TRÒ CHƠI MÔN TOÁN LỚP 2 - GV: KIM OANH

  1. I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề phong phú, hấp dẫn và cũng khá phức tạp, như L. X. Vưgôtxki đă khẳng định: “Đối với việc nghiên cứu hầu như không có vấn đề nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự của một con người" [113, trang 110]. Chính vì thế, lâu nay lĩnh vực hứng thú đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, song vẫn còn nhiều vấn đề cần tìm hiểu.

Hứng thú là một trong những mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách, nó có vai trò rất to lớn đối với hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức nói riêng. Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một cách say mê, sáng tạo, làm tăng sức làm việc,...ở mỗi người. Trong họat động học tập, hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc học sinh nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học một môn nào đó, học sinh sẽ tập trung chú ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó quan sát của các em trở nên nhạy bén và chính xác, chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ dàng và sâu hơn, quá trình tư duy sẽ tích cực hơn, sự tưởng tượng sẽ phong phú hơn... Các em sẽ tự giác, sáng tạo, say sưa, không biết mệt mỏi trong quá trình lĩnh hội, và sự vận dụng những điều lĩnh hội được vào giải các bài tập sẽ linh hoạt, sáng tạo hơn, nhờ đó kết quả học tập của họ sẽ ngày càng nâng cao, năng lực của học sinh từng bước được hình thành, phát triển một cách tích cực. Điều này đã được đại văn hào Macxim Goocki khái quát: “Tài năng, nói cho cùng là tình yêu đối với công việc”.

Vì vậy hứng thú càng trở nên quan trọng trong việc học tập môn Toán ở lớp 2. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn Toán học sinh mới thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như những phương pháp khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trò của toán học đối với đời sống và các ngành khoa học khác. Đó là nội dung tôi muốn đề cập trong đề tài này.

2. Mục đích chọn đề tài:

Trong quá trình giảng dạy nhận thấy được sự quan trọng của môn Toán đặc biệt học sinh hiện nay tôi đang dạy lại không có hứng thú với phân môn này. Để giúp học sinh học tốt hơn môn Toán đặc biệt là học sinh lớp 2, tôi đã suy nghĩ và trăn trở rất nhiều và quyết định nghiên cứu, thực hiện đề tài nàynhằm chỉ ra những đặc điểm hứng thú học môn Toán của học sinh lớp 2, đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp để nâng cao loại hứng thú này, từ đó đưa ra những kiến nghị sư phạm góp phần phát triển hứng thú học môn Toán cho học sinh lớp 2.

3. Nhiệm vụ chọn đề tài:

Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu một số vấn đề về: Đặc điểm hứng thú học môn Toán của học sinh lớp 2; các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển hứng thú của học sinh lớp 2.

Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học môn Toán cho học sinh lớp 2

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau:

4.1. Phương pháp trực quan:

Hướng dẫn học sinh hoạt động trực tiếp trên các hiện tượng, sự vật cụ thể, để dựa vào đó mà nắm bắt được kiến thức, kỹ năng của môn Toán.

4.2. Phương pháp thực hành – luyện tập:

Thực hành, luyện tập các kiến thức, kỹ năng của môn học.

4.3. Phương pháp gợi mở vấn đáp:

Sử dụng một hệ thống các câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước tiến dần đến kết luận cần thiết, giúp học sinh tự mình tìm ra kiến thức mới.

4.4. Phương pháp giảng giải minh họa:

Dùng lời nói để giải thích tài liệu toán, kết hợp với các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.

5. Phạm vi nghiên cứu đề tài:

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi xin được trình bày một số biện pháp cơ bản để giúp học sinh lớp 2.5 hứng thú với tiết học toán năm học 2012 - 2013

6. Đối tượng nghiên cứu đề tài:

Nghiên cứu một số đặc điểm giúp học sinh lớp 2.5 hứng thú với môn học toán.

7. Khẳng định tính mới của đề tài:

Việc giúp hứng thú với tiết học toán cho học sinh không phải là đề tài mới, đã được rất nhiều người nghiên cứu, nhưng việc gây hứng thú học toán cho học sinh như thế nào cho hiệu quả nhất, học sinh làm toán được tốt nhất, đó chính là điều tôi muốn trình bày trong đề tài này.

