Truy Tìm Nguồn Gốc Của Một Số Thành Ngữ Thuần Việt Có Nhiều Cách ...

NGÔN NGỮ

SỐ 9 2012

TRUY TÌM NGUỒN GỐC

CỦA MỘT SỐ THÀNH NGỮ THUẦN VIỆT

CÓ NHIỀU CÁCH GIẢI THÍCH

ThS ĐỖ THỊ THU HƯƠNG

GS.TS NGUYỄN ĐỨC TỒN

1. Mở đầu

Nhìn chung, các nhà ngôn ngữ

học đều quan niệm thành ngữ là một

loại tổ hợp từ cố định, bền vững về

hình thái cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng

bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng

rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt

là trong khẩu ngữ (chẳng hạn, Hoàng

Văn Hành [7, 31]; Nguyễn Thiện

Giáp [6]…).

Trong bài viết này, thành ngữ

thuần Việt được quan niệm như sau:

trước hết đó là những thành ngữ do

người Việt tự sáng tạo dựa trên chất

liệu từ ngữ thuần Việt. Thí dụ: già

kén kẹn hom, già đòn non nhẽ, con

cà con kê, dây mơ rễ má, dán bùa

luồn kèo, nuôi ong tay áo, già trái

non hột, mũi dại lái phải chịu đòn,

mèo mả gà đồng, mèo già hóa cáo,

bán vợ đợ con, mỏng mày hay hạt,

chó có váy lĩnh , đồng không mông

quạnh, đèo heo hút gió, rách như tổ

đỉa, nuôi ong tay áo, v.v.. Đó có thể

còn là các thành ngữ được người Việt

tạo ra bằng cách mượn các từ ngữ Hán

Việt hoặc các điển tích, điển cố trong

tiếng Hán để làm chất liệu cấu tạo nên

thành ngữ theo lối tư duy của người

Việt, phản ánh đời sống tâm hồn tình

cảm của người Việt. Thí dụ: nóng

như Trương Phi, lẩy bẩy như Cao

Biền dậy non, chạy rống Bái Công,

đa nghi như Tào Tháo, bát cơm phiếu

mẫu, v.v..

2. Tìm hiểu nguồn gốc của một

số thành ngữ có nhiều cách giải thích

khác nhau

Cho đến nay, vấn đề truy tìm

nguồn gốc của các thành ngữ luôn

luôn là một đề tài hấp dẫn đối với các

nhà nghiên cứu. Rất nhiều thành ngữ

nếu dựa vào các thành tố cấu tạo và

nội dung ngữ nghĩa ta có thể xác định

được ngay khá rõ chúng ra đời từ đâu.

Thí dụ: có nhiều thành ngữ được ra

đời từ các phong tục như tang ma,

hôn nhân, lễ tết, lễ hội…: thương

vay khóc mướn/ khóc mướn thương

vay; khóc như cha chết; chôn sấp

liệm ngửa; ba hồn bảy vía; ba hồn

chín vía; giữ như giữ mả tổ; rước voi

về giày mả tổ; đào mồ cuốc mả; chửi

ủng mồ ủng mả; mồ yên mả đẹp; v.v..

Thành ngữ cao như minh tinh cũng

có xuất xứ từ phong tục tang ma. Cao

như minh tinh thường dùng để chỉ

trạng thái rất cao, cao lêu đêu. Minh

tinh là một vật không thể thiếu trong

lễ tang, được làm bằng vải đỏ dài khoảng Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

7 thước (thước cổ), trên đó ghi họ tên,

tên húy, chức tước của người đã mất.

Dải vải này được buộc vào một cành

tre dài, thường do một người lớn tuổi

cầm và đi trước quan tài.

Tuy vậy, đối với một số thành

ngữ, việc tìm hiểu về nguồn gốc của

chúng không phải là đơn giản. Như

chúng ta biết, hầu hết các thành ngữ

ra đời từ rất xa xưa, do những đặc điểm

như tính biến thể, tính truyền miệng

nên một thành ngữ có thể có nhiều

cách giải thích khác nhau về nguồn

gốc. Điều này không chỉ gây khó khăn

trong việc giải thích về nguồn gốc của

thành ngữ mà còn liên quan đến việc

hiểu và vận dụng chính xác nghĩa của

thành ngữ.

