Trần Nhân Tông Và Các Thế Hệ Của Thiền Phái Trúc Lâm

PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi

Viện Sử học 

  1. Vua Trần Nhân Tông – người sáng lập phái Thiền Trúc Lâm- Đệ Nhất tổ Trúc Lâm -Trúc Lâm Đại sĩ –Điều Ngự Giác Hoàng

Trần Nhân Tông sinh năm Mậu Ngọ- 1258, tháng 11, ngày 11, tên húy là Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, là vua thứ tư của nhà Trần. Khi vua mới sinh ra đã có dấu hiệu của thánh nhân, của người làm nên đại sự: “Được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung[2] đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử…”[3]; “Vai phải vua có nốt ruồi đen như hạt đậu lớn, người biết xem tướng nói: “(Đứa bé này) ngày sau có thể gánh vác việc lớn”[4].

Ông còn được vua cha Trần Thánh Tông đặt tên là Kim Phật, nguyên là bà Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm, bảo: “Có lệnh của Thượng đế, cho phép ngươi được chọn lấy”. Vì ngẫu nhiên được cây kiếm ngắn, Thái hậu bất giác rất vui, do đó có thai. Những tháng dưỡng thai, chẳng cần kiêng cữ, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường mà thai cũng chẳng sao, nên Thái hậu biết có nơi che chở. Đến khi vua sinh ra, màu da như vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật…”[5]. Trần Nhân Tông được biết đến là người thông minh, hiếu học, ham thích đọc sách, tinh thông kinh điển trong nước và nước ngoài. Khi đề từ cho bức tranh Trúc lâm đại sĩ xuất sơn đồ, Trần Quang Chỉ đã viết: “Khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”[6].

Năm Giáp Tuất- 1274, 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, mặc dù bản thân không muốn nhận, từ chối nhiều lần. Việc này, đều được chép trong Tam tổ thực lục và ĐVSKTT. “Năm 16 tuổi, được lập làm Hoàng Thái tử, Điều Ngự từ chối đến ba phen, xin để em mình thay thế, nhưng đều không được chấp thuận. Vua kết duyên với trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu là Khâm Từ Thái hậu, tình cầm sắt tuy cùng hòa hợp, nhưng lòng đạm bạc đối với nhà vàng”[7]. “Tháng 12 năm Giáp Tuất (1274), sách phong hoàng trưởng tử Khâm làm hoàng thái tử, lấy con gái trưởng của Hưng Đạo Vương làm phi cho thái tử”[8]. Theo quy định của nhà Trần, việc dạy học cho Thái tử được triều đình hết sức coi trọng. Lúc này, việc giúp rập thái tử là những nhà Nho, có đức hạnh: “Chọn người nho học có đức hạnh trong thiên hạ vào hầu Đông cung (tức thái tử). Lấy Lê Phụ Trần làm Thiếu sư, kiêm Trừ cung giáo thụ (là chức thầy học của thái tử). Lấy bọn Nguyễn Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố sung Nội thị học sĩ. Vua tự làm thơ để dạy hoàng tử”[9].

Vua Trần Nhân Tông từ nhỏ đã đam mê Phật giáo, đã có lúc, vua tự ra khỏi Kinh thành vào núi Yên Tử đi tu, bỏ lại đằng sau Hoàng tộc và ngôi vị cao quý. Thái hậu biết chuyện đã thuật lại với vua Thánh Tông. Vua Thánh Tông liền sai quần thần đốc thúc đi tìm. “Vào giờ Tý một đêm kia vua vượt thành ra đi, định vào núi Yên Tử, nhưng khi đến chùa tháp, núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, lại vì quá mệt nên phải vào nghỉ trong tháp. Vị tăng chùa ấy thấy vua tướng mạo khác thường, liền đem thức ăn lên mời. Ngày hôm đó, Thái hậu đem chuyện ấy thuật lại đầy đủ với Thánh Tông. Thánh Tông sai quần thần đi tìm khắp bốn phương, bất đắc dĩ vua phải trở về”[10]. Khi trở về cung, Thái tử “thường ở chùa Tư Phúc trong Đại Nội, ban ngày Thái tử ngủ, nằm mơ thấy lỗ rốn mình mọc lên một hoa sen vàng, lớn như bánh xe. Trên hoa có đức Phật vàng. Bên cạnh có người chỉ Điều Ngự nói: ‘Biết đức Phật này không? Ấy là đức Biến Chiếu Tôn’. Bèn giật mình thức dậy, đem giấc mơ kể lại cho vua Thánh Tông. Thánh Tông càng thêm lấy làm lạ”[11]. Sau giấc mơ này, vua Trần Nhân Tông đã ăn chay, mặt rồng gầy guộc khiến vua cha Thánh Tông rất đỗi xót thương. “Thánh Tông khóc bảo: ‘Cha nay già rồi, trông nhờ một người ở con. Con mà như thế, thì thành nghiệp của tổ tông sẽ thế nào. Điều Ngự cũng khóc”[12]

Năm 20 tuổi, ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần – 1278, Trần Nhân Tông lên ngôi vua. “Hoàng Thái tử Khâm lên ngôi Hoàng đế, xưng là Hiếu Hoàng, tôn Thượng hoàng là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế, tôn Thiên Cảm hoàng hậu là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngực Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế”[13]. Năm sau, tức năm Kỷ Mão (1279), đổi niên hiệu là Thiệu Bảo năm thứ 1, đồng thời lập bà phi Trần thị làm hoàng hậu”[14].

Trong thời gian ở ngôi vua, kế tục sự nghiệp của cha, ông, Trần Nhân Tông thi hành chính sách khoan hòa, thân dân, đối với quần thần như tay chân, vỗ về muôn dân như con, nhẹ hình phạt, giảm thuế khóa, thưởng phạt nghiêm. Sử gia khen ngợi ông là một vị vua hiền của triều Trần. Trần Nhân Tông là vị vua anh hùng, Phật hoàng và nhà văn hóa lớn của dân tộc.

Vua cai quản đất nước với biết bao công việc nhưng “mỗi khi nhàn rỗi, thường chiêu tập khách Thiền giảng giải Thiền tông”. Bên cạnh đó dưới sự chỉ bảo của Tuệ Trung Thượng sĩ, là anh cả của Hoàng hậu Nguyễn Thánh Thiên Cảm, thân mẫu của Trần Nhân Tông, hướng dẫn Trần Nhân Tông nghiên cứu Phật học. Cho nên Trần Nhân Tông hiểu sâu sắc tinh túy của Thiền tông, thường lấy đạo thầy trò để phụng sự. Trần Nhân Tông có niềm tin nhiệt thành với Phật giáo, thậm chí gần như si mê. Sau hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên (lần thứ hai 1285 và thứ ba 1288) thắng lợi, năm 1293, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông lên làm Thái Thượng hoàng.