NỘI DUNG

  1. A. CƠ SỞ KHOA HỌC LÍ LUẬN:

1.Vị trí của môn toán trong trường tiểu học :

Trong trường phổ thông nói chung, trường tiểu học nói riêng, môn Toán có vị trí đặc biệt quan trọng, nó có khả năng to lớn trong việc giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm chất trí tuệ. Thật vậy, do tính chất trừu tượng, khái quát cao, suy luận lôgic chặt chẽ, toán học có khả năng hình thành ở người học óc trừu tượng, năng lực tư duy lôgic chính xác. Việc tìm kiếm cách chứng minh một định lí, tìm lời giải hay cho một bài toán...có tác dụng trong việc rèn luyện cho học sinh các phương pháp tư duy khoa học trong học tập, trong việc giải quyết các vấn đề, biết cách quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự đoán, suy luận, chứng minh...qua đó rèn luyện cho học sinh trí thông minh sáng tạo. Không những thế, môn Toán còn góp phần tích cực vào việc giáo dục cho các em những phẩm chất đáng quí trong học tập, lao động và cuộc sống, như: tính kỷ luật, tính kiên trì, tính chính xác, biết cảm thụ cái đẹp trong những ứng dụng phong phú của toán học, tìm ra cái đẹp của những lời giải hay,... Khi nhận ra điều này, học sinh ngày càng yêu thích, say mê môn Toán hơn, tích cực học tập, ứng dụng nó, từ đó mà chất lượng học toán ngày càng cao hơn.

2.Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học

Học sinh tiểu học là lứa tuổi sống và phát triển trong nền văn minh nhà trường theo hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất gồm lớp 1, lớp 2 và lớp 3, trong cấp độ này thì lớp 1 là đặc biệt – lớp đầu của Cấp tiểu học, được nhiều người cho là “Cửa ải lớp 1”. Cấp độ thứ hai gồm lớp 4 và lớp 5 – Lớp đầu ra của Cấp tiểu học. Hai cấp độ này tuy có sự khác nhau về mức độ phát triển tâm lí và trình dộ thực hiện hoạt động học tập, nhưng không có sự thay đổi đột biến, không có sự phát triển theo chiều hướng mới. Dù ở cấp độ nào thì học sinh tiểu học cũng là nhân vật trung tâm, là linh hồn của trường tiểu học. Ở đấy, trẻ đang từng ngày, từng giờ tự hình thành cho mình những năng lực của người ở trình độ sơ đẳng nhưng cơ bản, như sử dụng tiếng mẹ đẻ, năng lực tính toán, đặc biệt là năng lực làm việc trí óc – năng lực tạo ra các năng lực khác. Cùng với các năng lực trên là sự hình thành tình cảm, thái độ và cách cư xử phù hợp với dân tộc và văn minh nhân loại hiện đại. Học sinh tiểu học ngày nay là những chủ thể đang trở thành chính mình bằng hoạt động của mình dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn theo phương pháp nhà trường hiện đại.

  1. B. THỰC TRẠNG:

Năm học 2012 – 2013 tôi được phân công dạy lớp 2.5 có 37 học sinh trong đó có 20 nam và 17 nữ. Căn cứ vào tình hình đó tôi thấy lớp tôi có một số thuận lợi và khó khăn như sau:

1. Thuận lợi :

1.1. Trường Tiểu Học An Bình B là trường mới nên cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Các phòng học có đầy đủ đèn, quạt ánh sáng cho học sinh. Bàn ghế vừa tầm vóc, đồ dùng cho việc giảng dạy của giáo viên tương đối đầy đủ.

1.2. Phụ huynh học sinh quan tâm nên, học sinh có đầy đủ sách vở dùng để học tập.

1.3. Ban giám hiệu và tổ bộ môn luôn quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi phát triển chuyên môn.

1.4. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tự nghiên cứu các tài liệu, sách báo, học tập đồng nghiệp , vận dụng phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất.

2. Khó khăn:

2.1. Là địa bàn đông dân nhập cư , đa số phụ huynh học sinh trong lớp đều làm công nhân nên phải thường xuyên tăng ca, ít có thời gian để ý đến việc học của con mình.

2.2. Học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, nhiều em chưa chăm học, học còn yếu môn toán. Các em tiếp thu kiến thức trong giờ học toán một cách thụ động không có hứng thú.

Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã tìm ra một số biện pháp thực hiện như sau:

  1. C. NỘI DUNG:
    1. 1. Khái niệm hứng thú:

Theo các nhà tâm lý học hứng thú là thuộc tính có sẵn của con người gắn liền với cơ sở sinh học; quá trình lớn lên của cá nhân cũng là quá trình bộc lộ dần thiên hướng, hứng thú của họ. Khái niệm hứng thú dựa trên cơ sở bản chất sinh học của con người nên dẫn tới các quan niệm cho rằng hứng thú là sự phát triển tự nhiên của con người, chưa chú ý đến vai trò của giáo dục và hoạt động có ý thức của con người trong quá trình hình thành, phát triển của hứng thú, nhất là đối với trẻ em, với HS.