Dựa vào tư liệu thu thập được,

chúng tôi nhận thấy có khá nhiều thành

ngữ được giải thích nguồn gốc theo

nhiều cách khác nhau. Có thể chia

các thành ngữ loại này thành ba nhóm

sau đây:

Thứ nhất, những thành ngữ có

nhiều cách giải thích xuất xứ do dựa

vào những hiện tượng văn hóa khác

nhau. Thí dụ: chạy như cờ lông công,

nuôi ong tay áo, vụng chèo khéo chống,

nghèo rớt mồng tơi, vắng như chùa

Bà Đanh...

Thứ hai, những thành ngữ có

nhiều cách giải thích xuất xứ do chúng

có hiện tượng biến thể về thành tố

cấu tạo dẫn đến tạo ra các thành ngữ/

biến thể thành ngữ khác nhau. Thí

dụ: mũi vạy lái phải chịu đòn và mũi

dại lái phải chịu đòn, chờ được mạ

thì má đã sưng và chờ được vạ thì

má đã sưng hay chờ được nạ thì má

đã sưng, v.v..

Thứ ba, những thành ngữ được

giải thích có nguồn gốc cả trong tiếng

Hán và tiếng Việt do có sự trùng nhau

về hiện thực khách quan được thành

ngữ phản ánh và lối tư duy của hai

dân tộc. Thí dụ: ếch ngồi đáy giếng,

đàn gẩy tai trâu, v.v.. Nhóm này có

số lượng không nhiều .

2.1. Thành ngữ có nhiều cách

giải thích nguồn gốc do dựa vào những

hiện tượng văn hóa khác nhau.

* Thành ngữ chạy như cờ lông

công

Đây là thành ngữ dùng để chỉ

hoạt động chạy đi chạy lại vất vả,

lăng xăng mà chẳng được tích sự gì.

Phần nghĩa chung của thành ngữ này

được các từ điển giải thích khá thống

nhất. Tuy nhiên, đi sâu tìm hiểu các

yếu tố cấu tạo nên thành ngữ này,

chúng ta sẽ thấy nhiều điều bất ngờ

mà các từ điển không đề cập đến.

Trước hết, yếu tố chạy trong thành

ngữ này mang nghĩa tường minh, không

có gì phải bàn cãi. Yếu tố gây ra sự

mập mờ, khó hiểu cho thành ngữ này

chính là cờ lông công. Cụm từ này

có nhiều cách giải thích khác nhau.

Cờ trong cờ lông công là "cái cờ" hay

là "một trò chơi trong dân gian (cờ

tướng)"? Nếu là "cái cờ" thì có phải

làm bằng lông công hay không?

Tác giả Lê Gia trong 1575 thành

ngữ, tục ngữ cần bàn thêm đã giải

thích nguồn gốc của thành ngữ này

như sau: Cờ ở đây được hiểu là "trò

đánh cờ", một trò chơi thường được

tổ chức trong các lễ hội dân gian. Trong

các lễ hội lớn, người ta thường tổ chức

thi đánh cờ tướng. Bàn cờ được vẽ

trên một khoảng sân rộng, các con

cờ thì do người cầm, một bên nam, Truy tìm...

13

một bên nữ, do đó mà gọi là "cờ người".

Các con cờ di chuyển theo lệnh của

người chơi cờ đứng ở hai bên. Mỗi

con cờ có tên riêng được viết trên hai

mặt của một miếng ván gỗ mỏng và

được sơn màu sặc sỡ. Mỗi miếng ván

đó được gắn vào đầu một cây gậy dài

vừa đủ để có thể chống xuống đất.

Mỗi con cờ ấy có hình dáng đẹp đẽ,

sặc sỡ và được gắn vào một cái cọng

dài nên được gọi là cờ lông công. Các

con cờ lông công ấy do người cầm,

di chuyển ngang dọc, qua lại, tới lui,

lên xuống, xiên chéo... theo lệnh của

người chơi cờ. Từ đây, hình thành

nên cụm từ chạy như cờ lông công

với nghĩa là chạy qua chạy lại, chạy

tới chạy lui, xiên xéo, nhanh chậm

rối rít [5,158].

Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi

được biết cờ người là một trò chơi

dân gian mang đậm bản sắc văn hóa

dân tộc. Nó không chỉ là một trò giải

trí đơn thuần mà còn là một cuộc đấu

trí đầy mưu lược. Mỗi ván cờ chẳng

khác gì một trận chiến đấu. Vì thế,

các quân cờ cũng được quy định hết

sức nghiêm ngặt. Người đóng các quân

cờ phải có tư thế nghiêm chỉnh, đứng

đắn, tình cảm và động tác phù hợp

với nước đi. Chỉ khi có hiệu lệnh của

người chơi "các quân cờ - người" mới

được di chuyển và cũng chỉ được đi

từng nước một. Cho nên, nhận định

nói trên của tác giả Lê Gia là không

phù hợp với thực tế chơi cờ.

Một điều hết sức thú vị là, khi

tìm hiểu về lịch sử trang phục các triều

đại phong kiến Việt Nam, chúng tôi

bắt gặp cách giải thích thứ hai về nguồn

gốc của thành ngữ này. Theo đó, từ

thời Hùng Vương, trong các lễ hội

lớn, trang phục của con người thời

kì này gồm có bộ áo lễ, mũ lông chim,

áo choàng rộng cho cả nam lẫn nữ.

Dựa vào những di chỉ khảo cổ học,

người ta thấy, thời chúa Trịnh, chúa

Nguyễn, trên những chiếc mũ quân

của những người lính trạm có cắm

lông chim và trên đầu ngựa lưu tinh

chạy trạm có gắn ba chiếc lông chim

công. Do đó người Việt có câu chạy

như cờ lông công.

Gần với cách giải thích trên, Hoàng

Văn Hành cho rằng, cờ lông công

trong thành ngữ này là cờ làm bằng

lông con công. Đây là loại cờ hiệu

của những người lính trạm xưa kia,

thường dùng khi chạy công văn hỏa

tốc. Thời xưa, khi phương tiện giao

thông chưa phát triển, việc đi lại chủ

yếu dựa vào sức người và sức ngựa.

Để truyền đạt các mệnh lệnh, công

văn, chỉ dụ... của triều đình, nhà nước

phong kiến đặt ra các trạm và tuyển

mộ các loại lính trạm, phu trạm. Các

lính trạm phải dùng ngựa để di chuyển

công văn từ nơi này đến nơi khác,

trên đầu ngựa thường cắm một lá cờ

hiệu làm bằng lông con công. Việc

truyền đạt công văn, giấy tờ diễn ra

liên tục, dồn dập, các lính trạm phải

đi lại rất vất vả, hết cung đường này

đến cung đường khác (mỗi cung đường

dài khoảng 20 cây số). Người đời nhìn

thấy cờ hiệu lông công của những

người lính trạm trên khắp các nẻo

đường của đất nước. Từ thực tế ấy,

dân gian khái quát nên thành ngữ chạy

như cờ lông công [8, 74-76].

Từ hình ảnh người lính phu trạm

trong cách giải thích trên, chúng tôi

lần giở những trang lịch sử của ngành

bưu chính [22] và được biết: Việc

truyền thông tin liên lạc không phải

đến thời thuộc Pháp mới có mà được Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

thực hiện từ rất xa xưa. Ngay từ thời

Lý Thái Tôn (1028-1054), để chạy

công văn giấy tờ từ kinh thành tới các

tỉnh, triều đình đã đặt ra các trạm đưa

thư gọi là nhà trạm. Từ năm Quý Mùi

1043, Lý Thái Tôn đã cho phân chia

các quan lộ ra thành từng cung một,

mỗi cung đặt một nhà trạm. Nhà trạm

chuyên coi việc chạy công văn, giấy

tờ từ kinh thành đến các tỉnh, đồng

thời đó cũng là nơi nghỉ chân, thay

ngựa, thay phu. Đến thời Hồ Quý Ly

(1400- 1407), nhà Hồ đã mở rộng thêm

đường cái quan để tạo điều kiện thuận

lợi cho thông tin liên lạc. Qua mỗi

triều đại, triều đình đều có sự chăm

lo cho ngành bưu chính. Đến thời nhà

Lê, tổ chức hệ thống bưu chính đã

trở nên chặt chẽ. Trên các quan lộ đã

có 54 cung dịch, mỗi cung có nhà

trạm xây tường, lợp lá, xung quanh

có hào, bốn góc đều đặt chòi canh.

