Trước Bến Văn Lâu | Phanxipăng

Ngày 22-8-1997, tại thành phố Huế, Hội Khoa học Lịch sử và Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên – Huế đã tổ chức Hội thảo kỷ niệm 120 năm sinh nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 – 1961). Hội thảo diễn ra khá độc đáo: hơn 100 đại biểu khắp nơi được nghe tham luận và thưởng thức thơ ca Ưng Bình trên chiếc bằng ghép bởi 6 thuyền rồng neo giữa dòng Hương, trước bến Phu Văn Lâu lịch sử.

Trước bến Văn Lâu. Ảnh: Phanxipăng

           1

            Quả là độc đáo và rất hợp cảnh hợp tình. Lần đầu tiên, một cuộc Hội thảo văn hoá được triển khai giữa dòng Hương, ngay trước địa danh từng đi vào câu hò mái nhì nổi tiếng trong ca nhạc Huế truyền thống:

                        Chiều chiều trước bến Văn Lâu

                        Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm

                        Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông

                        Thuyền ai thấp thoáng bên sông

                        Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

            Câu hò ấy, cùng hàng loạt câu hò mái nhì và hò khoan giã gạo khác, từ lâu hằng quen thuộc với nhiều tầng lớp nhân dân. Như:

                        Một vũng nước trong, mười dòng nước đục

                        Một trăm người tục, một chục người thanh…

            Hoặc:

                        Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược

                        Nước chảy ngược, con cá vược lội ngang…

            Rất nhiều người, trong đó có nhà dân tộc nhạc học nổi tiếng là giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê, trước kia vẫn đinh ninh rằng những câu hát dân gian đó vô danh vô tính tác giả, mãi sau này mới giật mình khi biết do nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị sáng tác.

            Trần Văn Khê phát biểu:

            – Tôi rất xúc động, vì một nhà thơ sáng tác một câu hò hay điệu hát mà dân gian chấp nhận không còn nhớ tên người đặt, tức là nội dung câu hò điệu hát phù hợp với cảm nghĩ, suy tư, hay hoài bão, nguyện vọng của dân chúng, nên đã đi thẳng, đi sâu vào lòng dân chúng, lời lẽ bình dân dễ nhớ, dễ truyền, và dân chúng đã chắt chiu gìn giữ, truyền tụng từ người này đến người khác, từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Ít nhà thơ nào, trừ ra cụ Nguyễn Du với Truyện Kiều, được dân chúng nhớ lời thơ mà quên tên tác giả như thế. Câu hò Chiều chiều trước bến Văn Lâu từ mấy chục năm nay đã được nghệ sĩ ca Huế dùng làm câu mở đầu để ca bài Nam Bình. Một mặt vì thang âm điệu thức của câu hò và của bài hát Nam Bình giống nhau trong cách dùng mấy chữ xự non, xang già, xê và cống hơi non. Cũng có lẽ vì câu hò kết thúc bằng hai chữ nước non dễ tiếp theo hai chữ đầu trong bài Nước non ngàn dặm ra đi…

            Bản thân tôi, ngay từ tấm bé, đã lắm lần thưởng thức câu mái nhì Chiều chiều trước bến Văn Lâu qua sự thể hiện của rất nhiều ca nhân chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư. Song thú thật, chưa bao giờ tôi thấy hay và tót vời xúc cảm như chiều nay, tại Hội nghị này, được nghe lại câu hò quen thuộc do chính Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương – nàng con út của cố thi sĩ Ưng Bình – trình bày. Trên nền nhạc đệm mượt mà do nữ nghệ sĩ kiêm nhà giáo ưu tú Phạm Thuý Hoan – học trò của cố nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, mẹ ruột của hai chị em nghệ sĩ trẻ tài hoa Hải Phượng và Hải Yến – diễn tấu đàn tranh, chị Hỷ Khương say sưa hát bằng tất cả tâm hồn và ngồn ngộn hoài niệm. Giọng hát trong ngần, sáng rõ, lại mang mang u ẩn làm chạnh lòng tất cả cử toạ, khiến nhiều ca sĩ chuyên nghiệp có mặt quá đỗi ngạc nhiên. Họ càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng người hát đã vào ngưỡng lục tuần.