2. Giúp học sinh hứng thú với môn toán ở lớp 2:

Dạy học toán là cách tốt nhất để chuẩn bị cho trẻ học về thế giới xung quanh. Trẻ ở 7 tuổi đã có thể học toán bằng những mẹo vui vẻ và sự kiên trì của giáo viên.

Đưa học sinh ra ngoài và thực hành toán với những viên đá, đám mây, cỏ cây và kể cả những cây gậy nhỏ, xung quanh chúng ta có nhiều thứ rất thú vị để cuốn hút vào học toán. Cho học sinh tìm những thứ học sinh thích nhất để tập đếm hay làm các phép tính, học sinh sẽ thích học hơn. Học toán trong môi trường thiên nhiên là cách rất tốt để loại bỏ bớt những căng thẳng. Thêm nữa học sinh được hít thở không khí trong lành hơn.Giáo viên có thể bảo làm những phép toán theo hình những ngôi nhà, những chiếc xe, hay những thứ trẻ thích. Luôn sáng tạo sẽ giúp giáo viên và học sinh rất nhiều.

Giáo viên cũng có thể dùng đồ chơi cho việc học toán. Học sinh có thể mang đi đồ chơi của mình để học về trừ và chia, mang thêm đồ chơi vào cho phép cộng và nhân, học sinh luôn thích học với đồ chơi và bạn luôn tìm được cớ để dạy học toán bằng chính những đồ vật mà chúng thích.

Cách học toán vui luôn thu hút trẻ, ở lứa tuổi Tiểu học trẻ tiếp thu được rất nhiều nhưng lại không thể ngồi lâu để nhìn vào quyển sách hay những con số. Sáng tạo ra nhiều ý tưởng liên kết cho học sinh và môn toán đã được Trung tâm Bé Thông Minh đưa vào Chương trình Phát Triển Trí Thông minh Toán Học- MathKids.

Thông qua các bài toán vui kết hợp với các trò chơi sẽ giúp cho hai bán cầu não của trẻ cùng vận động, tương tác, phát triển tư duy, tăng khả năng sáng tạo, trau dồi khả năng quan sát, rèn luyện tính kiên trì và trí tưởng tượng cũng được nâng cao. Qua đó hình thành và nuôi dưỡng tinh thần ham học hỏi, khám phá và hứng thú với các môn học ở trường nói chung và Toán học nói riêng.

3. Nội dung:

Như đã xác định mục đích, ý nghĩa của từng tiết học toán. Vì vậy, làm cho học sinh hứng thú học toán nhằm củng cố, khắc sâu trọng tâm của bài dạy. Xây dựng tiết dạy của phải đảm bảo những yêu cầu sau:

* Đảm bảo yêu cầu phổ cập: nghĩa là đa phần các hứng thú phải có mức độ vừa phải, đủ để học sinh từ bình thường có thể tham gia một cách sôi nổi.

* Có yếu tố sáng tạo: trong giờ học nên có những câu hỏi, bài tập có nội dung sáng tạo. Để giải quyết những bài tập này học sinh phải vận dụng những kiến thức một cách có hệ thống hơn, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn.

* Nội dung giúp học hứng thú phải được phân cách thành những yêu cầu, những đơn vị kiến thức, mỗi bài tập đó với từng cá nhân học sinh.

* Nội dung cách gây hứng thú nên thể hiện trong nhiều dạng bài tập, nhiều hình thức thể hiện khác nhau (tùy theo mỗi dạng bài dạy, mỗi tiết dạy, mỗi khối lớp).

Vì vậy, khi thiết kế nội dung một tiết dạy sôi động ta có thể lấy nội dung bài học hoặc một bài tập thuộc trọng tâm bài trong sách giáo khoa. Sau đó, bằng sự “chế biến” của mình chúng ta sẽ có nhiều đơn vị kiến thức, nhiều bài tập tương tự ở mức độ phổ cập.

3.1 Thiết kế đồ dùng, thiết bị phục vụ giờ học:

* Tiện dụng (dễ sử dụng).

* Dễ làm (ai cũng có thể làm được).

* Rõ ràng, đẹp mắt, nổi bật nội dung tiết học toán.

* Tiết kiệm (sử dụng được nhiều lần, làm bằng những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền).

VD: Tôi luôn sử dụng đúng, đồ dùng đẹp gợi sự tò mò cho học sinh thao tác xong, tôi cất luôn không để các em tập trung nhiều vào đồ dùng. Đồ dùng dạy học thường dùng là: Có sẵn ở phòng thiết bị dạy học do phòng cung cấp và những đồ dùng tự làm của bản thân.

Việc sử dụng không gian học: Tôi lập các bảng cộng trừ có nhớ ( Theo chương trình ) treo ở lớp học để học sinh hằng ngày tiếp xúc và bắt buộc phải học thuộc.

