TRÍ NHỚ, CÁC QUÁ TRÌNH CƠ BẢN CỦA TRÍ NHỚ, THỰC HÀNH ...
Có thể bạn quan tâm
Chương VI. TRÍ NHỚ
Tâm lí có một đặc điểm quan trọng là: sự phản ánh thế giới bên ngoài thường xuyên được sử dụng trong hành vi sau đó của cá thể – đó chính là tính tích cực của sự phản ánh tâm lí. Sự phức tạp dần lên của hành vi được thực hiện nhờ sự tích luỹ kinh nghiệm của cá thể. Sự hình thành kinh nghiệm sẽ không thể có được nếu như hình ảnh về thế giới bên ngoài, nảy sinh trên vỏ não, bị mất đi không để lại dấu vết nào. Trong thực tế những hình ảnh đó có liên hệ qua lại với nhau, chúng được củng cố, giữ gìn và hiện lại khi có sự đòi hỏi của cuộc sống và hoạt động. Quá trình giữ gìn và sử dụng những kinh nghiệm như thế gọi là trí nhớ (hay kí ức).
6.1. KHÁI NIỆM VỀ TRÍ NHỚ
6.1.1. Định nghĩa
Trí nhớ là một quá trình tâm lí phản ánh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ trước đây.
Trí nhớ có vai trò rất to lớn trong đời sống còn người: không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không có bất cứ hoạt động nào, cũng như không thể hình thành được nhân cách. Vì vậy, M. Xêchênôp đã viết một cách dí dỏm và rất đúng rằng: nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở trong tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh!
Như đã nói, trí nhớ của con người phản ánh kinh nghiệm thuộc mọi lĩnh vực: nhận thức cảm xúc và hành vi. Vì vậy, trí nhớ là một đặc trưng quan trọng nhất, có tính quyết định của đời sống tâm lí con người, của nhân cách của họ. Nó bảo đảm cho sự thống nhất và toàn vẹn của nhân cách con người.
- những người bệnh bị hỏng trí nhớ, ta thấy cuộc sống hàng ngày của họ rối loạn, không bình thường: họ không nhớ tên tuổi của bản thân mình, không biết mình đang từ đầu, đang làm gì…Những sự kiện đó nói lên rằng, nếu không có kinh nghiệm đã trải qua thì đời sống của con người sẽ trở nên rối loạn, con người không còn là một nhân cách nữa.
Ngày nay người ta xem trí nhớ không phải chỉ nằm trong giới han của hoạt động nhận thức mà nó còn là một thành phần tạo nên nhân cách mỗi người, vì đặc trưng tâm lí của nhân cách mỗi người được hình thành trên cơ sở những kinh nghiệm cá thể về mọi mặt của họ, mà kinh nghiệm đó lại do trí nhớ đem lại.
Việc rèn luyện, phát triển trí nhớ cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cả công tác giáo dục lẫn công tác đức dục trong nhà trường. Vì vậy, V.I.Lênin đã viết: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết của những kho tàng tri thức mà nhân loại tạo ra”
6.1.2. Đặc điểm của trí nhớ
Nếu như cảm giác và tri giác chỉ phản ánh các sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan trong hiện tại, khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan ta, còn tư duy và tưởng tượng lại phản ánh cái mới, cái tương lai, thì trí nhớ phản ánh các sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Nói cách khác, trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người. Kinh nghiệm này có thể là những hình ảnh cụ thể (trí nhớ hình ảnh), có thể là những hành động nào đó (trí nhớ vận động), có thể là những rung động, trải nghiệm, xúc cảm (trí nhớ cảm xúc), cũng có thể là những ý nghĩ, tư tường (trí nhớ từ ngữ – lôgic).
Cấu tạo tâm lí (hay sản phẩm) được tạo ra trong quá trình trí nhớ là những biểu tượng. Vậy biểu tượng của trí nhớ có gì khác với hình tượng của cảm giác, tri giác và với biểu tượng của tưởng tượng?
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong óc chúng ta khi không có sự tác động trực tiếp của chúng vào giác quan ta.
Biểu tượng của trí nhớ chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hoá các hình tượng của tri giác trước đây. Không có tri giác thì không thể có biểu tượng được. Bằng chứng là; Những người bị mù từ lúc mới sinh không hề có các biểu tượng về màu sắc, cảnh đẹp…; những người bị điếc từ lúc lọt lòng đều không có biểu tượng về âm thanh.