Năm Giáp ngọ -1294, sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đích thân đi đánh Ai Lao. Trước khi đi, Thượng hoàng về Hành cung Vũ Lâm, là nơi nhà vua đã từng đi tu. “Giáp Ngọ, Hưng Long năm thứ 2 (1294). Bấy giờ, Thượng hoàng đến Vũ Lâm vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên mũi thuyền, chỉ để một người chèo thuyền thôi. Đến khi thượng hoàng xuất gia, sắp ra đi, mời Đạo Tái vào điện Dưỡng Đức cung Thánh Từ cho ngồi ăn các món hải vị. Năm 1295, Thượng hoàng từ Vũ Lâm trở về Kinh sư. Vì [trước] đã xuất gia ở hành cung Vũ Lâm rồi lại trở về[15].

Đến cuối năm Kỷ Hợi- 1299, Trần Nhân Tông chính thức đến núi Yên Tử đi tu, ông lấy pháp hiệu là Trúc Lâm đại sĩ, còn xưng là Hương Vân đại đầu đà. “Ông tinh cần tu 12 hạnh đầu đà (Thập nhị đầu đà) tự xưng là Hương Vân đại đầu đà, khai pháp độ tăng, đồ đệ đều rất đông”[16]. Mười hai hạnh đầu đà tức là 12 phạm hạnh dùng để đối trị thân tâm, đoạn trừ các phiền não cấu uế: 1. Ở nơi A lan nhã; 2. Thường đi khất thực; 3. Khất thực tuần tự, không phân biệt giàu nghèo; 4. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa; 5. Ăn uống có điều độ; 6. Sau buổi trưa không dùng các chất bổ dưỡng; 7. Mặc ý chắp vá; 8. Chỉ dùng có 3 y; 9. Ở những nơi nghĩa trang; 10. Nghỉ ngơi bên gốc cây; 11. Ngồi chỗ khoảng đất trống; 12. Chỉ ngồi chứ không nằm[17]. Tu luyện theo Thập nhị đầu đà như thế thì hẳn phải là người có nghị lực, nhẫn nại và sùng Phật cỡ nào.

Kể từ 1299, mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đời Đức vua Trần Nhân Tông – Phật hoàng, và cũng thời điểm bắt đầu cho cho sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – một dòng thiền mang bản sắc riêng của Đại Việt. Trần Nhân Tông trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền phái trúc Lâm.

Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Dưới triều Đinh, Tiền Lê, Phật giáo đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội Việt Nam. Triều Đinh – vương triều đầu tiên và tiếp theo là triều Tiền Lê và triều Lý đều lấy Phật giáo làm tôn giáo số một – Quốc giáo như nhiều nhà nghiên cứu đã viết, chức vụ quốc sư đều do tầng lớp sư tăng am hiểu học thuật sâu sắc đảm nhiệm, hình thành các cục diện: nhà vua cùng nhà sư lãnh đạo đất nước (Đế dữ tăng cộng thiên hạ).

Những dòng ghi chép trong Tam tổ thực lục đã hết lời ca ngợi Đức vua Phật Hoàng: “Điều Ngự thánh tánh sáng suốt, đa tài, hiếu học, đọc khắp sách vở, thông hiểu cả nội và ngoại điển. Lúc rảnh việc nước, vua mời các khách thiền đến giảng dạy tâm tông, lại tham vấn Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhờ thế đạt được cốt tủy của Thiền, nên thờ Tuệ Trung theo lẽ của bậc thầy”[18].

Để truyền bá Phật giáo trong nhân dân, bộ Kinh Đại Tạng đã được Thượng hoàng Trần Nhân Tông và vua Trần Anh Tông cho khắc in vào cuối thế kỷ XIII, góp phần quan trọng cho việc phát triển Phật học ở thế kỷ sau.

Trần Nhân Tông thường xuyên đi các địa phương giảng dạy Phật pháp. Sau vài năm, ông lại du lãm ra các vùng đất bên ngoài, đến trại Thị Chính (nay là Quảng Trạch của tỉnh Quảng Bình) lập am Tri Kiến để cư trú. Năm 1301, tiến hành hóa độ cho các nước láng giềng, phía Nam tới Chiêm Thành, đi khất thực ở trong thành. Quốc vương Champa biết tin đã kính cẩn thỉnh mời. Sau đó, khi Trần Nhân Tông về nước, Quốc vương tự thân đưa tiễn. ĐVSKTT chép: “Tháng 3 năm 1301, Thượng hoàng vân du các nơi, sang Chiêm Thành […]. Mùa đông, tháng 11, Thượng hoàng từ Chiêm Thành trở về”[19]. Trên vùng đất châu Ô, châu Lý tức châu Thuận, châu Hoá[20] mới được sáp nhập vào Đại Việt do vua Chế Mân dâng làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, Thiền phái Trúc Lâm cũng được hoằng hoá với sự xuất hiện nhiều chùa chiền, các thiền sư như “chùa Kính Thiên, chùa Kim Quang, chùa Khánh Từ, chùa Dã Độ, chùa Sùng Hoá, chùa Tư Khánh”[21]. Trong đó có chùa do Trần Nhân Tông – Đệ nhất tổ Trúc Lâm lập ra như am Tri Kiến (ở Quảng Bình ngày nay), chùa thành Hoá Châu (Thừa Thiên Huế ngày nay). Chùa ra đời không chỉ là nơi sinh hoạt tâm linh cho cư dân từ Bắc vào sinh sống trên vùng đất mới mà còn là công trình văn hoá khẳng định chủ quyền của dân tộc cùng với việc truyền bá văn hoá Đại Việt.

Năm Giáp Thìn -1304, Điều Ngự Trần Nhân Tông đi khắp các xóm làng, dạy dân chúng phá bỏ các dâm từ và thực hành thập thiện[22]. Mùa Đông cùng năm (1304), vua Trần Anh Tông dâng biểu mời Điều Ngự vào đại nội thọ tâm giới đại gia Bồ tát. Các vương công, bá quan sắm sanh lễ nghi đón tiếp Điều Ngự long trọng rồi cùng thọ giới pháp[23].

Đồ đệ của Điều Ngự, ngoài Pháp Loa còn có Bảo Sát, Bão Phác, Pháp Không, Pháp Cổ, Huệ Nghiệm, Pháp Tràng, Hương Tràng, Hương Sơn, Mật Tạng.

Sau khi giao chức phận trụ trì cho Pháp Loa vào ngày mồng Một Tết năm Mậu Thân-1308, tháng 4 năm đó, Đệ Nhất tổ Trần Nhân Tông vào núi Yên Tử, cho các tịnh nhân[24] và những người theo hầu trở về quê, chỉ giữ lại 10 người thân cận mà thôi. Đệ Nhất tổ ở am Tử Tiêu, tiếp tục giảng Truyền Đăng lục cho Pháp Loa. Rồi, lại cho 9 người thân cận xuống núi, chỉ còn một người là Bảo Sát ở lại. Từ đó, Đệ Nhất tổ đi dạo khắp núi non.