3.2 Tổ chức trò chơi trong môn toán

* Thiết kế trò chơi trong môn toán

Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn toán nói chung và môn toán lớp 2 nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau :

Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục

Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học

Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp 2, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.

Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.

Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo

Cấu trúc của Trò chơi học tập :

Tên trò chơi

Mục đích : Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi.

Đồ dùng, đồ chơi : Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi học tập

Số người tham gia chơi : Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.

Nêu lên luật chơi : chỉ rõ qui tắc của hành động chơi quy định đối với người chơi, quy định thắng thua của trò chơi.

Số người tham gia chơi : Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.

* Cách tổ chức trò chơi

Thời gian tiến hành : thường từ 5 - 7 phút

- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi :

+ Nêu tên trò chơi

+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật chơi.

Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi

Chơi thật

+ Nhận xét kết quả chơi, thái độ của ngươi tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.

+ Thưởng - phạt : Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....)

3.3. Giới thiệu một số trò chơi toán học lớp 2 :

Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong quá trình dạy toán cho học sinh lớp

.3.3.1. Trò chơi 1: Ai nhanh hơn

( Bài phép cộng có tổng bằng 100)

* Mục đích :

- Luyện tập củng cố kỹ năng cộng 2 số có nhớ trong phạm vi 100

- Tập cho học sinh cách đánh giá, cho điểm

* Chuẩn bị :

- Một chữ A và một chữ B

- Một số hình ảnh về các loài hoa được cắt bằng giấy màu cứng, mặt trước màu trắng ghi các phép tính như :

98+ 2

46+54

45 + 55

26 + 62

61 + 39

57+43

84+16

27 + 73

53 + 47

74+26

- Phấn màu

- Đồng hồ theo dõi thời gian

- Chọn 3 học sinh khá nhất lớp làm giám khảo và thư ký.

* Cách chơi : Chia lớp làm 2 đội, khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” lần lượt từng đội cử người lên bốc hoa trên bàn giáo viên, người chơi có nhiệm vụ làm nhanh phép tính ghi trên bông hoa, sau đó cài bông hoa lên cây của đội mình. Người này làm xong cài hoa lên cây thì lại đến lượt người khác. Cứ như vậy cho đến hết 2 phút. Sau khi giáo viên hô hết giờ thì 2 đội mỗi đội cử 1 đại diện lên đọc lần lượt từng phép tính trên cây của mình đồng thời giơ cho cả lớp xem bông hoa đó. Giám khảo đánh giá và thư ký ghi lại kết quả.

* Cách tính điểm :

- Mỗi phép tính đúng được 10 điểm

- Tổng hợp số điểm của từng đội. Đội nào nhiều điểm hơn là đội đó thắng cuộc.

* Lưu ý : Sau giờ chơi giáo viên nêu nhận xét đánh giá các đội chơi khuyến khích tổ Giám khảo, thư ký, nhắc nhở các em những sai sót vấp phải để lần sau các em chơi tốt hơn.

3.3.2.Trò chơi 2 : Truyền điện

* Mục đích :

- Luyện tập và củng cố kỹ năng làm các phép tính cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100

- Luyện phản xạ nhanh ở các em

* Chuẩn bị : Không cần chuẩn bị bất kỳ đồ dùng nào

* Cách chơi : Các em ngồi tại chỗ. Giáo viên gọi bắt đầu từ 1 em xung phong. Ví dụ em A xướng to 1 số trong phạm vi 100 chẳng hạn “88” và chỉ nhanh vào em B bất kỳ để “truyền điện”. Lúc này em B phải nói tiếp, ví dụ “trừ 11” rồi lại chỉ nhành vào em C bất kỳ. Thế là em C phải nói tiếp “bằng 77”. Nếu C nói đúng thì được quyền xướng to 1 số như A rồi chỉ vào một bạn D nào đó để “truyền điện” tiếp. Cứ làm như thế nếu bạn nào nói sai (chẳng hạn A nói “88” truyền cho B, mà B nói trừ “19”, tức là sai dạng tính hoặc là C đọc kết quả tính sai) thì phải nhảy lò cò một vòng từ chỗ của mình lên bảng. Kết thúc trò chơi khen và thưởng một tràng vỗ tay cho những bạn nói đúng và nhanh.

* Lưu ý :

- Trò chơi này không cần phải chuẩn bị đồ dùng nào.

- Trò chơi này có thể áp dụng được vào nhiều bài (Ví dụ : Luyện tập các bảng cộng trừ, nhân, chia) và có thể thay đổi hình thức “truyền”. Ví dụ : 1 em hô to “12-8” và chỉ vào em tiếp theo để truyền thì em này chỉ việc nói kết quả “bằng 4”. Hay “4 x 6 ” truyền vào bạn tiếp theo nói “bằng 24”.

