Triết Lý Nhân Sinh Của Nguyễn Du: Giá Trị Xuyên Thời đại - Báo Hà Tĩnh

Mở đầu Kim Vân Kiều truyện, sau khi dẫn 8 câu thơ thất ngôn tả cảnh mùa xuân, hội Đạp Thanh, nói về phận bạc duyên may, tác giả viết: “Xưa nay, đại phàm những bậc giai nhân tuyệt sắc, thường không được hưởng hạnh phúc giàu sang mà hay gặp những cảnh khắt khe, khổ sở. Xem như Chiêu Quân, Quý Phi, Phi Yến, Linh Đức, Tây Tử, Điêu Thuyền... toàn là những bậc hương trời sắc nước cả, nhưng số mệnh có ra gì đâu. Đó chẳng qua là con tạo ghét ghen, đã cho 10 phần nhan sắc thì bắt phải chịu 10 phần chiết mạ, đã cho một chút tài tình, lại tăng lên mấy tầng nghiệp chướng”.

triet ly nhan sinh cua nguyen du gia tri xuyen thoi dai

Tranh phỏng tác của họa sỹ Mai Hoa

Mở đầu Truyện Kiều là những câu thơ mà hầu như người Việt Nam nào cũng thuộc làu:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen

Cảo thơm lần giở trước đèn

Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.

Cái “cõi người ta” ấy thực ra không phải chỉ là những thân phận phụ nữ và cũng không hẳn chỉ là “trăm năm”. Cái sự biến cải khôn lường “bãi biển thành nương dâu” ấy chính là triết lý nhân sinh, nỗi niềm thế sự đã thành điển hình có sức khái quát rất cao, đọc lên nghe có gì đó ngậm ngùi, buộc người ta phải suy ngẫm, chiêm nghiệm, phải tự soi xét bản thân và thời cuộc. Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. “Những điều trông thấy” của Nguyễn Du, dẫu được viết như là đề từ của “Đoạn trường Tân Thanh” (Truyện Kiều) nhưng không chỉ gói gọn trong những kiếp người, những thân phận được lấy từ Kim Vân Kiều truyện mà là cả một “cõi người ta” Nguyễn Du từng chứng kiến, từ người gảy đàn ở Long Thành (Long Thành cầm giả ca), từ những kiếp cô hồn trong Văn chiêu hồn và những cảnh ngộ trong Sở kiến hành lần nhà thơ đi sứ Trung Quốc cũng như sự biến cải khôn lường của triều đình nhà Lê, gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền mà trong những năm tháng gió bụi, nhà thơ đã trải qua. Dẫu “đau đớn lòng”, nhà thơ vẫn kêu lên “tiếng kêu mới đứt ruột” (Đoạn trường tân thanh) để thức tỉnh cả thế giới.

Ở đoạn kết cũng vậy, triết lý nhân sinh, thuyết Tài - Mệnh tương đố và những đúc kết về cuộc đời thể hiện cách nói rất riêng của Đại thi hào Nguyễn Du:

Ngẫm hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Có đâu thiên vị người nào

Chữ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai.

Trong đời sống hàng ngày, nhân dân ta thường hay đúc kết: Cũng là cái số cả, tất cả do trời định, trời thương thì mọi sự tốt đẹp, suôn sẻ, không thương thì rủi ro, bất hạnh cũng đành chịu. Hoặc giả: có duyên, tốt phúc thì lấy được chồng giàu sang, phú quý, còn vô duyên, hồng nhan bạc phận thì như cánh hoa tàn. Trong Truyện Kiều, nhiều lần Nguyễn Du đã để cho nhân vật Thúy Kiều cảm thấu sâu sắc triết lý này và chấp nhận quy luật Tài - Mệnh tương đố:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba sinh...

Phận dầu, dầu vậy, cũng dầu...

Đến phong trần, cũng phong trần như ai...