Khi nói đến tư tưởng Thiền của Trần Nhân Tông, hay Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định, đây là dòng Thiền thuần Việt thời bấy giờ. Đây chính là dòng Thiền mang tính chất và đặc điểm của người Việt Nam mà các thời trước hầu như không thấy. Nhưng dòng Thiền này không ngoài những tư tưởng chủ đạo của giáo lý Phật giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Bởi rằng dòng Thiền này có thể dành cho xuất gia và các tại gia tu tập[25].

Thiền phái Trúc Lâm về sau phát triển mạnh về tư tưởng Cư trần lạc đạo. Phật giáo không còn dành riêng cho một bộ phận nào của xã hội mà mọi người đều có thể tu học giáo lý giải thoát của Đức Phật, không phân biệt xuất gia hay tại gia, ai cũng có thể giải thoát, tùy theo mức độ tư chứng của mỗi con người. Trần Nhân Tông thường nói: “Con người thì có Nam có Bắc, còn Phật tánh không phân biệt Nam Bắc” ai cũng có thể bước lên địa vị của mình, tùy theo từng cấp bậc khác nhau về sự tu chứng.

Tháng 11 năm Mậu Thân-1308, Đệ Nhất tổ Trần Nhân Tông nhập diệt tại đỉnh Ngọa Vân, am Tử Tiêu, núi Yên Tử. Theo ghi chép của Tam tổ thực lục, khi nhập diệt, « Điều Ngự nằm theo thế sư tử, an nhiên viên tịch. Đến đêm thứ hai, Bảo Sát phụng di chúc hoả thiêu Điều Ngự ngay nơi am ấy. Khi thiêu, hương lạ bay xa, nhạc trời vang hư không, mây năm sắc phủ trên giàn hoả. Bốn hôm sau, Tôn giả Phổ Tuệ từ Yên Tử vội vã trở về, dùng nước thơm rưới lên hoả đàn. Khi làm lễ xong, Phổ Tuệ thu ngọc cốt, lượm được xá lợi (xá lỵ)[26] năm màu, cỡ lớn hơn 500 viên, cỡ nhỏ như hạt lúa, hạt cải, không kể đến »[27]. Tuy nhiên, trong ĐVSKTT chép là có ba ngàn hạt xá lỵ. “Pháp Loa thiêu [xác Thượng hoàng] được hơn ba ngàn hạt xá lỵ mang về chùa Tư Phúc ở kinh sư. Vua có ý ngờ. Các quan nhiều người xin bắt tội Pháp Loa. Hoàng thái tử Mạnh mới 9 tuổi, đứng hầu bên cạnh, chợt thấy có mấy hạt xá lỵ ở trước ngực, đưa ra cho mọi người xem, kiểm lại trong hộp, thì đã mất một số ít hạt. Vua xúc động đến phát khóc, trong lòng mới khỏi nghi ngờ”[28].

Vua Anh Tông rước ngọc cốt và xá lợi đưa về kinh thành. Hôm ấy, triều đình và nhân dân thương khóc vang động đất trời. Vua Anh Tông tôn hiệu là: “Đại Thánh Trần triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”[29]. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông có các tác phẩm sau: Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục, Hậu lục, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sựvà Thạch thất mỵ ngữ lục… các sách đến nay đã thất truyền, chỉ còn một số bài thơ được lưu lại trong Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục. Điều Ngự đã mở ba đàn giới : Tại chùa Chân Giáo trong Đại nội; Tại chùa Báo Ân ở hương Siêu Loại ; Tại chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường. Một vị vua anh hùng, một chân tu thiền đạt đến lục thông[30], một Điều Ngự Giác Hoàng thì chỉ có một Trần Nhân Tông mà thôi.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét về ông: “Nhân Tông trên thờ Từ Cung làm sáng đạo hiếu, dưới dùng người giỏi, lập nên võ công. Nếu không có tư chất nhân, minh, anh, võ, thì sao được như thế? Chỉ có một việc xuất gia là không hợp đạo trung dung, là cái lỗi của bậc hiền giả”[31].

  1. Các thế hệ của Thiền phái Trúc Lâm

Nhị tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương )

Pháp Loa sinh giờ Mão, ngày 17 tháng 5 năm Giáp Thân, niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 (1284) tại thôn Đồng Hoà, hương Cửu La, Nam Sách giang (nay thuộc phường Ái Quốc, Thành phố Hải Dương). Mẹ họ Vũ, cha họ Đồng. Tương truyền, bà Vũ Thị một đêm nằm mộng thấy dị nhân trao cho kiếm thần, bà ôm vào lòng rồi sau có thai. Trước đó, bà đã sinh tới 8 người con đều là gái nên khi có mang lần này, bà đã tìm thuốc uống để phá thai, nhưng uống đến 4 lần thai vẫn không ra. Nên khi sinh ra người con trai bà hết sức mừng rỡ, đặt tên là Kiên Cương (Đồng Kiên Cương).

Điều Ngự Trần Nhân Tông chính thức sai Pháp Loa nhận chức trụ trì nối dòng pháp, truyền thừa tổ vị tại chùa Báo Ân, hương Siêu Loại vào ngày mồng Một, tháng Giêng, năm Mậu Thân-1308. Tam tổ thực lục chép buổi lễ nối dòng pháp như sau: “Mở đầu buổi lễ truyền thừa tổ vị, Điều Ngự cho tấu đại nhạc, đốt danh hương, dẫn Sư (tức Pháp Loa) lễ Tổ Đường, rồi ra điểm tâm. Sau khi điểm tâm, Điều Ngự lại sai tấu nhạc, đánh trống pháp, tập họp đại chúng tại pháp đường. Lúc bấy giờ vua Anh Tông ngự giá đến chùa, vì vua là đại thí chủ của Phật pháp, nên khi phân ngôi chủ khách, vua đứng vào vị trí khách tại pháp đường, còn Thượng tể[32] thì hướng dẫn các quan đứng dưới sân. Điều Ngự lên tòa thuyết pháp, giảng xong, bước xuống đỡ Sư lên tòa, Điều Ngự đứng đối diện chắp tay thăm hỏi. Sư đáp lễ xong liền nhận pháp y mặc vào. Điều Ngự bèn bước sang một bên, ngồi trên giường khúc lục[33] nghe Sư thuyết pháp. Rồi đem chùa Siêu Loại[34] của Sơn môn Yên Tử giao cho Sư, bảo phải kế thế trụ trì, làm Tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm. Lại đem 100 hộp kinh sử ngoại điển và 20 hộp Đại Tạng cỡ nhỏ viết bằng máu trao cho Sư để mở mang học nội và ngoại điển”[35].