Biểu tượng của trí nhớ khác với hình ảnh (hay hình tượng) của tri giác ở chỗ: biểu tượng phản ánh sự vật một cách khái quát hơn. Nó phản ánh những dấu hiệu đặc trưng, trực quan của sự vật và hiện tượng. Như vậy, biểu tượng của trí nhớ vừa mang tính chất trực quan vừa mang tính chất khái quát. Nó giống hình ảnh của cảm giác và tri giác ở tính trực quan, nhưng nó cao hơn ở tính khái quát. Vì vậy, ở góc độ hoạt động nhận thức, trí nhớ thường được xem là giai đoạn chuyển tiếp từ cảm tính lên lí tính.
Tuy vậy, so với biểu tượng của tưởng tượng, thì biểu tượng của trí nhớ không khái quát bằng, vì biểu tượng của tưởng tượng là “biểu tượng của biểu tượng”.
6.2. CÁC QUÁ TRÌNH CƠ BẢN CỦA TRÍ NHỚ
Trí nhớ của con người là một hoạt động tích cực, phức tạp bao gồm nhiều quá trình khác nhau và có quan hệ qua lại với nhau: ghi nhớ, giữ gìn, nhận lại, nhớ lại và quên. Chúng không phải là các quá trình tự trị, những năng lực tâm lí tự trị, mà được hình thành trong hoạt động và do hoạt công quy định.
6.2.1. Quá trình ghi nhớ
Đây là giai đoạn đầu tiên của một hoạt động trí nhớ cụ thể nào đó. Ghi nhớ là quá trình hình thành dấu vết, “ấn tượng của đối tượng mà ta đang tri giác (tức là tài liệu phải ghi nhớ) trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình hình thành mối liên hệ giữa tài liệu mới với tài liệu cũ đã có, cũng như mối liên hệ giữa các bộ phận của bản thân tài liệu mới với nhau. Điều này làm cho ghi nhớ khác với tri giác, mặc dầu ghi nhớ khởi đầu đồng thời với quá trình tri giác tài liệu. Có nhiều loại ghi nhớ khác nhau.
6.2.1.1. Ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định
- Ghi nhớ không chủ định là loại ghi nhớ được thực hiện mà không cần phải đặt ra mục đích ghi nhớ từ trước, không đòi hỏi một sự nỗ lực ý chí nào, mà dường như được thực hiện một cách tự nhiên. Nhưng không phải mọi sự kiện, hiện tượng đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Trước hết, độ bền và độ lâu dài của ghi nhớ không chủ định phụ thuộc vào màu sắc, sự di động và những đặc điểm khác của đối tượng.
Ghi nhớ không chủ định đặc biệt có hiệu quả khi nó được gắn với những cảm xúc rõ ràng và mạnh mẽ. Hứng thú có vai trò to lớn đối với ghi nhớ không chủ định.
Ghi nhớ không chủ định có ý nghĩa to lớn trong đời sống, nó mở rộng và làm phong phú kinh nghiệm sống của con người mà không đòi hỏi một sự nỗ lực đặc biệt nào.
Các công trình nghiên cứu về tâm lí học sư phạm đã chỉ ra rằng: Việc đặt ra nhiệm vụ phải ghi nhớ tài liệu học tập một cách quá sớm thường làm ảnh hưởng xấu đến sự thông hiểu tài liệu. Trong trường hợp này nhiệm vụ cơ bản của học sinh là suy nghĩ về tài liệu mới, còn việc ghi nhớ tài liệu mới đó diễn ra một cách không chủ định, trong chính quá trình suy nghĩ. Cái gì có liên quan tới mục đích của hoạt động, tới nội dung cơ bản của hoạt động thì sẽ được ghi nhớ một cách không chủ định.
- Ghi nhớ có chủ định là loại ghi nhớ theo một mục đích đã định từ trước nó đòi hỏi một sự nỗ lực ý chí nhất định, cũng như những thủ thuật và phương pháp ghi nhớ xác định. Hoạt động học tập của học sinh và giảng dạy của giáo viên chủ yếu được dựa trên loại ghi nhớ có chủ định.
6.2.1.2. Ghi nhớ máy móc và ghi nhớ có ý nghĩa
Ghi nhớ có chủ định được thực hiện bằng hai phương pháp: máy móc và có ý nghĩa
- Ghi nhớ máy móc là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại tài liệu nhiều lần một cách giản đơn. Sự học vẹt là một biểu hiện điển hình của loại ghi nhớ này.
