"Bờ sông vẫn gió": Thơ Trúc Thông - Lời bình Phạm Ngọc Thái BỜ SÔNG VẪN GIÓ Lá ngô lay ở bờ sông Bờ sông vẫn gió...người không thấy về Xin người hãy trở về quê Một lần cuối... một lần về cuối thôi Về thương lại bến sông trôi Về buồn lại đã một đời tóc xanh Lệ xin giọt cuối để dành Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha Cây cau cũ giại hiên nhà Còn nghe gió thổi sông xa một lần Con xin ngắn lại đường gần Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi... Trúc Thông Đây là bài thơ mà nhà thơ Trúc Thông khóc mẹ. Mới đọc ngỡ như anh đang đứng trước hương hồn người mẹ của mình đã khuất nơi chín suối, để trào ra những dòng thơ thương cảm. Nhưng không, bài thơ này Trúc Thông đã viết vào năm 1983 trong một lần trở về thăm quê, khi đó người mẹ của anh vẫn đang cùng anh sống ngoài Hà Nội - Một năm sau đó (1984) mẹ của nhà thơ mới qua đời. Nghĩa là, linh cảm về cái mất của bà mẹ già yếu đang gấp gáp đến gần, nên lời thơ nghẹn ngào xúc động, thấm đầy lệ xót xa. Đứng bên con sông Châu chảy qua tỉnh Hà Nam (cũng chính là dòng sông chảy qua quê hương của cố nhà văn Nam Cao, cùng tỉnh với quê hương của Trúc Thông), bên bờ sông ấy nhà thơ than thở: Lá ngô lay ở bờ sông Bờ sông vẫn gió...người không thấy về Hình ảnh bờ sông, bãi ngô rất thân thiết, gần gũi với một làng quê Việt Nam. Đọc câu thơ ta liên tưởng tới bài thơ nổi tiếng "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử, có câu thơ Ông đã viết: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thông qua hình ảnh "... hoa bắp lay" : âm hưởng lay lắt, chuyển động yếu ớt của những bông hoa bắp như thể hơi thở trút ra mỏng manh, cô quắt... đồng hoạ với cảnh "dòng nước buồn thiu" , để diễn tả tâm trạng cô đơn, buồn nản vì thương nhớ người yêu cách biệt... trong mối tình đơn phương của thi nhân. Nhưng cái từ "lay" của những lá ngô trong bài thơ Bờ Sông Vẫn Gió của Trúc Thông thì lại diễn tả tâm trạng xao động, xót thương nghĩ về mẹ- nên chưa chất một cái gì đó đang bồi hồi lay động dâng lên ở trong lòng. Bởi thế, đồng vọng với cái tiếng "lay" kia thì tiếng gió thổi cũng dào dạt mạnh mẽ: " Bờ sông vẫn gió...", để rồi tác giả hạ nốt nửa vế của câu thơ: "...người không thấy về". Vậy là, dù cùng một từ "lay" với hình ảnh gió ven sông, nhưng ở hai bài thơ đã diễn tả hai trạng thái tình cảm khác nhau, đều xúc tích đạt đến hiệu quả của mỗi tình thơ riêng. Đoạn giữa là khổ thơ chính của bài, nó liền mạch tám câu nhưng ý thơ được cấu tứ thành bốn cặp, cứ mỗi cặp hai câu... nối tiếp nhau đan kết một cách khái quát quanh tình cảm và cuộc đời người mẹ, cùng với quê hương: Xin người hãy trở về quê Một lần cuối... một lần về cuối thôi Ta thấy sự gắn bó giữa quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn với tình thân mẫu của nhà thơ. Cái điệp khúc "một lần cuối": hơi thơ dồn dập bởi nỗi lòng mong mỏi, khắc khoải của người con. Với điệp ý về cụm từ "một lần" ở khổ thơ giữa: Một lần cuối... một lần về cuối thôi và: Còn nghe gió thổi sông xa một lần Đến câu kết được điệp lại một lần nữa, thả dần tình thơ như việc xây dựng cao trào xong rồi cởi nút kết thúc một