Truy Tìm Cây QUININE – Di Sản Của Bác Sĩ A. YERSIN

TRUY TÌM CÂY QUININE – DI SẢN CỦA BÁC SỸ A. YERSIN

Ở Đông Dương vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 bệnh sốt rét hoành hành. Việc điều chế thuốc đặc trị sốt rét tại đây gặp khó khăn vì thiếu nguyên liệu, mọi hy vọng tập trung vào việc phát triển cây Quinine (Ký ninh). Năm 1886, Paul Bert, Toàn quyền Đông Dương đã thí điểm trồng loại cây này ở Ba Vì (Hà Nội) nhưng không thành công. Năm 1925, bác sĩ Yersin trồng cây Ký ninh tại Dran, Xuân Thọ (Lâm Đồng) đem lại giá trị thương phẩm và y dược.

Vườn cây Ký ninh tại Dran, Xuân Thọ (Lâm Đồng) .

Cây Quinine (Quinquina, Ký ninh) có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Từ thế kỷ 16, người dân bản địa Peru đã biết sử dụng vỏ cây Quinine (có hoạt chất Quinine, lần đầu tiên được phân lập vào năm 1820), sấy khô và tán thành bột để chữa bệnh sốt rét. Sau đó, các tu sĩ người Tây Ban Nha đã khai thác và chuyển về châu Âu, phương thuốc này giúp cứu sống hàng triệu người khỏi bệnh sốt rét trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ nhất.

Lịch sử di thực cây Ký ninh của BS. A. Yersin

Là một nhà bác học đầy tâm huyết, có nhiều cống hiến đặc biệt về lĩnh vực y học và nông nghiệp, BS. Yersin đã nổ lực khảo sát tìm địa điểm phù hợp để di thực cây Ký ninh từ Java về Việt Nam.

Năm 1917, BS. Yersin đã trồng thử nghiệm cây Ký ninh tại Hòn Bà (Khánh Hòa) bằng cây hạt và cây ghép, nhưng do điều kiện khí hậu và đất đai không thuận lợi, cây phát triển chậm, ngoài ra còn bị nhiễm nấm bệnh. 

Đến năm 1925, BS. Yersin đã chuyển hướng, đưa cây Ký ninh qua trồng ở Dran, Xuân Thọ (Dalat), tại đây cây Ký ninh đã phát triển tốt, ra hoa và kết trái.

Từ năm 1932 - 1942, BS. Yersin gắn bó với Trạm nghiên cứu Lang Hanh (Lâm Đồng) và Viện Pasteur để xây dựng một quy trình tổng hợp từ ươm trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh đến khai thác, chế biến vỏ cây Ký ninh. Các khu vực trồng cây Ký ninh, khoảng 700 ha, đã được thu hoạch vỏ để điều chế thuốc trị bệnh sốt rét. Tuy nhiên trong thời gian chiến tranh, nhiều diện tích trồng Kí ninh bị bỏ hoang, cây chết dần, hiện còn lại rất ít.

Đầu những năm 2000, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tìm đến Hòn Bà để ghi nhận những công trình nghiên cứu của BS. Yersin tại đây. Đã có nhiều đợt khảo sát, tìm kiếm một số loài cây do ông đã di thực, trong đó có cây Ký ninh. Nhưng chỉ phát hiện vết tích một số luống của vườn ươm, ngoài ra không tìm thấy cây Ký ninh.  

Gần đây, với mong muốn di thực cây Kí ninh về trồng tại ngôi mộ của BS. Yersin và ở đỉnh Hòn Bà, nhân chuẩn bị cho kỷ niệm 130 năm ngày đến Việt Nam (7/1891) và 158 năm ngày sinh của BS.Yersin (22/9/1863) việc truy tìm cây Ký-ninh lại được một số nhà nghiên cứu tiếp tục điều tra (dựa trên các tư liệu cũ), có lúc bị nhầm lẫn với loài cây khác. Sau nhiều lần tìm kiếm ở nhiều nơi, với sự giúp sức của một số nhà khoa học tận tụy ở Lâm Đồng, Hội Ái hữu BS. Yersin, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Khánh Hòa, cây Ký ninh đã được nhận diện tại Xuân Thọ (tháng 8/2020).

  Tìm hiểu về cây Ký-ninh 

Danh pháp khoa học:

Cây Ký ninh thuộc chi Cinchona (Tên của chi này là do ông C. Linnaeus đặt vào năm 1742, theo tên của nữ Bá tước Chinchon, vợ của Phó vương Peru). Chi này có khoảng 25 loài, thuộc họ Rubiaceae, hầu hết phân bố ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ.