Nói chung, học sinh ghi nhớ máy móc trong các trường hợp sau:
1/ Không thể hiểu hoặc lười không chịu tìm hiểu ý nghĩa của tài liệu.
2/ Các phần của tài liệu rời rạc không có quan hệ lôgic với nhau.
3/ Giáo viên thường xuyên yêu cầu trả lời đúng từng chữ trong sách giáo khoa.
Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự lĩnh hội tri thức một cách hình thức và tốn nhiều thời gian. Tuy vậy, ghi nhớ máy móc trở nên hữu ích trong trường hợp ta phải ghi nhớ những tài liệu không có nội dung khái quát, ví dụ như số điện thoại, số tài khoản ngân hàng, ngày tháng năm sinh v.v…
- Ghi nhớ có ý nghĩa là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài liệu trên sự nhận thức được những mối liên hệ lôgic giữa các bộ phận của tài liệu đó Loại ghi nhớ này gắn liền với quá trình tư duy. Một hình thức điển hình của loại ghi nhớ này trong hoạt động học tập là phương pháp ghi nhớ theo điểm tựa. Ghi nhớ có ý nghĩa là loại ghi nhớ chủ yếu trong học tập của học sinh, nó bảo đảm sự lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc, bền vững và nếu quên thì cũng dễ nhớ lại hơn. Nó tốn ít thời gian hơn so với ghi nhớ máy móc, nhưng lại tiêu hao năng lượng thần kinh nhiều hơn.
6.2.1.3. Học thuộc lòng và thuật nhớ
* Có nhiều trường hợp ta phải học thuộc tòng một tài liệu nào đó. Ví dụ, học thuộc lòng các định nghĩa, định luật,
các bài khoá, các từ tiếng nước ngoài, hay giáo án v.v.,.Học thuộc lòng là sự kết hợp ghi nhớ có ý nghĩa với ghi nhớ máy móc, nghĩa là ghi nhớ máy móc trên cơ sở thông hiểu tài liệu ghi nhớ. Nó hoàn toàn khác với học vẹt.
- Thuật nhớ là sự ghi nhớ có chủ định bằng cách tự tạo ra những mối liên hệ bề ngoài, giả tạo để nhớ. Ví dụ, đặt các từ cần nhớ thành một câu có vần điệu để dễ nhớ (ví dụ, để nhớ 6 cách của tiếng Nga, người ta lấy cái đuôi của 6 cách tạo thành một câu văn vần: “cá thu tôm he”. “À như thế đủ rồi nhé”).
6.2.2. Quá trình gìn giữ
Gìn giữ là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã hình thành được trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Có hai hình thức gìn giữ: tiêu lực và tính cực. Gìn giữ tiêu cực là sự gìn giữ được dựa trên sư tri giác và tri giác lại nhiều lần đối với tài liệu một cách đơn giản. Còn gìn giữ tích tức là sự gìn giữ được thực hiện bằng cách nhớ lại (tái hiện) trong óc tài liệu đã ghi nhớ, mà không phải tri giác lại tài liệu đó. Trong hoạt động học tập của học sinh, quá trình gìn giữ được gọi là ôn tập. Kinh nghiệm “đi truy, về trao” của học sinh chính là một cách ôn tập tích cực. Ta sẽ trở lại vấn đề phương pháp ôn tập ở phần dưới đây.
6.2.3. Quá trình nhận lại và nhớ lại
Kết quả của quá trình ghi nhớ và gìn giữ được thể hiện trong quá trình nhận lại và nhớ lại. Nhận lại là sự nhớ lại một đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó. Nhận lại diễn ra là do cái được tri giác trong lúc này giống với cái đã được tri giác trước đây. Khi tri giác lại cái đã được tri giác trước đây, ở ta sẽ xuất hiện một cảm giác “quen thuộc” đặc biệt, chính cảm giác này là cơ sở của sự nhận lại. Nhớ lại (tái hiện) khác với nhận lại ở chỗ: các hình ảnh đã được củng cố trong trí nhớ được làm sống lại mà không còn dựa vào sự tri giác lại những đối tượng đã gây nên các hình ảnh đó.
Nhận lại và nhớ lại đều có thể là có chủ định hoặc không chủ định.
Khi sự nhớ lại có chủ định đòi hỏi phải có sự khắc phục những khó khăn nhất định, phải có sự nỗ lực ý chí thì gọi là sự hồi tưởng. Khi sự nhớ lại các hình ảnh cũ được khu trú trong những không gian và thời gian nhất định thì gọi là hồi ức. Trong hồi ức, chúng ta không chỉ nhớ lại các đối tượng đã qua, mà còn đặt chúng vào một thời gian và địa điểm nhất định.