+ Trò chơi này không cầu kỳ nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi, hào hứng trong giờ học cho các em.

3.3.3 Trò chơi 3: Bác thợ săn

* Mục đích : Rèn kỹ năng đọc, hiểu tóm tắt đề toán và giải bài toán có đơn vị “kg, quả"

* Chuẩn bị :

- Một số tranh con vật : quả bưởi, quả dưa hấu, ngan, vịt, quả táo đỏ, quả táo xanh, các loại bánh

- Một số thẻ ghi tóm tắt đề toán ở mặt trước và đáp số ở mặt sau

- Sân chơi : vẽ các ô, mỗi ô đặt 1 thẻ theo thứ tự

*Cách chơi : Giáo viên lần lượt cho các em chơi

Các em lần lượt bước vào từng ô. Bước vào ô nào phải giải miệng đề toán trong ô đó. Sau đó đọc to đáp số của bài toán. Chẳng hạn ô thứ nhất em đó phải nhẩm : Ngỗng nặng là : 3 + 2 = 5 kg rồi nói to “Đáp số 5 kg” sau đó lật mặt sau của tấm thẻ để kiểm tra đáp số. Nếu đúng thì bước tiếp sang ô thứ hai ....Nếu sai thì em đó bị loại và em khác lên chơi.

*Cách tính điểm :

Nếu mỗi ô đúng thì được thưởng một con vật. Riêng ô cuối cùng giải đúng được thưởng 2 con.

Sau cuộc chơi nếu ai được nhiều con vật nhất thì người đó sẽ thắng cuộc.

3.3.4.Trò chơi 4: Que tính thông minh

(Bài toán về ít hơn)

* Mục đích : Rèn trí thông minh, nhanh nhẹn, kỹ năng tính khi có bài toán về ít hơn.

* Chuẩn bị :

- 60 que tính màu : 30 que màu đỏ , 30 que màu vàng

- 2 ống nhựa màu đỏ, 2 ống nhựa màu vàng. Trên 2 ông đỏ dán mảnh giấy trên có ghi “ít hơn”.

* Cách chơi : 2 đội gồm 2 người : 1 nam, 1 nữ đại diện cho 2 đội. Mỗi em cầm 30 que tính, tay trái 20 que màu vàng, tay phải 10 que màu đỏ, 2 ống nhựa 1 đỏ - 1 vàng đặt trên mặt bàn trước vị trí của mỗi em. Cả 2 em cùng được chơi 3 lần. Thời gian mỗi lần là 1 phút.

- Lần 1 : Em hãy cắm số que tính vào 2 ống sao cho ống đỏ có nhiều hơn ống vàng là 2 que.

-Lần 2 : Em phải tiếp tục chuyển bao nhiêu que tính ở ống màu vàng sang ống màu đỏ để ống đỏ có nhiều hơn 4 que tính.

- Lần 3 : Để ống đỏ có nhiều hơn ống vàng 6 que tính thì em chuyển chúng như thế nào ?

Sau mỗi lẫn chơi giáo viên đánh giá kết quả lưu ý cách giải thích của học sinh ở lần chơi thứ 3 .

* Cách tính điểm :

- Mỗi lần chơi học sinh làm đúng : 4 điểm

- Lời giải thích ngắn gọn, dễ hiểu : 1 điểm

Cuối cùng cộng điểm sau 3 lần chơi : Ai được nhiều điểm thì người đó sẽ thắng cuộc. Người thắng cuộc được quyền hát tặng lớp 1 bài hoặc chỉ định một bạn hát 1 bài tặng mình.

3.3.5 Trò chơi 5: Cùng vui phép chia

(Bài phép chia)

* Mục đích : Củng cố học sinh nhận biết phép chia, từ một phép nhân chuyển thành hai phép chia.

* Chuẩn bị :

- Thước kẻ, tranh ảnh

- 10 chấm tròn

* Cách chơi :

- Gọi 2 em tham gia lên bảng chơi.

- Phát cho mỗi em một bức tranh yêu cầu tìm ra phép nhân sau đó lập thành hai phép chia tương ứng

4.2=8

8:4=2

8:2=4

- Khi nghe hiệu lệnh “1,2,3 bắt đầu” 2 em bắt đầu thực hiện. Em nào xong trước và thực hiện đúng sẽ được tuyên dương.

- Nếu cả 2 em cùng làm đúng và xong cùng một lúc thì hỏi một em về cách thực hiện phép tính của mình.

3.3.6.Trò chơi 6 “chụm 3 chụm 7”

* Mục đích : Luyện cho học sinh tính toán nhanh nhẹn, có phản xạ nhanh trong hành động.