Thân lươn bao quản lấm đầu

Tấm lòng trinh bạch lần sau xin chừa…

Thời nay, đọc những câu ấy lên Ngẫm hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao nghe có gì đó cam chịu, an phận thủ thường, không phù hợp, nhưng nhiều người vẫn thích ngâm ngợi, nhất là những người có tuổi. Nguyễn Du đã nâng quan niệm về chữ “thân” trong ca dao: Thân em như hạt mưa sa/ Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa, Thân em như dải lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai, Thân em như hạc đầu đình/ Muốn bay không cất nổi mình mà bay thành một triết lý: Muôn sự tại trời, trời kia bắt mỗi người có một thân phận và người càng có tài thì mệnh càng bạc. Tài - Mệnh luôn tương ứng với nhau:

Có tài mà cậy chi tài

Chữ Tài liền với chữ Tai một vần

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.

Lời khuyên ấy đặt trong hoàn cảnh xã hội bình đẳng và tiến bộ, ngày nay, khi người phụ nữ đã được giải phóng, gông cùm của xã hội phong kiến đã hoàn toàn bị xóa bỏ thì không phù hợp nhưng đặt vào hoàn cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII, đặc biệt là với những người con gái tài sắc, nhiều khát vọng tình yêu và khát vọng đổi đời mới thấy hợp lý. Đây cũng chính là sự mâu thuẫn trong nội tại tâm hồn, tư tưởng của Nguyễn Du: vừa mong giải phóng cho người phụ nữ, đề cao tình yêu và tài sắc của họ, vừa muốn an ủi họ hãy chấp nhận sự nghiệt ngã của số phận (mà thực chất là chấp nhận sự ngang trái do các thế lực cường quyền tạo nên).

Điều khác biệt của Nguyễn Du với các nhà tư tưởng, các bậc thức giả đương thời là ông đã đề cao chữ Tâm, đánh giá nó gấp 3 lần chữ Tài. Điều này đã trở thành triết lý kinh điển của thi nhân hàng trăm năm qua luôn được người đời sau đề cập và ghi nhận. Cho đến hôm nay, nhiều người vẫn coi đó là lời răn dạy cho mình trong công việc cũng như trong cuộc sống:

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

Sự phát triển cái Thiện - yếu tố đạo đức xã hội đã có nền móng từ lâu trong đời sống nhân dân, là căn cốt, cội rễ của nhân cách con người trở thành chữ Tâm là một bước chuyển trong triết lý nhân sinh của Nguyễn Du, một con người từng trải qua nhiều cảnh ngộ, phải quăng quật giữa mưa gió cuộc đời, thấm thía rất nhiều nỗi đau khổ của con người. Nguyễn Du đã gửi gắm suy nghĩ, đúc kết của mình về chữ Tâm (hay còn gọi là tình người, là tấm lòng yêu thương con người, là đạo đức xã hội) vào kiệt tác Truyện Kiều.

Nếu đem đối chiếu với cái kết thúc có hậu của Truyện Kiều thì rất hợp lý: Người sống có tâm đã được đáp đền, kẻ bạc ác đã bị trừng trị, nàng Kiều sau 15 năm tủi nhục đã được đoàn viên Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Nhưng thực tế, những triết lý ấy còn có một tầm phổ quát hơn, vượt ra ngoài Truyện Kiều, trở thành một lời răn dạy như tục ngữ, thành ngữ của nhân dân, trở thành nguyên tắc sống và làm việc, ứng xử trong phạm trù đạo đức của rất nhiều tầng lớp trong xã hội, từ trí thức, văn nghệ sĩ đến nông dân, công nhân, tiểu thương, người bác sĩ, người chiến sĩ...

Sức sống, sự lan tỏa, lay động, thức tỉnh của câu thơ: Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài thực sự đã vượt ra ngoài tầm thời đại Nguyễn Du, vượt ra ngoài không gian biên giới Việt Nam, trở thành giá trị xuyên thời đại. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển hai vế Tâm - Tài thành Đức - Tài. Người nói: “Có Tài mà không có Đức thì thành người vô dụng. Có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng khó’’. Triết lý sống Tâm - Tài của Nguyễn Du có giá trị bền lâu trong đời sống, giúp cho đạo đức xã hội được bền vững, góp phần xây dựng phẩm chất con người mới Việt Nam cũng như mọi cộng đồng khác trên thế giới. Đây chính là sự vượt xa về tầm tư tưởng cũng như tài năng của Nguyễn Du so với Thanh Tâm Tài Nhân.

Từ khóa » Gẫm Thay Muôn Sự Tại Trời