6.2.4. Sự quên
Như trên đã nói, sự ghi nhớ và gìn giữ đem lại những kết quả khác nhau, nói cách khác, trí nhớ có nhiều mức độ.
Có ba mức độ chính của trí nhớ là:
6.2.4.1. Trí nhớ tái hiện
là mức độ trí nhớ cao nhất, thể hiện ở khả năng nhớ lại (tái hiện) đối tượng ghi nhớ mà không cần tri giác lại nó. Ví dụ, học xong một bài khoá tiếng Anh, ta tự nhớ lại được các từ và nghĩa của chúng.
6.2.4.2. Trí nhớ tái nhận
là mức độ thấp hơn của trí nhớ, thể hiện ở chỗ không nhớ lại được mà chỉ nhận lại được thôi, nghĩa là phải tri giác lại tài liệu. Ví dụ, tự nhớ lại một từ tiếng Anh nào đó thì không nhớ được, nhưng nhìn vào sách thì lại nhận ra được từ đó.
6.2.4.3. Trí nhớ khai thông
là mức độ thấp nhất của trí nhớ, thể hiện ở sự không nhớ lại được, cũng không nhận lại được, nhưng khi học lại từ đầu thì lại nhớ chóng hơn so với lần học đầu tiên.
Thực tế, giữa các mức độ trên còn có những mức độ trung gian. Ví dụ, có những người rất thuộc các từ và nghĩa của chúng trong một thứ tiếng nước ngoài nào đó, nhưng không giao tiếp được, hoặc có những người chỉ nhận lại được một từ nào đó trong một văn bản nhất định mà thôi.
Như vậy, không phải dấu vết, ấn tượng nào trong não chúng ta cũng đều được gìn giữ và làm sống lại một cách như nhau, nghĩa là trong trí nhớ của chúng ta lại có hiện tượng quên.
Sự quên cũng có nhiều mức độ: quên hoàn toàn (không nhớ lại, không nhận lại được) quên cục bộ (không nhớ lại được, nhưng nhận lại được). Nhưng ngày cả sự quên hoàn toàn cũng không có ý nghĩa là các dấu vết ghi nhớ được bị mất hoàn toàn, không để lại vết tích nào. Phát hiện của Pen– phin (Penfĩeld) đã cho thấy rằng: Không có sự quên hoàn toàn tuyệt đối; dù ta không bao giờ nhận lại và nhớ lại được một điều gì đó đã gặp trước đây, thì nó vẫn còn để lại dấu vết nhất định trên vỏ não của chúng ta. Chỉ có điều là ta không làm cho nó sống lại được khi cần thiết mà thôi.
Ngoài những trường hợp quên “vĩnh viễn” còn có trường hợp quên “tạm thời” nghĩa là trong một thời gian dài không thể nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó đột nhiên nhớ lại được. Đó là hiện tượng sực nhớ.
Sự quên cũng diễn ra theo những quy luật nhất định:
– Người ta thường quên những cái gì không liên quan đến đời sống hoặc ít liên quan, những cái gì không phù hợp với hứng thú, sở thích, nhu cầu của cá nhân.
– Những cái gì không được sử dụng thường xuyên trong hoạt động hằng ngày của cá nhân thì cũng dễ bị quên.
– Người ta cũng hay quên khi gặp những kích thích mới lạ hay những kích thích mạnh.
– Sự quên diễn ra theo một trình tự xác định: quên cái tiểu tiết, vụn vặt trước; quên cái đại thể, chính yếu sau.
– Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều: ở giai đoạn đầu tốc độ quên khá lớn, về sau tốc độ quên càng giảm dần (quy luật Êbingao).
– Về nguyên tắc, quên là một hiện tượng hợp lí, hữu ích.
Ngày nay, khoa học đã chứng minh rằng: quên hoàn toàn không phải là dấu hiệu của một trí nhớ kém hoặc là nguyên nhân gây nên hiệu quả thấp của trí nhớ, mà ngược lại, đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất của một trí nhớ hoạt động tốt, là một cơ chế tất yếu trong hoạt động đúng đắn của trí nhớ.