* Số lượng tham gia: Cả lớp.

* Cách chơi : Cả lớp đứng thành vòng tròn, giáo viên ở giữa. Giáo viên hô “chụm 3” học sinh phải chạy lại đứng thành một nhóm 3 học sinh. Em nào dư bị loại đứng riêng ra. Rồi giải tán và hợp lại theo lệnh của giáo viên (chụm 5, 6, 7…)

Giáo viên có thể dùng các phép tính từ đơn giản đến phức tạp để nêu số.

Loại dần cho đến lúc chỉ còn số ít học sinh.

Tuyên dương.

3.3.7 Trò chơi 7 Thợ chỉnh đồng hồ

Trò chơi này áp dụng khi dạy bài : Ngày, giờ và bài thực hành xem đồng hồ.

* Mục đích : Củng cố xem đồng hồ

* Chuẩn bị : Mỗi học sinh chuẩn bị một mô hình đồng hồ (trong bộ đồ dùng học Toán 2):

* Cách chơi:Số lượng cả lớp.

Giáo viên hô chẳng hạn : “9 giờ”, học sinh phải xoay kim ngắn và kim dài sao cho đồng hồ của mình chỉ đúng 9 giờ, rồi giơ lên.

Bạn nào làm sai sẽ làm biểu diễn thời trang.

3.3.8 Trò chơi 8: Bác đưa thư

(Áp dụng dạy các bảng nhân, bảng chia)

* Mục đích: Giúp học sinh thuộc lòng bảng nhân 2. Kết hợp với thói quen nói “cám ơn” khi người khác giúp một việc gì đó .

* Chuẩn bị: + Một số thẻ, mỗi thẻ có ghi 1 số : 1, 2, 3, 4, 5 ,6,8.., 12, 14,.... 18 , 20 là kết quả của các phép nhân để làm số nhà .

- Một số phong bì có ghi phép nhân trong bảng nhân 2 : 1x2, 2x1, 2x2, 3x2, 2x3; ........ ex10; 10x2.

- Một tấm các đeo ở ngực ghi “Nhân viên bưu điện”

* Cách chơi:

- Gọi 1 số em lên bảng chơi giáo viên phát cho mỗi em 1 thẻ để làm số nhà. Một em đóng vai “Bác đưa thư” ngực đeo “Nhân viên Bưu điện” tay cầm tập phong bì.

- Một số em đứng trên bảng , lần lượt từng em một nói:

Bác đưa thư ơi

Cháu có thư không?

Đưa giúp cháu với

Số nhà . . . 10

Khi đọc đến câu cuối cùng “ số nhà ....10” thì đồng thời em đó giơ số nhà 12 của mình lên cho cả lớp xem. Lúc này nhiệm vụ của “ Bác đưa thư” phải tính nhẩm cho nhanh để chọn đúng lá thư có ghi phép tính có kết quả là số tương tương ứng giao cho chủ nhà (ở trường hợp này phải chọn phong bì “5 x 2” hoặc “ 2 x 5” giao cho chủ nhà. Chủ nhà nhận thư và nói lời “cảm ơn”. Cứ như vậy các bạn chơi lại nói và “Bác đưa thư” lại tiếp tục đưa thư cho các nhà.

Nếu “Bác đưa thư “ nhẩm sai, đưa không đúng địa chỉ nhận thì không được đóng vai đưa thư nữa mà trở về chỗ để các bạn khác lên thay.

Nếu các lần đưa thư đều đúng thì sau 3 lần được cô giáo tuyên dương và đổi chỗ cho bạn khác chơi.

3.3.9 Trò chơi 9: Tìm lá cho hoa

( Bài Ôn tập về phép cộng và phép trừ )

* Mục đích :

- Củng cố về cộng, trừ nhẩm đã học

- Rèn tính làm việc theo nhóm

- Chuẩn bị :

+ 2 bông hoa màu bằng bìa cứng, mặt sau gắn nam châm.

9+7 7+9 12-4 12-8

16-9 8+4 16-7 4+8

+ 8 chiếc lá xanh, phía trên ghi các phép tính có gắn nam châm mặt sau

+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em

+ Gắn 2 bông hoa và những chiếc lá lên bảng rồi giới thiệu. Cô có 2 bông hoa mà nhị của nó là kết quả phải chọn nhanh những chiếc lá có phép tính ứng với kết quả ở nhị hoa và gắn vào cành hoa của đội mình để tạo thành bông hoa toán học thật đúng, thật đẹp.

- 2 đội xếp hàng một, khi nghe hiệu lệnh cả 2 đội bắt đầu chơi. Đội nào nhanh, đúng thì sẽ là đội thắng cuộc.