Duyên cớ để đưa Đồng Kiên Cương đến với Điều Ngự thật ngẫu nhiên và tình cờ. Đó là năm Giáp Thìn-1304, Đồng Kiên Cương 21 tuổi, nhân một lần Điều Ngự đi các địa phương vừa bố thí pháp dược để chữa trị cho người nghèo vừa để tìm người nối dòng pháp. Khi Điều Ngự đến sông Nam Sách thì Đồng Kiên Cương đang đi chơi xa bỗng nhiên thấy lòng phiền muộn nên quay về nhà liền gặp Điều Ngự. Điều Ngự vừa trông thấy chàng trai liền bảo: “Người này có đạo nhãn, sau này hẳn là bậc pháp khí”. Đồng Kiên Cương nhìn thấy Điều Ngự thì xin xuất gia. Điều Ngự vui vẻ nhận lời và đặt tên cho Đồng Kiên Cương là Thiện Lai. Sau đó, ông được Điều Ngự cho đến Thiền viện Quỳnh Lâm (Quỳnh Quán) học với Hòa thượng Tính Giác. Sau khi học xong, ông về gặp Điều Ngự và bắt đầu tu theo mười hai hạnh đầu đà như Trần Nhân Tông trước đây.

Năm Ất Tỵ -1305, Điều Ngự đích thân truyền giới Thanh Văn và Bồ Tát cho Đồng Kiên Cương tại liêu Kỳ Lân. Cũng tại thời điểm này, Đồng Kiên Cương đã được ban hiệu là Pháp Loa.

Năm Bính Ngọ -1306, Điều Ngự và Pháp Loa đến chùa Báo Ân. Tại đây, Điều Ngự đã cử Pháp Loa làm chủ giảng. Nghe giảng có sư Huyền Quang và Bão Phác. Nhìn thấy Huyền Quang, Điều Ngự đã bảo Huyền Quang làm thị giả cho mình.

Trong hoàng tộc, một số hoàng thái hậu và cung phi của vua khi xuất gia đã được Pháp Loa truyền giới như Tuyên Từ Hoàng Thái hậu và cung phi Thiên Trinh trưởng công chúa.

            Vừa được Điều Ngự truyền thừa Tổ vị, Nhị tổ Pháp Loa còn được vua Trần Anh Tông cấp cho độ điệp. Anh Tông đã sai Trung thư Thị lang Vương Công Trứ cấp độ điệp cho Pháp Loa để thường theo Tăng chúng mà không phải ràng buộc bởi luật thường. Sự kiện này cho thấy, phải ở tầm cỡ thế nào thì nhà sư mới được triều đình cấp cho độ điệp. Và, khi được cấp độ điệp của Nhà nước rồi thì nhà sư được đi khắp nơi trong nước để thuyết pháp và truyền giới. Quan điểm của vua Trần Anh Tông khi cấp độ điệp cho Pháp Loa được Tam tổ thực lục chép: ‘Trường tuyển Phật cần phải tinh tuyển, chỗ cầu Phật chẳng cầu bên ngoài”. Bởi vì, Sư là bậc nối dòng pháp chính thống chứ đâu phải như những tăng chúng khác mà còn phải câu nệ vào những quy định thông thường”[36].

            Như trên đã nêu, sau khi Điều Ngự nhập diệt, xá lỵ được tôn trí ở năm nơi[37] và việc rước xá lỵ đến năm nơi ấy đều được Nhị tổ Pháp Loa tiến hành.

            Pháp Loa còn được vua Trần Anh Tông giao cho khắc lại bản Đại Tạng Kinh vào năm Tân Hợi -1311.

Có thể thấy, trong thời gian trị vì của vua Trần Anh Tông, nhiều sự kiện liên quan đến chính sách đối với Phật giáo được ban hành trong thời gian trụ trì của Tổ thứ hai Pháp Loa. Ví dụ: Năm Canh Tuất -1310, vua Anh Tông ban chiếu cứ ba năm độ tăng một lần. Năm Tân Hợi – 1311, vua ra lệnh khắc lại bản Kinh Đại Tạng[38] (đến năm Tân Dậu hoàn thành, Pháp Loa là người viết lời bạt). Tháng 9 năm Quý Sửu – 1313, ban hành quy định các chức vụ của tăng sĩ trong nước và bổ nhiệm hơn 100 ngôi già lam. Chư tăng trong nước có sổ bộ từ đó. Và, quản các quan chức của tăng sĩ và các chùa đều được vua giao cho Pháp Loa. Một lần vua Anh Tông giao 50.000 quan cho Pháp Loa đi bố thí người nghèo trong nước.

Pháp Loa là người có nhiều công lao trong việc thuyết pháp, giảng kinh cũng như xây dựng, tu bổ chùa chiền, độ tăng và đúc nhiều tượng Phật. Pháp Loa thường giảng Thiền Lâm thiết chuỷ ngữ lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục và kinh Duy Ma, kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm. Trong lần giảng ở chùa Long Đàm, vua Anh Tông đến nghe pháp và nhân đó, phụng di chiếu của Điều Ngự lấy những vật liệu của Tam Bảo tại cung Thánh Từ để trùng tu chùa Báo Ân. Nhị tổ Pháp Loa từng độ cho hàng nghìn người làm tăng. Cứ ba năm một lần, mỗi lần khoảng dưới nghìn người[39]. Năm Nhâm Tuất -1322, ông xây dựng các am Hồ Thiên, Chân Lạc và đúc 1.000 pho tượng Phật. Việc đúc tượng đã được các thành viên trong hoàng tộc cũng như quan lại cao cấp trong triều đình tuỳ hỷ công đức[40]. Tháng 3 năm Đinh Mão -1327, Nhị tổ Pháp Loa đúc Đại tượng Di Lặc và Thánh tăng tại viện Quỳnh Lâm. Tháng 10 cùng năm sáng lập các am An Mã, Thị Khê và Hạc Lai. Tháng 7 năm Kỷ Tỵ -1329, ông mở thắng cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn. Nhị tổ Pháp Loa còn soạn sách Nhân vương hộ quốc nghi quỹ hướng dẫn việc tu thân và truyền giới cho nhiều người trong hoàng tộc nhà Trần.

Tháng 2 năm Đinh Tỵ- 1317, Pháp Loa bị bệnh nặng, thực hiện lời dặn của Điều Ngự đã đem y và tâm kệ của Điều Ngự truyền lại giao cho Lý Đạo Tái.

Năm Canh Ngọ -1330, Nhị tổ viên tịch, thọ 47 tuổi sau khi viết xong bài kệ: “Muôn duyên cắt đứt tấm thân nhàn; Hơn bốn mươi năm cõi mộng tàn; Giã biệt! Xin đừng theo hỏi nữa; Bên kia trăng gió mặc thênh thang”. Tác phẩm của ông có  Thiền đạo yếu học là tập hợp bài giảng, bài học đạo cho người xuất gia: Lời khuyên người xuất gia tiến tu đạo nghiệp; Bài thuyết pháp; Nói rộng ra ba sự học Thượng Thừa để khuyên chúng; Nói về những điều cốt yếu của Đại Thừa; Cần phải hiểu rõ cách học. Ông được vua Trần Minh Tông ban hiệu là Mãn Giác.