Theo Phạm Hoàng Hộ (2000), có 4 loài Ký ninh được trồng ở Dalat và các vùng lân cận.

Dựa trên các mẫu vật thu được ở vườn cây Ký ninh tại Xuân Thọ (DL.2020-08-15), cùng với sự giám định của Viện Sinh thái học Miền Nam, loài này có tên khoa học là Cinchona calisaya Wedd.

Tên đồng danh (Syn.): Cinchona ledgeriana (Howard.) Bern.Moens. ex Trimen

Tên địa phương (Peru): Peruvian Bark, Quinine

Tên Việt Nam: Ký ninh lá thuôn, Ký ninh vàng, Canhkina vàng

Hình thái: 

Cây gỗ trung bình, đường kính (D1,3) khoảng 30cm, chiều cao 10-15 m. Cành non vuông cạnh, có lông mịn. Lá đơn, mép nguyên, mọc đối, phiến lá hình xoan, thuôn, 10-15 x 4-7cm; đầu và đuôi lá nhọn, đặc biệt có các tuyến ở mặt sau lá (nách gân bên); lá kèm hình bản sớm rụng. Lá non có màu nâu đỏ.

Hoa tự : Chùm tụ tán, dạng chùy, cao 15 cm, mọc ở đầu cành, phủ lông mịn.

Hoa nhỏ, mẫu 5, rộng 1 cm, tràng hợp hình ống, cánh hoa màu trắng, mùi thơm dịu, nhiều lông dài. Bầu dưới, 2 ngăn, đầu nhụy chẻ 2.

Quả nang, 2 mảnh, hình trụ hẹp 1,5 x 0,4 cm; hạt nhỏ, dẹp có cánh mỏng

Mùa hoa: tháng 8-9, quả: 10-11.

Sinh thái:

Mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ, độ cao 400-3.000 m, thích hợp với lượng mưa khoảng 2.000 mm/năm, nhiệt độ trung bình 17-240C. Yêu cầu đất ẩm, thoát nước tốt; pH: 5-6; cây chịu nắng, hoặc bóng râm nhẹ.

Cây bắt đầu ra hoa sau 3 - 4 năm. Thu hoạch vỏ sau 8 - 12 năm.

Thành phần:

Vỏ cây có vị đắng, chứa nhiều ancaloid, đặc biệt là quinine và quinidine. Có tới 70 - 80% tổng số ancaloid có trong vỏ cây là quinine.

Công dụng: Dùng để điều trị và phòng bệnh sốt rét. Ngoài ra, còn có tác dụng giảm đau, hạ nhiệt trong điều trị cảm cúm, đau dây thần kinh, co cơ và rung tim.

Sử dụng trong thực phẩm: Làm hương liệu đắng trong nước bổ và đồ uống có ga.

Lưu ý, phải tránh dùng liều lượng lớn và liên tục vì sẽ gây tác dụng phụ: nhức đầu, chóng mặt,  giảm thính lực và nhịp tim không đều.

Mặc dù ngày nay, đã có nhiều loại thuốc mới để điều trị bệnh sốt rét, nhưng cây Ký ninh vẫn còn được trồng và sử dụng với các tác dụng khác.

Việc di thực cây Ký ninh về lại Hòn Bà mang ý nghĩa văn hóa, lịch sử, để tỏ lòng tri ân đối với BS. Yersin, Công dân danh dự Việt Nam, người đã thừa nhận Nha Trang – Khánh Hòa là quê hương của mình./.

Trần Giỏi

Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Khánh Hòa  

 

Tài liệu tham khảo:

  • Phạm Hoàng Hộ, 2000. Cây cỏ Việt Nam - Quyển 3, p.135. Nhà xuất bản Trẻ.
  • Nguyễn Gia Nùng, 2012. Những mẫu chuyện về Yersin. Nhà xuất bản Trẻ.
  • http://www.theplantlist.org/tpl1.1/record/kew-40562
  • https://pfaf.org/user/Plant.aspx?LatinName=Cinchona+ledgeriana

HÌNH ẢNH

Thân cây Ký ninh

 

 

Hoa và quả của cây Ký ninh

Quả và hạt của cây Ký ninh

Từ khóa » Thuốc Ký Ninh Tác Dụng Phụ