6.2.5. Các loại trí nhớ
Như phần trên đã nói, trí nhớ gắn liền với toàn bộ cuộc sống và hoạt động của con người. Hoạt động của con người rất phong phú và đa dạng, do đó trí nhớ của con người cũng có nhiều dạng, nhiều loại. Người ta phân loại trí nhớ theo các tiêu chuẩn sau:
a/ Nguồn gốc hình thành
b/ Nội dung được phản ánh trong trí nhớ
c/ Tính mục đích của trí nhớ
d/ Thời gian củng cố và gìn giữ tài liệu
e/ Giác quan chủ đạo trong trí nhớ
Theo các tiêu chuẩn đó, có các loại trí nhớ sau đây:
6.2.5.1. Trí nhớ giống loài và trí nhớ cá thể
Trí nhớ giống loài là loại trí nhớ được hình thành trong quá trình phát sinh chủng loại, mang tính chất chung cho cả giống loài và được biểu hiện dưới những hình thức bản năng, những phản xạ không điều kiện. Còn trí nhớ cá thể là loại trí nhớ được hình thành trong đời sống của cá thể, không mang tính chất giống loài, mà mang tính cá thể. Ở động vật loại trí nhớ này được biểu hiện ở những kĩ xảo, những phản xạ có điều kiện. Ở con người, trí nhớ cá thể được biểu hiện ở kho tàng kinh nghiệm cá nhân phong phú của mỗi chúng ta.
6.2.5.2. Trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ từ ngữ – lôgic
a/ Trí nhớ vận động: Loại trí nhớ này phản ánh những cử động và những hệ thống cử động. Ý nghĩa to lớn của nó là ở chỗ: nó là cơ sở để hình thành các kĩ xảo thực hành và lao động khác nhau: đi đứng, viết vẽ v.v… Sự “khéo chân, khéo tay”, những “bàn tay vàng”… là những biểu hiện của một trí nhớ vận động tốt.
b/ Trí nhớ cảm xúc: Loại trí nhớ phản ánh những rung cảm, trải nghiệm của con người. Những rung cảm, trải nghiệm được giữ lại trong trí nhớ bộc lộ như là những tín hiệu kích thích hành động, hoặc kìm hãm hành động mà trước đây đã gây nên những rung cảm dương tính hoặc âm tính. Khả năng đồng cảm với người khác, với các nhân vật trong sách… đều dựa trên cơ sở của trí nhớ cảm xúc.
c/ Trí nhớ hình ảnh: Đó là loại trí nhớ phản ánh những hình ảnh, biểu tượng thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác của các sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây. Loại này đặc biệt phát triển ở những người làm nghề nghệ thuật. Một số người có trí nhớ tri giác – loại trí nhớ mà biểu tượng của nó nảy sinh trong óc một cách rất sống động, tựa như sự vật, hiện tượng đang có ở trước mặt, như ta “nhìn thấy” những sự vật không có trước mặt. “nghe thấy” những âm thanh không có trong hiện tại.
d/ Trí nhớ từ ngữ – lôgic: Loại trí nhớ này phản ánh những ý nghĩ, tư tưởng của con người. Ý nghĩ, tư tướng không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được, vì thế gọi là loại trí nhớ từ ngữ – lôgic. Hệ thống tín hiệu thứ hai giữ vai trò chính trong loại trí nhớ này. Đây là loại trí nhớ chủ đạo ở con người, giữ vai trò chính trong việc lĩnh hội tri thức ở học sinh.
6.2.5.3. Trí nhớ có chủ định và trí nhớ không chủ định
Trí nhớ có chủ định là loại trí nhớ diễn ra theo những mục đích xác định. Trí nhớ không chủ định là loại trí nhớ được diễn ra không theo những mục đích được định trước. Cả hai loại trí nhớ này đều cần thiết cho con người, chúng đều có những ưu điểm và nhược điểm của mình.
6.2.5.4. Trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn
Muốn cho một tài liệu nào đó được củng cố trong trí nhớ, thì nó phải được chủ thể chế biến một cách thích hợp. Việc chế biến này đòi hỏi một thời gian nhất định, gọi là thời gian củng cố (gắn chặt) các dấu vết. Nếu thời gian này ngắn ngủi, chốc lát do đó dấu vết cũng được giữ lại trong một thời gian ngắn ngủi, thì gọi là trí nhớ ngắn hạn. Loại trí nhớ này được sử dụng trong trường hợp phải thực hiện những hành động hay thao tác cấp bách, nhất thời và khi hành động hay thao tác được thực hiện thì trí nhớ trở nên không cần thiết nữa. Nếu thời gian củng cố dấu vết được kéo dài, sau nhiều lần lặp lại và tái hiện nó, và do đó dấu vết được gìn giữ lâu dài, thì gọi là trí nhớ dài hạn. Cả hai loại trí nhớ trên đều cần cho con người trong cuộc sống và công tác.