vở kịch vậy: Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi... Nỗi thơ thêm quặn thắt, tạo thành tụ điểm của tình cảm, tư tưởng nhà thơ. Nhưng nhà thơ mong mỏi người mẹ của mình kịp về quê một lần nữa để làm gì? Về thương lại bến sông trôi Về buồn lại đã một đời tóc xanh "Bến sông" nghĩa là quê hương! Còn "bến sông trôi...", chữ "trôi" ở đây vừa nói về năm tháng, lại vừa nói về quãng đời chìm nổi của mẹ đã trải cả "một đời tóc xanh...". Hai câu thơ không chỉ nói về nghĩa gian truân, mà còn hàm ý sâu sắc sự gắn bó máu thịt giữa quê hương với cuộc đời của mẹ. Hai chữ "thương" và "buồn" ở hai câu dùng thật đắt! Nó không phải để gợi lại nỗi sầu khổ của cuộc đời, mà nếu có thì cũng quyện trong những tình cảm thân thương, trìu mến biết bao... làm cho tình thơ cảm kích một cách lạ thường. Thực ra khi tác giả viết: Lệ xin giọt cuối để dành Chỉ là cách nói trào ra do cảm súc thơ, chứ còn cả bài thơ đã đầy lệ rồi! Cái giọt lệ cuối ấy để đến khi: Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha Câu thơ này Trúc Thông đã đề cập đến mối quan hệ tình cảm phu thê, gắn bó không thể tách rời trong cuộc đời của mẹ. Trong thời hiện đại chúng ta ngày nay, nền giáo lý bị xàm xỡ quá nhiều. Nghĩa phu thê... nhiều lúc, nhiều nơi bị pha vỡ từng mảng. Đạo vợ chồng cũng không còn giữ được một quan hệ đạo đức cần thiết. Chồng thì thiếu sự mực thước, vợ lại quá trớn không còn giữ được đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Có lẽ do tác động của cả hai mặt: Một là thực tế khách quan xã hội ít nhiều làm cho lòng tác giả nhức nhối - Nhưng có lẽ phần căn bản, do chính đạo nghĩa sâu sắc của cha mẹ đã in sâu trong ý thức , trái tim của nhà thơ để anh khắc hoạ lên. Thành thử bài thơ tuy viết khái quát mà vẫn đa diện: Gia đình và xã hội, tình cảm và đạo đức gắn bó trong tình yêu quê hương tha thiết. Trong thơ , đó là những hình ảnh cụ thể nhưng lại có ý nghĩa tượng trưng như: "cây cau cũ", "cái giại" ở hiên nhà... (đó là tấm bình phong đan bằng tre , thường thấy ở một số làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ), được tác giả đưa vào trong thơ, nó gắn bó cả cuộc đời của mẹ và gia đình anh. " Bờ sông vẫn gió" của Trúc Thông là một bài thơ lục bát đạt đến độ chuẩn mực, kết hợp với lối gieo thơ theo cảm súc phóng khoáng của thơ hiện đại - Nghĩa là, tác giả chỉ mượn và sử dụng chuẩn mực theo niêm luật của thể loại thơ Đường, ngôn ngữ giầu chất dân gian và mang phong thái của lối hành thơ tự do. Phong vị thi ca thanh tao của chất thơ phương Đông. Nhịp điệu khi thì đều đều theo nhịp hai như ở câu đầu: Lá ngô/... lay ở/... bờ sông... Khi thì dồn nén , hối hấp theo thôi thúc của tình cảm, chuyển sang nhịp bốn ở câu hai: Bờ sông vẫn gió...người không thấy về Hoặc là chuyển thành nhịp ba ở câu bốn: Một lần cuối.../ một lần về / cuối thôi Nửa phần cuối bài trở lại với nhịp thơ hai chữ... tạo thành mạch liên hoàn từ đầu đến cuối. Những câu chữ, hình ảnh được lựa chọn khá tinh tế, gần gũi và chân thực với cuộc sống mà ý tứ vẫn sâu sắc. Giọng thơ ca trong tiếng nhạc lòng buồn, trầm nhưng thơ vẫn mới, vẫn tươi ! Phạm Ngọc Thái |