Huyền Quang (Lý Đạo Tái)- Tổ thứ ba.

Huyền Quang- Lý Đạo Tái (1254-1334) quê ở hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, nay là làng Vạn Tải, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cha là Lý Tuệ Tổ, mẹ họ Lê. Năm 1254 khi Lý Đạo Tái sinh ra đã xuất hiện điềm báo của một nhân tài, “có tia sáng mờ ảo, mùi hương thơm phức. Người ta gọi đó là đứa hài đồng có mùi hương thanh tịnh. Lê thị mang thai Tổ đến mười hai tháng mà bụng bà không chuyển động, bà nghi mắc bệnh nên uống nhiều thuốc phá thai mà thai không hư. Khi Tổ sinh ra lại là một đứa bé trai cứng cáp. Đến tuổi đồng ấu, thể mạo Tổ dị thường, có chí khí của bậc trác việt vĩ nhân, cha mẹ đều yêu thương, dạy cho học nghề. Tổ nghe một hiểu mười, có tài như Nhan Hồ Á Thánh, nên được gọi là Tải Đạo”[41]. Năm 28 tuổi đỗ trạng nguyên, khoa Giáp Tuất năm Bảo Phù thứ 5 (1274). Sau khi đỗ đạt, ông được triều đình cho vào làm việc ở viện Hàn Lâm, từng tiếp sứ nhà Nguyên. Với tài văn chương, ứng đối, Lý Đạo Tái nổi tiếng đương thời về học vấn và uyên bác.

Năm Ất Tỵ – 1305, Lý Đạo Tái dâng biểu xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Vua Anh Tông y cho. Lý Đạo Tái học đạo ở chùa Vũ Ninh, dưới sự chỉ dẫn của Bảo Phác, một học trò xuất sắc của Nhị tổ Pháp Loa. Năm Bính Ngọ – 1306, Điều Ngự Trần Nhân Nhân Tông trụ trì chùa Báo Ân tại Siêu Loại lập Pháp Loa làm chủ giảng, Lý Đạo Tái cùng sư Bảo Phác đến nghe giảng, được Điều Ngự chọn làm thị giả. Từ đó, Điều Ngự, Pháp Loa và Lý Đạo Tái du ngoạn khắp các chùa danh tiếng trong nước. Có lần Lý Đạo Tái được Điều Ngự cho ngồi trên pháp tòa làm bằng trầm hương của mình để giảng kinh. Sau đó ông được lập làm trụ trì chùa Vân Yên núi Yên Tử. Mến phục sức học quảng bác của ông, tăng ni theo về học đạo có đến khoảng 1.000 người. Chính trong thời gian này Lý Đạo Tái đã sáng tác bài phú Vịnh Vân Yên Tự. Điều Ngự còn sai soạn Kinh Chư Phẩm[42] và Thích Khoa giáo[43]. Sau khi soạn xong, Điều Ngự ngự phê vào Thích Khoa giáo: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang hiệu khảo thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa […]. Điều Ngự ban thưởng cho nhiều vàng bạc và sai thợ khắc in để truyền cho đời[44]. Năm 1309, sư Huyền Quang thực hiện di chúc của Điều Ngự theo học Pháp Loa. Sau 8 năm xuất gia, Huyền Quang trụ trì chùa Vân Yên – một trong những trung tâm tôn giáo lớn đương thời trên núi Yên Tử.

Năm Quý Sửu -1313, ngày Rằm tháng Giêng, Lý Đạo Tái về Kinh thăm vua rồi đến chùa Báo Ân giảng kinh. Buổi chiều, ông đang thiền trong tăng phòng, bỗng có đôi chim khách bay đến báo hiệu điềm vui. Ông nhớ đến ơn nặng của cha mẹ, ông bà nên dâng biểu xin phép về quê. Nhân đó, ông đã cho xây dựng một ngôi chùa ở phía tây nhà, đặt tên là chùa Đại Bi[45].

Tháng 2 năm Đinh Tỵ- 1317, Lý Đạo Tái  được Pháp Loa đem y và tâm kệ của Điều Ngự truyền lại giao cho và đặt pháp hiệu Huyền Quang. Và, Huyền Quang trở thành tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm.

Dưới thời Trần Hiến Tông, sư Huyền Quang bị nhà vua dùng kế mỹ nhân để thử dục vọng, nhưng không thành. Vua thấy hạnh pháp của sư cao siêu như vậy nên đến tạ lỗi. Sau, người con gái đó bị vua phạt làm nữ tỳ quét tước một ngôi chùa trong nội điện cung Cảnh Linh.

Sau vụ đó, sư Huyền Quang trở về núi Thanh Mai ở đó 6 năm. Rồi trụ trì Côn Sơn, đọc tụng kinh điển, lập ra đài Cửu phẩm liên hoa[46].

Ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất -1334, sư Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn. Thượng hoàng Minh Tông cúng 10 lạng vàng để xây tháp ở bên trái phía sau chùa. Cấp 150 mẫu ruộng ở nhiều nơi giao cho dân cày cấy lo việc kỵ giỗ Tổ. Ban cho tên thụy là: Trúc Lâm thiền sư đệ tam đại, đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả.

Các thế hệ sau Tam tổ

Thiền phái Trúc lâm với tam tổ như nêu trên, nhưng sau Đệ Tam tổ Huyền Quang thì không có ai nối tiếp. Mặc dù, trong sách Đại Nam thiền uyển kế đăng lược lục của Phúc Điền, được khắc in vào khoảng 1858 thì sau Tam tổ có: 1.An Tâm; 2.Tĩnh lự Phù Vân; 3.Vô Trước; 4.Viên Minh; 5.Đạo Huệ; 6.Viên Ngộ; 7.Tổng Trì; 8. Tam Tạng Khuê Thám; 9. Sơn Đằng; 10.Hương Sơn; 11.Trí Dung; 12.Tuệ Quang; 13.Chân Trú; 14.Vô Phiền. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác giả Hà Văn Tấn thì, tính chân xác của danh sách này thật đáng ngờ. Trật tự trước sau của các thế hệ ở đây xem ra không đáng tin cậy. Bởi danh sách này được chép một cách sơ lược, không ghi rõ thời đại của các nhà sư, nên ta có thể nghĩ rằng những thế hệ truyền thừa ở Yên Tử sau cả thời Trần[47].

Thời Lê sơ với chủ trương độc tôn Nho giáo nên Phật giáo vẫn tồn tại nhưng không được nhà nước khuyến khích phát triển, thậm chí còn kiềm tỏa Phật giáo. Phật giáo nói chung và Thiền phái Trúc Lâm nói riêng hầu như không còn được đề cập đến trong chính sách của triều đình Lê sơ. Tuy nhiên, ở làng quê, Phật giáo vẫn được nhân dân sùng bái. Thiền phái Trúc Lâm tiếp tục tồn tại, được nhân dân truyền bá cùng với phong tục, tín ngưỡng dân gian trong làng quê của mình.