            Nhớ mấy năm trước, tôi ghé thăm nhà chị Hỷ Khương. Ngôi nhà ấy nằm sâu trong một ngõ hẻm ở quận 3, Sài Gòn. Khắp phòng khách, nhìn đâu cùng thấy Ưng Bình. Trên tường là di ảnh nhà thơ và những bức thư pháp chép những câu thơ Ưng Bình. Trong tủ kính là lớp lớp di cảo, có tác phẩm đã in, có tác phẩm chưa xuất bản. Chị trân tàng từng trang, từng chữ, từng kỷ vật, dù nhỏ nhặt nhất, của phụ thân.

            Dịp đó, chị Hỷ Khương kể tôi nghe về chữ ai trong câu hò của Thúc Giạ:

            – Nì, Phanxipăng biết chữ ai nớ chỉ ai không hè? Vua Duy Tân đó. Mùa thu Giáp Ngọ 1954, nhà in Khánh Quỳnh ở Huế vừa in xong cuốn Bán buồn mua vui của ông cụ, chính ông cụ tâm sự với mình: “Thuở nọ, có tin vua Duy Tân giả dạng thường dân ra ngồi câu cá ở Phu Văn Lâu, chờ gặp Trần Cao Vân để mật bàn quốc sự”. Thì ra chuyện đó làm ông cụ vô cùng xúc động nên mới viết câu hò bất hủ. Trong một câu hát khác, ông cụ cũng dùng chữ ai nhưng chỉ môt nhân vật lịch sử khác: Đào Duy Từ. Câu hát nớ như ri:

                        Khi trông lên đò Trạm

                        Khi ngó xuống luỹ Thầy

                        Đố ai có biết dạ này thương ai?

            Câu chuyện trên, về sau chị Hỷ Khương ghi trong tập Hồi ức về cha tôi Ưng Bình Thúc Giạ Thị (NXB Văn Nghệ, TP.HCM, 1996). Tôi còn biết toàn văn Chiều chiều trước bến Văn Lâu đã được giáo sư John Babalan ở Hoa Kỳ dịch sang Anh ngữ và đăng trên tạp chí Asian Arts and Cultures số đặc biệt về Việt Nam, phát hành vào mùa đông 1994.

            Và bây giờ, giữa cuộc Hội thảo, chị Hỷ Khương ngừng giọng hò. Ngoái nhìn di ảnh thân phụ, rồi nhìn dòng sông quê hương, nhìn Phu Văn Lâu cùng Kỳ Đài, chị nghẹn ngào. Sáng nay, đón phái đoàn lên chùa Thiên Hoà làm lễ dâng hương trước lăng mộ nhà thơ Ưng Bình (mộ và bia do chị phụng lập năm 1974), chị cũng sụt sùi. Hôm qua, về Vỹ Dạ thăm Chu Hương Viên – nơi chị từng sống những ngày êm ấm bên cha hiền, đây cũng là “đại bản doanh” một thời của thi xã Vỹ Hương / Hương Bình thi xã – thấy vườn nhà tàn tạ quá, chị lại tức tưởi. Chị rất mong bắt tay trùng tu nơi này để làm Nhà lưu niệm Ưng Bình Thúc Giạ Thị nhưng chưa đủ điều kiện. Hy vọng ước nguyện của chị chóng thành, góp thêm một địa chỉ văn hoá quý báu cho Huế “đẹp và thơ”.

            Trần Thanh Tâm luận định:

            – Từ những năm 1930, mặc dù Thơ Mới ra đời và phát triển mạnh, Ưng Bình vẫn giữ chỗ đứng của mình với sáng tác thơ ca chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.

            Theo tôi, có lẽ cần thêm: vị thế của Thúc Giạ trên thi đàn được củng cố nhờ phần lớn công lao của Tôn Nữ Hỷ Khương.