6.2.5.5. Trí nhớ bằng mắt, bằng tai, bằng tay…
Mỗi người thiên về việc sử dụng một loại giác quan nào đó là chính trong quá trình ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện (bằng mắt, bằng tai, bằng tay…). Đó là một đặc điểm cá nhân của trí nhớ ở mỗi người mà khi rèn luyện trí nhớ ta cần phải tính đến.
6.2.6. Rèn luyện trí nhớ
Muốn có trí nhớ tốt, ta cần phải luyện tập để có một phương pháp ghi nhớ, gìn giữ và hồi tưởng tốt.
6.2.6.1. Làm thế nào để ghi nhớ tốt
a/ Phải lựa chọn và phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lí nhất, phù hợp với tính chất và nội dung của tài liệu, với nhiệm vụ và mục đích ghi nhớ.
b/ Phải tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, phải có hứng thú sâu sắc, tình cảm say mê với tài liệu ghi nhớ, ý thức được tầm quan trọng của tài liệu và xác định một tâm thế ghi nhớ lâu dài đối với tài liệu đó.
c/ Phải biết phối hợp nhiều giác quan để ghi nhớ.
6.2.6.2. Làm thế nào để giữ gìn (ôn tập) tốt?
a/ Phải ôn tập một cách tích cực, nghĩa là ôn tập bằng cách tái hiện là chủ yếu (Đi truy, về trao).
b/ Phải ôn tập ngay, không để lâu sau khi đã ghi nhớ tài liệu (Học bài nào, xào bài ấy).
c/ Phải ôn xen kẽ, không nên chỉ ôn một môn liên tục trong thời gian dài.
d/ Cần ôn rải rác, không nên ôn tập trung liên tục trong một thời gian dài.
đ/ Ôn tập phải có nghỉ ngơi.
e/ Cần thay đổi các hình thức và phương pháp ôn tập.
6.2.6.3. Làm thế nào để hồi tưởng cái đã quên?
a/ Phải đánh bạt ý nghĩ sai lầm cho rằng mình đã “quên sạch”, “quên tiệt” chẳng còn nhớ tí gì cả; phải tin tưởng rằng mình có thể hồi tưởng được.
b/ Phải kiên trì: lần thứ nhất thất bại, thì lại tiếp tục lần thứ hai, thứ ba…
c/ Khi hồi tưởng sai, thì lần tiếp theo không bao giờ nên xuất phát từ sự trả lời sai lầm của lần trước, mà cần bắt đầu hồi tưởng lại từ đầu theo một cách mới.
d/ Cần đối chiếu, so sánh với những hồi ức khác có quan hệ trực tiếp với nội dung của hồi ức mà ta đang cần nhớ lại.
đ/ Cần sử dụng sự kiểm tra của tư duy, của trí tuệ
e/ Có thể sử dụng sự liên tưởng, nhất là liên tưởng nhân quả để hồi tưởng một vấn đề gì đó.
TÀI LIỆU CẦN ĐỌC THÊM
- Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ. Tâm lí học, tập I,NXB Giáo dục, 1988 (Chương VII: “Trí nhớ”, từ trang 265 đến 289).
- Trần Trọng Thủy, Một cơ chế mà trong rèn luyện trí nhớ, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 5/1991.
CÂU HỎI ÔN TẬP
- Trí nhớ là gì? Nêu đặc điểm của trí nhớ? (So sánh trí nhớ với cảm giác, tri giác, tư duy và tưởng tượng).
- Phân tích các quá trình cơ bản của trí nhớ.
- Hãy nêu và giải thích các biện pháp cần làm để có trí nhớ tốt.
- Muốn hồi tưởng được cái đã quên thì cần phải làm gì?
THỰC HÀNH
- Hãy kiểm tra trí nhớ máy móc thị giác và thính giác của học sinh bằng phương háp của A. P. Nhechaiep.
* Phương tiện cần thiết:
a/ Vài tấm bìa cỡ 40 x 20 chỉ có ghi một loạt các số gồm 2 chữ số, mỗi tấm bìa gồm 12 số được ghi đậm, rõ ràng.