Đến thế kỷ XVII, Thiền phái Trúc Lâm được phục hồi và phát triển. Mảnh đất nuôi dưỡng Trúc Lâm chính là Đàng Trong với vai trò của các chúa Nguyễn. Chính quyền của các chúa Nguyễn đã coi trọng, hộ trì Phật giáo. Công  cuộc truyền bá Thiền phái Trúc Lâm ở Đàng Trong gắn liền với vai trò của thiền sư Viên Cảnh – Lục Hồ, Viên Khoan – Đại Thâm, đặc biệt là vai trò của Thiền sư Minh Châu – Hương Hải (1628-1715).

Thiền sư Hương Hải tên tục là Tổ Cầu, quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc (nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), pháp tự là Như Nguyệt. Ông tổ 4 đời của thiền sư Hương Hải là Phó cai thợ đóng thuyền công và được phong Trung Lộc hầu. Vào khoảng niên hiệu Chính Trị (1558- 1571) đời Lê Anh Tông, cụ theo Nguyễn Hoàng vào Quảng Nam và được Nguyễn Hoàng rất tin dùng, cho thăng làm Chánh cai quản lãnh lính thợ. “Nguyễn Hoàng lại dâng biểu về triều (nhà Lê) tâu bày công lao của ông, được ban hiệu là Khởi nghĩa Kiệt tiết công thần, cấp cho 3 ngàn mẫu ruộng, cho con cháu được thế tập”[48]. Thiền sư Hương Hải sau khi đỗ thi Hương được tuyển bổ vào văn chức và giữ chức Tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị- Thừa Thiên Huế ngày nay) khi mới 18 tuổi. Thiền sư sớm mộ đạo Phật. Trong thời gian làm quan, ông đã học Phật pháp với thiền sư Viên Cảnh –Lục Hồ và Viên Khoan – Đại Thâm. Làm quan được 3 năm, ông xin từ quan, xuất gia thụ giới. Ông vượt biển đến núi Tiêm Bút La, cù lao Đại Lĩnh dựng 3 gian am nhỏ để ở và tu trì luật tam giới. Mảnh đất này hoang vắng, người ở thưa thớt. Trong quá trình tu luyện Thiền sư còn bị rắn quấn quanh người, không cử động được. Chuyện kể rằng, “có lần vào đêm khuya thanh vắng, Thiền sư được ngồi mặc niệm trước bàn thờ Phật, đèn nến sáng rực, chợt thấy bọn ma quỷ vừa trai vừa gái vây bọc bốn xung quanh, đứa cầm giáo, đứa cầm gậy, đứa dắt trâu, dắt ngựa, dắt voi, đủ mọi hiện tượng tai quái, lúc ấy thiền sư bị đau bụng, mắt lóa, không trông thấy nến sang nữa, thiền sư liền cố giữ vững chí khí kim cương, quyết định luyện cho tam muội hỏa bốc cháy để tiêu diệt tà ma, chỉ trong chớp nhoáng ma quỷ biến đi hết, đèn nến lại sáng sủa như thường”[49]. Thiền sư thấy chỗ này nhiều kẻ hung ác, khó giáo hóa được, nên trở về xã Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa. Nhưng sau đó, người man trên cù lao Đại Lĩnh ra mời sư quay trở lại vì thấy sư đủ cả đạo pháp và đức hạnh. Thiền sư lại cùng đệ tử vượt biển vào.Ở đâyhơn 8 năm (1659-1667), Thiền sư được nhân dân tin yêu, kính trọng.Một số quý tộcquan lại nghe danh Thiền sư đã mời đến thỉnh kinh chữa bệnh cho người nhà, rồi cả nhà đều quy y. “Thuần quân công, trấn thủ Quảng Nam, có vợ ốm đã lâu đã mời sơ tụng kinh, đọc thần chú 7 ngày đêm, bệnh khỏi, cả nhà đều quy y”[50]. Lần khác, ông chữa khỏi bệnh lao cho một người là Hoa Lễ hầu, giữ chức Tổng thái giám ở Quảng Nam, bị lao đã 3 năm. Thiền sư đã lập đàn tràng cúng trong 7 ngày, người đó khỏi bệnh. Quá cảm phục tài đức của Thiền sư, ông Hoa Lễ hầu vào Thuận Hóa khoe với Dũng Quốc công Nguyễn Phúc Tần[51]. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai người đón Thiền sư về và xây cho viện Thiền Tĩnh ở núi Quy Kính (Quy Cảnh), cửa biển Tư Dung cho Thiền sư ở. Sau, Quốc Thái phu nhân cùng 3 người con trai của Nguyễn Phúc Tần là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều quy y thụ giáo. Nhân chúng nghe danh Thiền sư, xin quy y thụ giáo đến hơn 1.300 người[52]. Tuy nhiên, cũng vì nổi danh đạo pháp mà ông bị vu oan. Nguyên là, trong một lần đánh vào Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Tần bắt được một người là Gia Quận công, giữ chức Thị nội giám, người xã Thụy Bái, huyện Gia Định nhưng đã được chúa tha tội và được chúa giao cho việc dạy bảo những người trong nội cung. Ông này rất thích nghe Thiền sư thuyết pháp, sau bị ghen ghét, họ báo lên chúa là Thiền sư đang âm mưu cùng Gia Quân công bỏ trốn. Nguyễn Phúc Tần nghi ngờ nhưng không tìm ra manh mối, song do cảnh giác cao độ nên đã điều Thiền sư về Quảng Nam, cách thành Thuận Hóa 3 ngày đường. Thiền sư vì lẽ đó mà chán nản, quyết bỏ ra Bắc. “Thiền sư bí mật chuẩn bị mấy chiếc thuyền cùng với 5.000[53] đồ đệ vượt biển ra Bắc”[54]. Đó là tháng 3 năm Nhâm Tuất – 1682

Có thể thấy, Thiền phái Trúc Lâm được hưng thịnh, phát triển mạnh từ thời chúa Nguyễn Hoàng cho đến chúa Nguyễn Phúc Tần, trong khoảng hơn gần 30 năm (1558-1682), mà đỉnh cao của sự phát triển đó là dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần. Những ghi chép về phái Thiền Trúc Lâm như xây chùa, ban cấp sắc phong, trọng đãi tăng sĩ ở Đàng Trong không nhiều nhưng có thể khẳng định, sơn môn của Thiền sư Hương Hải rất nổi danh. Trong thời gian 1660 – 1680, phái thiền Trúc Lâm phục hưng ở vùng Quảng Trị – Thuận Hoá với sự xuất hiện của các thiền sư Viên Cảnh, Viên Khoan và quan trọng nhất là thiền sư Minh Châu – Hương Hải[55]. Nhiều người trong Hoàng gia Chúa Nguyễn, một số triều thần đã qui y với thiền sư Minh Châu – Hương Hải. Thiền sư có ảnh hưởng lớn không chỉ trong nhân dân mà còn cả tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp.