            Nhà thơ Mộng Tuyết đã dẫn đôi câu thơ của vương tôn thi sĩ khi nhận xét về mối quan hệ phụ tử hiếm thấy:

            – Trong lịch sử văn học của mỗi nước thường ghi những mối tình tri kỷ tri âm giữa hai người bạn, giữa cặp bạn đời, giữa hai nhà thơ, văn đồng điệu, mà hình như hiếm có mối tình thắm thiết tri âm tri kỷ giữa hai cha con – một già đã ngoài 80, một trẻ chừng độ trăng tròn:

                        Cha con ta là đôi tri kỷ,

                        Chung bóng chung hình giữa nước non.

            Cuối bức thư gửi chị Hỷ Khương trước ngày Hội thảo, giáo sư Trần Thanh Đạm – nguyên Hiệu trưởng Đại học Sư phạm TP.HCM – viết những dòng gợi chú ý: “Tôi rất cảm kích trước tấm lòng hiếu thảo của chị, thể hiện trong mọi việc làm của chị từ bao năm nay nhằm giữ gìn và công bố các di thảo văn thơ của cụ. Tôi cũng đã đọc tập Hồi ức về cha tôi… của chị. Người xưa nói kế chí thuật sự là cách thể hiện đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ. Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị có phúc lớn là có những người con trai, con gái tham gia kháng chiến, nối chí yêu nước thương dân của cụ, lại có chị biết bảo tồn, phát huy di sản văn chương của cụ, như vậy là kế chí thuật sự đều đủ. Trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, phải chăng đây là những tấm gương cha hiền, con hiếu rất đáng quý, đáng nêu gương?”.

Bàn thờ Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Ảnh: Phanxipăng

 

         2

            Trở về Sài Gòn, tôi chuẩn bị chuyển bài viết này đến toà soạn thì ngẫu nhiên thú vị xiết bao, đúng lúc Đài Truyền hình thành phố phát sóng trên kênh 9 câu hò quen thuộc ấy: Chiều chiều trước bến Văn Lâu.

            Hay. Nhưng chẳng thể nào hơn chị nổi, Hỷ Khương ạ.

            Bỗng điện thoại đổ chuông. Không ai khác, chính Tôn Nữ Hỷ Khương vừa sáng tác xong một bài thơ mới sau khi dự Hội thảo tại Huế, chị bèn đọc tôi nghe. Đây là mấy dòng cuối:

                        Đèn xa sáng toả long lanh,

                        Lồng theo mặt nước trong xanh êm đềm.

                        Khí thu hoà quyện bóng đêm,

                        Cung đàn tiếng hát càng thêm ấm nồng.

                        Dòng Hương trăng nước mênh mông,

                        Non Bình vời vợi tấc lòng nhớ thương.

            Tôi biết mỗi kỳ huý nhật hoặc các lễ kỷ niệm nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Tôn Nữ Hỷ Khương đều làm thơ về người cha yêu quý. Số lượng bài thơ riêng về đề tài này dễ đã đến hàng chục. Thật hiếm thấy một tình cha con tri kỷ tri âm lâu bền sâu nặng nhường kia.

            Ngẫu hứng, tôi đề nghị Hỷ Khương hát câu mái nhì quen thuộc cho tôi nghe lần nữa. Ngần ngừ chốc lát, chị mới cất giọng. Qua điện thoại, không đàn sáo, không sênh phách, giọng chị vẫn tuyệt vời, đủ sầu, đủ thảm, đủ thương, đủ cảm, đến chạnh lòng nước non.

Sài Gòn, trọng thu Đinh Sửu 1997

Dự lễ giỗ Ưng Bình. Phải qua: Hỷ Khương cùng chồng Trần Bá Thuỳ (đứng), Suy Min, Phanxipăng, Cao Quảng Văn, Hà Đình Nguyên (ngồi)

● Phanxipăng

Đã in trong các sách:

  • Huế chừ của Phanxipăng (NXB Thuận Hoá, Huế, 2000)
  • Hành trình thơ của một Công Tằng Tôn Nữ của nhiều tác giả (NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2009)

Chia sẻ:

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Thuyền Ai Thấp Thoáng Bên Sông