thế giới. Trên đây là những chia sẻ về nhạc Jazz cũng như những gợi ý để bạn có thể cảm thụ nhạc Jazz một cách tốt nhất. Hãy tiếp tục “Follow 3KShop” và để chúng mình chia sẻ cho bạn những kiến thức bổ ích về âm thanh nhé!

Từ khóa » Jazz Cơ Bản