Sau khi ra Bắc, Thiền sư được chúa Trịnh Căn sai người đi đón đưa về Kinh sư, cấp cho nhiều tiền, thóc đồng thời sai vẽ địa đồ về núi sông, đường sá hai xứ Quảng Nam và Thuận Hóa. “Nhà sư phân tích khúc chiết chỗ hiểm trở, chỗ bình dị, rất rõ ràng, được thưởng 20 quan tiền”[56]. Rồi, chúa cho ông dựng am mới ở Sơn Nam trên mảnh đất 3 mẫu. Ở đây, ông dựng đàn Chuẩn đề (tên riêng một vị Bồ tát) tu trì và chú giải các kinh Phật ra Quốc âm gồm 30 thiên. Năm canh Thìn -1700, Thiền sư được vua Lê Dụ Tông cho đón về Kinh sư, vào nội điện, lập đàn cầu tự, được nhà vua rất kính trọng. Năm Giáp Ngọ -1714, chúa Trịnh Cương đi tuần du, vào vãn cảnh chùa gọi là Nguyệt Đường, ban cho ngàn quan tiền cúng vào việc thờ Phật. Đệ tử trong chùa rất đông, ngoài vị Thượng tọa Viên Thông thiền sư còn có 70 người, đều là pháp tử, kế tiếp hương khói nhà chùa.

Ngày 12 tháng 5 năm Ất Mùi – 1715, Thiền sư sau khi tắm, mặc áo cà sa, đội mũ, đeo trang hạt, ngồi xếp bằng tròn mà hóa, hưởng thọ 88 tuổi.

Sau Thiền sư Hương Hải có Thiền sư Như Đức cũng là đệ tử của Thiền phái Trúc Lâm nhưng công tích ghi chép trong sách sử không nhiều nên không thể khảo cứu rõ.

  1. Nhận xét

Với sự ra đời của phái Trúc Lâm đã khẳng định sự độc lập, sáng tạo của tông phái Phật giáo ở Việt Nam. Đồng thời cũng thể hiện rõ con đường đi của Phật giáo ngày càng phát triển sâu rộng trong nhân dân, được nhân dân tôn sùng và tin theo.

Trúc Lâm Điều Ngự là người tiểu biểu cho việc xây dựng và củng cố một giáo hội Phật giáo thống nhất. Tu ở Yên Tử nhưng ông vẫn cùng Pháp Loa, Huyền Quang đi khắp các danh chùa trong nước như Phổ Minh ở Thiên Trường, Sùng Nghiêm ở Chí Linh, Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang, Báo Ân ở Bắc Ninh để giảng kinh cho các nhà sư đến học.

Tam tổ đều là những người tài giỏi, uyên thâm về học vấn và tu thiền đắc đạo.

Thiền phái Trúc Lâm được sự quan tâm, bảo trợ của Nhà nước, các cơ sở của Trúc Lâm có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô. Theo số liệu của tác giả Nguyễn Lang thì thời Trần, cả nước có khoảng 9.500 ngôi chùa[57]. Riêng phái Trúc Lâm với Yên Tử là trung tâm chính (chùa Hoa Yên) còn có các chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh), Côn Sơn (Tỉnh Hải Dương), Vĩnh Nghiêm (tỉnh Bắc Giang), Báo Ân (tỉnh Bắc Ninh) và nhiều ngôi chùa khác trên tuyến đường trung tâm từ Thăng Long đến Yên Tử. Có thể thấy, tuyến đường Thăng Long – Yên Tử không chỉ đơn thuần là đường giao thông quan trọng mà còn là tuyến Phật giáo chủ đạo của cả nước thời Trần. Trúc Lâm tam tổ cho xây khá nhiều chùa. Riêng Nhị tổ Pháp Loa đã cho xây khoảng 200 chùa, đúc hơn 1.300 pho tượng Phật bằng đồng lớn nhỏ. Chùa Quỳnh Lâm có đến hơn 1.000 mẫu ruộng và hơn 1.000 nô canh tác. Các chùa Báo Ân, Siêu Loại, Vĩnh nghiêm cũng có diện tích ruộng đất đáng kể. Điều cần nhấn mạnh là, đa số người cúng tiến ruộng đất, tiền của cho chùa là vua và các thành viên trong hoàng tộc cũng như quan lại cao cấp của nhà Trần.

Sau thời Trần, do hoàn cảnh lịch sử cũng như hệ tư tưởng Nho giáo chi phối nên Thiền phái Trúc Lâm không được duy trì. Tuy nhiên, ở Đàng Trong, dưới thời các chúa Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Tần, Thiền phái Trúc Lâm được hưng thịnh, gắn với vai trò quan trọng của Thiền sư Hương Hải. Thiền phái Trúc Lâm đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển Phật giáo Đàng Trong nói riêng, cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn nói chung. Nhưng tiếc rằng, chúa Nguyễn Phúc Tần đã không giữ được Thiền sư Hương Hải ở lại để tiếp tục duy trì phái Thiền này. Sự trở ra Bắc của Thiền sư Hương Hải đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ phát triển của Thiền phái Trúc Lâm ở Đàng Trong. Các nhà sư phái Trúc Lâm còn lại phải ẩn cư hoặc chuyển sang phái khác do không được chúa trọng dụng.

[2] Hai cung: Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông.

[3]Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr.44.

[4]Tam tổ thực lục, Thích Phước Sơn dịch và chú giải, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1995, tr.17.

[5]Tam tổ thực lục (1995), Thích Phước Sơn dịch và chú giải, sđd, tr.18.

[6] Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. TP Hồ Chí Minh, tr.36.

[7]Tam tổ thực lục (1995), sđd, tr.18; Lê Mạnh Thát, Thánh Đăng ngữ lục, Tu viện Vạn Hạnh, 1980.

[8] ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr.

[9]ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr. 40.

[10]Tam tổ thực lục (1995), sđd, tr.18.

[11] Theo Thánh Đăng ngữ lục, trong Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, sđd, tr.38.

[12] Theo Thánh Đăng ngữ lục, trong Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, sđd, tr.39.

[13]ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr. 43.

[14]ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr. 44.

[15]ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr. 73.

[16]Phương Hoài Mẫn,Tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông-Người khai sáng Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Phật học (1994 – Tiếng Trung. Bản dịch tiếng Việt của TS. Nguyễn Hữu Tâm), tr.2.   ĐVSKTT (1993) chép: “Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long năm thứ 7 (1299). Tháng 8, Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”.

[17]Tam tổ thực lục, sđd, tr.91,

[18]Tam tổ thực lục (1995), sđd, tr.19.

[19] ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr. 86,

[20]Châu Thuận, châu Hoá nay là vùng đất Nam Quảng Trị đến Bắc Thừa Thiên Huế.

[21]Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm (2006), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb. Văn học Sài Gòn, tr.63.