Có thể là những số như sau:
64 28 83 57 87 68 46 37 39 52 74 49
73 67 91 43 81 62 32 27 53 85 17 94
54 93 71 58 35 82 61 47 97 21 19 34
Có thể lấy bất cứ số nào từ 21 đến 94, không chọn các số như 20, 30, 22, 33 và những số tương tự.
b/ Đồng hồ đeo tay (Có đồng hồ bấm giây càng tốt).
* Cách tiến hành:
Có thể cho học sinh xem (thị giác) hoặc nghe (thính giác) các số phải ghi nhớ một lần hay nhiều lần. Tốt nhất là phối hợp cả hai (cả xem và nghe).
Nếu đọc cho học sinh nghe, thì nói: “Bây giờ tôi sẽ đọc cho các em nghe 12 số có hai chữ số, không được ghi chép gì cả. Khi nào tôi đọc xong và ra hiệu thì các em bắt đầu ghi lại những số mà mình đã nhớ được, không cần theo đúng thứ tự. Nào! Chú ý nhé!” (Đọc thong thả, rõ ràng, loạt số nọ cách loạt số kia 30 giây).
Nếu đưa cho các học sinh xem các số thì nói: “Tôi sẽ cho các em xem cát tấm phiếu có ghi sẵn 12 số. Các em hãy nhìn kĩ và cố ghi nhớ. Không được ghi chép gì cả. Sau 30 giây tôi sẽ cất đi và theo lệnh của tôi, các em hãy ghi ra giấy những số đã nhớ được, không cần ghi theo thứ tự nào cả. Nào? Chuẩn bị nha!”.
Chú ý quan sát xem học sinh có phải nhẩm tính các số đã được nghe hay được nhìn không, có phải sửa chữa các số đã ghi ra giấy hay không (cho phép học sinh sửa chữa, nhưng điều này phải được tính đến khi phân tích). Có thể hỏi thêm học sinh để bổ sung cho những điều quan sát về mức độ tin tưởng vào tính chính xác của trí nhớ ở học sinh. Sau lần thứ hai, học sinh có cảm thấy một cách chủ quan rằng ghi nhớ các số đã dễ dàng hơn không.
Chỉ số đánh giá là số lượng các số được nhớ lại chính xác sau khi nghe và sau khi xem.
* Cách phân tích kết quả:
a/ Xác định xem các số đã được ghi nhớ theo trình tự nào: giảm dần, tăng dần…
b/ Xác định xem học sinh đã xây dựng những mối liên hệ như thế nào trong việc ghi nhớ máy móc các thành phần rời rạc của tài liệu.
c/ Đánh giá học sinh theo thang bậc sau: đối với trí nhớ thính giác thì cao nhất là nhớ được 7 số và thấp nhất là nhớ được là 2 số. Khi nhớ lại lần thứ hai, thì cao nhất là 8 số và thấp nhất là 1 số. Đối với trí nhớ thị giác thì cao nhất là nhớ được 9 số và thấp nhất là nhớ được là 3 số, khi nhớ lại lần thứ hai thì cao nhất là 10 số và thấp nhất là 0 số.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các mối liên hệ có ý nghĩa đến việc ghi nhớ và nhớ lại tài liệu ngôn ngữ bằng phương pháp K. Buylơ (K. Buler).
* Dụng cụ:
a/ 10 Cặp từ mà giữa chúng dễ dàng thiết lập các mối liên hệ có ý nghĩa, ví dụ:
Mây – Mưa
Nắng – Gió
Trầu – Cau
b/ Đồng hồ đeo tay (Nếu có đồng hồ bấm giây càng tốt).
* Cách tiến hành:
Lúc đầu đọc từng cặp từ cho học sinh nghe, học sinh cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa các từ trong cặp. Sau đó ta chỉ đọc từ đầu tiên trong mỗi cặp, còn học sinh phải nhớ lại từ thứ hai bằng cách sử dụng mối liên hệ mà mình đã thiết lập và ghi cả cặp từ lên một mẩu giấy.
Đọc các cặp từ cách nhau 2 giây. Sau khi đọc hết cả 10 cặp từ thì nghỉ 10 giây, rồi bắt đầu từ thứ nhất của mỗi cặp, dừng 5 giây sau mỗi từ để học sinh có đủ thời giờ ghi lên giấy cả từ kích thích và từ nhớ lại được.
Để kiểm tra tính bền vững của việc ghi nhớ, sau vài giờ lại đề nghị học sinh làm lại thực nghiệm y như lần nước.