Sau khi đã chấm phân đội thắng - thua, Giáo viên chỉ vào chiếc lá và hỏi :

9+7 : Tại sao con gắn là này cho hoa ? để học sinh trả lời

4+8: Nếu các con gắn chiếc lá này các con sẽ gắn vào bông hoa nào?

Đại diện hai đội trình bày thêm ý kiến, nếu đúng tuyên dương và vỗ tay.

3.3.10 Trò chơi 10: “Tìm bạn máy tính”

Trò chơi này áp dụng dạy các bài phép cộng, trừ, nhân, chia…

* Mục đích : Củng cố các bảng cộng, trừ, nhân, chia. Luyện tính nhẩm nhanh. Từ đó, rèn cho các em tính năng động, nhạy bén.

Ví dụ : Khi dạy bài : “Phép cộng có tổng bằng 100”

* Chuẩn bị : 2 bộ quân bài, mỗi bộ có 5 quân như sau:

* Cách chơi :

Chọn 2 đội, mỗi đội 5 bạn lên chơi, học sinh ở dưới lớp sẽ cổ vũ. Giáo viên đặt úp các quân bài trước mặt hai đội. Khi hai đội đã sẵn sàng, giáo viên hô “bắt đầu” và tính giờ thì tất cả 5 bạn của mỗi đội tự lật quân bài của mình rồi nhẩm và viết kết quả của phép tính lên quân bài. Xong nộp cho giáo viên. Hết 2 phút hoặc nếu đội nào xong trước và đúng thì thắng cuộc và đội đó được cả lớp tung hô “xin chào bạn máy tính” rồi vỗ tay hoan nghênh.

Ngoài những trò chơi như trên, trong các tiết dạy có sử dụng bài giảng điện tử, tôi cũng đưa những trò chơi vào các tiết học. Ví dụ:

* Trò chơi: “Ong tìm hoa

- Mục đích: Củng cố bài Tìm số trừ

- Cách chơi: Mỗi con ong mang một phép tính, học sinh chọn một bông hoa có kết quả tương ứng với phép tính. Kết thúc trò chơi những bạn chọn đúng bông hoa mà chú ong cần tìm sẽ được một phần thưởng.

* Trò chơi: “Hộp quà bí mật”

- Mục đích: Củng cố phép cộng có nhớ trong phạm vi 100, dạng 49 + 25

- Cách chơi: Có 4 hộp quà đã đánh số, học sinh chọn một hộp quà tùy ý. Dưới mỗi hộp là một phép tính. Học sinh chọn hộp quà nào thì nêu kết quả của phép tính ấy. Trả lời đúng được một tràng pháo tay.

Ví dụ học sinh chọn hộp thứ 2, dưới hộp quà sẽ là phép tính 45 + 27 = ? Học sinh sẽ trả lời nhanh đáp án 45 + 27 = 72.

3.4 Sử dụng giáo án điện tử

Giáo án điện tử là phương tiện hỗ trợ cho giáo viên, giúp bài giảng sinh động hơn, học sinh hứng thú học tập và dễ dàng tiếp thu bài. Vì vậy, để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập, khi giảng dạy giáo viên cần phải kết hợp hài hòa giữa màn hình với lời giảng và giữa màn hình với ghi bảng sao cho linh hoạt uyển chuyển.

Với tiết luyện tâp giáo viên sử dụng bài giảng powerpoint lồng ghép với một câu chuyện cổ tích. Mỗi học sinh được yêu cầu thực hiện các bài tậptrong giờ học. Không khí lớp học náo nhiệt hơn khi giáo viên mời học sinh cùng tham gia thử thách một cách rất tự nhiên và dễ thương. Song song đó, màn hình chiếu xuất hiện những kiến thức mới của bài học hôm đó, và giải quyết tốt các bài tập. Học sinh vừa khắc sâu được bài học vừa hứng thú với giờ học toán.

3.5 Tích cực dự giờ

Dự giờ sẽ giúp GV chủ động, tích cực hơn trong bài giảng của mình. Khi đồng nghiệp đến dự giờ, GV sẽ chuẩn bị bài kỹ hơn, sẵn sàng trao đổi về bài dạy trước khi lên lớp. Đây là việc làm hết sức thiết thực và cần thiết. Những lớp học có GV đến dự giờ cũng sẽ sôi nổi, ý thức học tập của HS được nâng cao. Đây là điều kiện thuận lợi để phát huy được sự sáng tạo trong quá trình giảng dạy và cũng là một biện pháp quan trọng giúp GV luôn chuẩn bị đầy đủ kiến thức và hồ sơ, sổ sách trước khi đến lớp, tránh được tình trạng dạy chay, thiếu sự chuẩn bị.