[22]Thập thiện: Mười điều thiện: 1. Không sát sinh; 2.Không trộm cắp; 3.Không tà dâm; 4. Không nói dối; 5. Không nói lời ly gián; 6. Không nói lời ác; 7. Không nói lời tạp uế; 8. Không tham lam; 9. Không giận dữ; 10.Không tà kiến.

[23]Tam tổ thực lục (1995), sđd, tr.20.

[24]Tịnh nhân: Chỉ những người vào ở trong chùa, sống theo nếp sống của người xuất gia, mặc dù trên danh nghĩa là cư sĩ tại gia.

[25]Nguyễn Văn Phụng (2003), Tư tưởng Thiền Trúc Lâm của Trần Nhân Tông, trong Đại học Huế – Trường Đại học Khoa học: Kỷ yếu Hội thảo kho học Quốc gia: Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông  (1258 – 1308), Huế 12 – 2003, tr. 198.

[26]Xá lỵ: phiên âm tiếng Phạn sarira, nghĩa là thân thể, thuật ngữ Phật giáo, chỉ những phần xương cốt còn lại sau khi thiêu xác, thường là những hạt nhỏ, được gọi là xá lỵ.

[27]Tam tổ thực lục, sđd, tr.33.

[28]ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr.92.

[29]Có tác giả cho rằng, Trần Nhân Tông lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng hay Trúc Lâm đại đầu đà. Thực ra, Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Phật là do vua Anh Tông tôn hiệu sau khi ông viên tịch. Xin xem: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hùng, Tư tưởng Thiền Trúc Lâm của Trần Nhân Tông qua hai tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú” và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”, trong KYHT: Phật giáo Trúc Lâm hội tụ và lan tỏa, Quảng Ninh, 12/2015.

[30]Lục thông: Chí sáu năng lực siêu việt thế gian, tự do vô ngại: Thần túc thông: Tự do vô ngại tùy theo ý muốn có thể hiện thân bất cứ nơi nào; 2. Thiên nhãn thân: Thấy được mọi sự sinh tử khổ vui của chúng sinh; 3. Thiên nhĩ thông: Nghe được mọi tiếng nói khổ vui, mừng sợ của chúng sinh; 4. Tha tâm thông: Biết được tâm tư của mọi chúng sinh; 5. Túc Mạng thông: Biết được các đời sống quá khứ của mình và tất cả chúng sinh; 6.Lậu tận thông: Đã đoạn tận tất cả phiền não lậu hoặc.

[31]ĐVSKTT (1993), tập II, sđd, tr.93.

[32]Tức Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn.

[33]Khúc lục sàng: Tức ghế mây dùng trong thiền viện.

[34]Tức chùa Báo Ân ở Siêu Loại.

[35]Tam tổ thực lục, sđd, tr.40-41.

[36]Tam tổ thực lục, sđd, tr.41.

[37] Lần thứ nhất là rước về  an trí tại chùa Tư Phúc trong Đại Nội (tháng 11 năm Mậu Mậu Thân -1308). Lần thứ hai, rước từ Đại Nội tôn trí vào lăng ở phủ Long Hưng (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay) vào tháng 9 năm Kỷ Dậu -1309. Lần thứ ba là rước từ chùa Tư Phúc trong Đại Nội tôn trí tại chùa Phổ Từ ở phủ Long Hưng vào tháng 7 năm Canh Tuất -1310. Lần thứ tư vào ngày 22 tháng 2 năm Bính Dần – 1326, Pháp Loa đến chùa Hoa Vân núi Yên Tử, tôn trí xá lỵ của Điều ngự vào Kim tháp Tuệ Quang. Lần thứ năm vào tháng 11 năm Kỷ Tỵ -1329, làm lễ điểm nhãn tượng Phật Di Lặc và lấy một phần xá lỵ của Điều Ngự tại tháp Thắng Tư Thiên đem cất vào tháp đá tại Viện Quỳnh Lâm (Xem Tam tổ thực lục, tr. 41; 52; 54. Trong một số nghiên cứu cho rằng xá lợi của Điều Ngự tôn trí ở ba nơi)

[38]Kinh Đại Tạng này, trước đây đã được vua Trần Anh Tông và các thái hậu, cung tần chích máu viết hơn 5.000 quyển.

[39]Tam tổ thực lục, sđd, tr.44.

[40] Có thể kể đến: Bảo Từ Hoàng Thái hậu, Bảo Huệ quốc mẫu, Bảo Vân công chúa, Tư đồ Văn Huệ vương, Uy Huệ vương, Đới Vương quan, Thượng vị Hưng Uy hầu, Thượng phẩm Hoài Ninh hầu Trịnh Trọng Tử, Hữu bật Đoàn Nhữ Hài, Thượng phẩm Đại liêu ban Trịnh Thành v.v.

[41]Tam tổ thực lục (1995), sđd, tr.80.

[42]Chư Phẩm Kinh: Tuyển tập những phẩm kinh thiết yếu và thực dụng.

[43]Thích khoa giáo: Tập sách giáo khoa về đạo Phật.

[44]Tam tổ thực lục (1995), sđd, tr.81.

[45]Lấy từ ý câu: “Đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ tát cứu độ cha mẹ quay về đạo Phật”

[46]Ngày 12/2/2017, Ban Quản lý Di tích Côn Sơn –Kiếp Bạc đã tổ chức Lễ khánh thành tháp Cửu phẩm liên hoa. tháp Cửu phẩm liên hoa cao 10,3m với 9 tầng, mỗi tầng chạm 3 lớp cánh sen.Ở tần 1 có 8 đầu rồng đúc bằng đồng ở 8 cạnh làm tay vị quay cây phẩm. Từ tầng 2 đến 9, các cạnh là cột chạm đốt trúc đỡ các đài sen. Tầng 9 có trang trí 8 đầu rồng uốn lượn quay ra 4 phía. Trên cùng là Đức Phật A Di Đà tọa thiền trên đài sen, phía trên Đức Phật là bông sen lớn sơn son thếp vàng gắn trên đỉnh nhà Phẩm rủ xuống như lọng vàng.

[47]Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1988), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.209-210.

[48]Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.402.

[49]Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, sđd, tr.403.

[50]Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, sđd, tr.404.

[51]Tức chúa Hiền (1649 – 1687), chúa thứ tư của nhà Nguyễn, sau Gia Long truy tôn là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế.

[52] Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, sđd, tr.404.

[53] Con số 5.000 người này là quá nhiều, vì chỉ có mấy cái thuyền thì làm sao chở được 5.000 người, có lẽ in nhầm chăng, có sách viết là 50 người. Xin xem: Nguyễn Hiền Đức (1995), Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tập I, Nxb. TP, Hồ Chí Minh.

[54] Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, sđd, tr.404-405.

[55] Nguyễn Hiền Đức (1995), Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, tập I, sđd, tr.12.

[56]Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, sđd, tr.405.

[57]Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, tr.453.

Từ khóa » Tổ Sư Trần Nhân Tông