* Cách tính toán và phân tích kết quả:
- Cần quan sát học sinh để xác định xem: a/ Tính tích cực của học sinh khi nghe được thể hiện như thế nào? b/ Học sinh có phải nhẩm đọc các từ mà ta đọc cho nó nghe hay không? c/ Có dấu hiệu bên ngoài nào của sự căng thẳng trí óc không?
- Cần hỏi thêm học sinh để biết: a/ Học sinh có sử dụng những thủ thuật đặc biệt để ghi nhớ hay không? Nếu có thì đó là những thủ thuật nào? b/ Học sinh có tạo thành các cặp từ dễ dàng hay khó khăn? c/ Những cặp từ nào dễ nhớ lại, cặp nào khó nhớ lại?
- Tính số lượng các cặp từ được tạo thành đúng. Tỉ lệ giữa số lượng này với số lượng các cặp từ đưa ra (10) được gọi là hệ số ghi như từ ngữ – logic.
Thường thì kết quả cao nhất là 10 cặp từ và thấp nhất là 4 cặp từ (10/10 và 4/1O).
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
- Những va chạm hằng ngày trong cuộc sống lứa đôi
- Giải đáp thắc mắc trong tình yêu hôn nhân gia đình nam nữ
- Hạnh phúc cá nhân, gia đình, cạm bẫy của tình yêu
- Đời sống tình cảm của người con gái
- Đời sống tình cảm của người con trai
- Tai hại trong quan niệm hôn nhân cưỡng bức
- Tai hại trong quan hệ hôn nhân tự do
- Từ hôn nhân tự do đến hôn nhân cưỡng bức
- Quan niệm chung của trai và gái trong việc lập gia đình
- Quan niệm tình ái của gái và trai trong việc kết hôn
- Đời sống tình cảm của con người trong gia đình
- Ái tình và hạnh phúc
- Yếu tố cấu tạo thành gia đình
- Gia đình, một nền tảng trong xã hội
- Chân giá trị của đời sống gia đình
- Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS
- Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông
- Nhập môn tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm
- Nhân cách và hình thành phát triển nhân cách
- Trí nhớ, các quá trình cơ của trí nhớ, thực hành trí nhớ
- Tình cảm và ý chí, đặc điểm của tình cảm
- Hoạt động nhận thức, cảm giác, tri giác con người
- Sự hình thành và phát triển tâm lí, ý thức
- Cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội của tâm lý người
- Tâm lí học là một khoa học
- Ghen là gì ?. Những điều nên nhớ và cần tránh trong tình yêu
- Những tiêu chuẩn căn bản trong hôn nhân
- Bảo vệ hạnh phúc cuộc sống, vật chất, tinh thần
- Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học cơ sở
- Những điều kiện phát triển tâm lý lứa tuổi của học sinh trung học cơ sở
- Vị trí và giai đoạn phát triển tâm lý của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
- Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em
- Dạy hoc, giáo dục và sự phát triển tâm lý
- Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em
- Lý luận về sự phát triển tâm lý học của trẻ
- Khái quát về tâm lý học lứa tuổi và sư phạm
- XEM THÊM
Từ khóa » Ví Dụ Về Quá Trình Giữ Gìn
-
Các Quá Trình Cơ Bản Của Trí Nhớ. Giải Thích Và Cho Ví Dụ.
-
Tâm Lí Học đại Cương - Tài Liệu Text - 123doc
-
Các Quá Trình Của Trí Nhớ Và Phương Pháp để Có Trí Nhớ Tốt?
-
Bài 3: Các Quá Trình Cơ Bản Của Trí Nhớ - HOC247
-
Câu Hỏi ôn Tập Môn Tâm Lý Học - Tài Liệu, Ebook
-
Trí Nhớ Là Gì? Vai Trò Và Các Quá Trình Cơ Bản Của Trí Nhớ
-
TRÍ NHỚ VÀ CHÚ Ý - Health Việt Nam
-
Các Quá Trình Cơ Bản Của Trí Nhớ - Kipkis
-
Những Quá Trình Cơ Bản Của Trí Nhớ
-
[PPT] Các Quá Trình Cơ Bản Của Trí Nhớ Quá Trình Ghi Nhớ Quá Trình Gìn Giữ ...
-
Ví Dụ Về Trí Nhớ : Khái Niệm, Các Quá Trình Và ...
-
Bài Giảng Tâm Lý Học đại Cương - Trí Nhớ - Tài Liệu, Ebook, Giáo Trình
-
Trí Nhớ - I. Định Nghĩa, đặc điểm, Vai Trò Của - StuDocu