D.HIỆU QUẢ :

Qua nghiên cứu thực nghiệm tôi nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ, các em chú ý say mê học toán, hào hứng khi tham gia một số trò chơi, giúp các em nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin làm cho không khí tiết học sôi nổi, không gò bó, học sinh thực sự bộc lộ hết khả năng của mình.

KẾT LUẬN

1.Kết quả đạt được:

Qua một học kỳ vận dụng “Giúp học sinh lớp 2 hứng thú tiết học Toán ” tôi nhận thấy các em có sự tiến bộ rõ rệt ở môn Toán. Kết quả cụ thể như sau:

Tổng số hs : 37

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Khảo sát đầu năm

10/37

14/37

9 /37

4/37

Kiểm tra giữa kì I

17/37

15/37

4/37

1/37

Kiểm tra cuối kì I

25/37

9/37

3/37

0

2.Ý nghĩa của đề tài:

Qua nội dung giúp học sinh khắc sâu kiến thức và nhớ lâu hơn.

Học sinh vui vẻ thích học tập, hăng hái phát biểu ý kiến và tham gia tiết một cách tích cực.

Phát hiện một số năng khiếu đặc biệt của một số học sinh. Qua đó, giúp tôi giáo dục các em đúng trọng tâm hơn.

Đặc biệt tôi nhận thấy một số em học trung bình, yếu như em : Trí,Thành Đạt, Hưng, Duy, Quỳnh Phương,… đầu năm rất rụt rè, nhút nhát, ít phát biểu nhưng qua nhiều tiết học như vậy làm cho các em mạnh dạn, tự tin hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập

môn Toán ở lớp tôi.

3. Những nhận định chung hướng phát triển của đề tài:

Muốn dạy tốt bất kì một môn học nào thì người giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, sách giáo khoa, đặc trưng bộ môn. Luôn luôn tìm tòi cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với học sinh lớp mình phụ trách. Phương pháp giảng dạy đó phải thu hút được sự chú ý của các em, nhằm gây hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động của các em.

Bản thân người giáo viên cần tự trang bị kiến thức cho mình thông qua sách báo, tài liệu, giáo trình tham khảo và luôn học hỏi các đồng nghiệp đi trước những cái hay, cái mới để áp dụng vào giảng dạy cho được tốt hơn. Đặc biệt ở môn Toán cần sự chính xác cao. Cho nên người giáo viên cần có cuốn sổ tay ghi chép những gì học sinh đạt được và chưa đạt được khi học bài đó để rút kinh nghiệm cho những năm học sau.

Kết hợp tốt mối quan hệ giữa học sinh với nhau để giúp các em cùng tiến bộ.

Trao đổi kinh nghiệm và tiếp nhận sự đóng góp nhiệt tình của các đồng nghiệp. Đồng thời, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình – nhà trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên dạy và học sinh học hiệu quả hơn.

Trên đây là một số kinh nghiệm trò chơi tôi đã áp dụng vào giảng dạy môn Toán ở lớp 2, qua thực nghiệm để cho thấy kết quả khả quan trong lớp do tôi chủ nhiệm. Tôi mong sự đóng góp nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp để hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo những mầm non tương lai của đất nước.

4. Ý kiến đề xuất .

Để dạy học tốt môn Toán tôi có một số ý kiến đề xuất như sau :

* Trang bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ các tiết học.

* Các tổ khối lớp thường xuyên thao giảng môn Toán, tìm ra những phương pháp dạy học hiệu quả nhất, phát huy tính tích cực của học sinh.

Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân trong việc giúp học sinh lớp 2 hứng thú với tiết học toán mà tôi đã thực hiện và thấy có hiệu quả. Chắc chắn trong phần trình bày này sẽ còn nhiều thiếu sót nên rất mong quý đồng nghiệp góp ý bổ sung để tôi vững vàng hơn trong công tác giảng dạy.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

An Bình ngày tháng năm 201

Người thực hiện

Trần Thị Kim Oanh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Sách giáo khoa Toán 2. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
  2. Vở bài tập Toán 2 Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
  3. Sách giáo viên Toán 2. Nhà xuất bản giáo dục Việt NamViệt Nam
  4. Vở bổ trợ nâng cao Toán 2. Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
  5. Thiết kế bài giảng Toán 2. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
  6. Tổ chức một số trò chơi thực hành toán
  7. Giúp em học giỏi toán
Nhắn tin cho tác giả Trường Tiểu Học An Binh B @ 15:07 27/03/2013 Số lượt xem: 16607 Số lượt thích: 1 người (Nguyễn Thị Đào)

Từ khóa » Các Trò Chơi Trong Dạy Học Toán Lớp 2