Mỗi trạm do một người đội trạm phụ

trách, một đội phó, 10 phu trạm và 4

con ngựa tốt. Lính trạm ăn mặc như

dân thường, chỉ khác là khi đi công

vụ, họ đeo một cái chuông hoặc lục

lạc trên vai, như thế để mọi người

biết mà tránh cho lính trạm đi không

bị cản đường. Tay cầm một một nắm

lông gà hoặc một bó đuốc cháy dở

để làm hiệu.

Ngày 6-6-1971, Bưu chính Sài

Gòn đã phát hành bộ tem về người

lính phu trạm thời xưa. Bộ tem vẽ

hình người lính trạm đang phi ngựa

hỏa tốc để chuyển công văn, giấy tờ.

Trên đầu ngựa có gắn ba chiếc lông

công. Bằng chứng này thêm một lần

nữa khẳng định sự ra đời của thành

ngữ chạy như cờ lông công gắn với

hình ảnh người lính đưa thư từ, công

văn thời xưa.

* Thành ngữ nuôi ong tay áo

Đây là một thành ngữ rất thông

dụng trong tiếng Việt. Tuy vậy không

phải ai cũng biết được thấu đáo gốc

tích thành ngữ này.

Phần lớn các từ điển giải thích

thành ngữ, tục ngữ đều có cách hiểu

thống nhất về thành ngữ này là "nuôi

dưỡng, giúp đỡ kẻ xấu, làm hại mình".

Tuy nhiên, đi sâu tìm hiểu các thành

tố cấu tạo nên thành ngữ này thì có

nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến

cho rằng ong là "con ong", tay áo tức

là "ống tay áo, một bộ phận của cái

áo". Hiểu theo cách này, nuôi ong

tay áo tức là nuôi con ong trong tay

áo, như vậy sẽ có ngày bị ong đốt.

Song có ai lại dại dột đến mức nuôi

ong trong tay áo mình? Đây là một

cách hiểu sai lệch về từ nguyên dân

gian có liên quan đến nguồn gốc của

thành ngữ trên.

Thực tế, ong tay áo là một loại

ong màu đen. Đây là một loài ong

rất quen thuộc với những người dân

ở các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Điện

Biên,... Ong tay áo thường làm tổ trên

cành cây, tổ ong buông thụng xuống

như hình dáng ống tay áo nên mới

được gọi như vậy. Khi ong tay áo

không tìm được chỗ làm tổ trên cây,

chúng thường chọn những cột gỗ

ngoài hiên, ngoài hè để làm tổ. Theo

quan niệm xưa, loại ong này làm tổ

trong nhà thường mang đến những

điều không may mắn cho gia chủ, vì

vậy người ta thường hun khói để xua

đuổi chúng. Trái với ong tay áo, loại

ong vàng thường làm tổ hình tròn

như đài sen, trông rất đẹp. Ong vàng

làm tổ trong nhà được coi như một

điềm lành, vì vậy, chúng không bị

xua đuổi như ong tay áo. Truy tìm...

13

Từ đặc điểm nói trên của loài

ong tay áo, người ta quan niệm nuôi

con ong tay áo trong vườn nhà tức là

nuôi dưỡng mầm họa, nó sẽ mang tai

ương đến cho chủ nhà lúc nào không

hay. Do vậy, dân gian có câu thành

ngữ nuôi ong tay áo. Sự chuyển nghĩa,

từ nghĩa "con ong tay áo" sang nghĩa

"(nuôi dưỡng) mầm họa" dựa vào cơ

chế liên tưởng tương đồng, tức ẩn dụ.

Gần nghĩa với thành ngữ nuôi

ong tay áo, tiếng Việt còn có các thành

ngữ: nuôi cò cò mổ mắt, nuôi khỉ

giữ nhà, nuôi hùm để họa.

* Thành ngữ bắt cá hai tay

Để chỉ hành động tham lam, ôm

đồm, muốn có nhiều thứ, muốn làm

nhiều việc cùng một lúc, để nếu mất

cái này, hỏng việc này thì hi vọng còn

được cái kia, hoặc việc kia, người

Việt dùng thành ngữ bắt cá hai tay.

Nhìn chung thành ngữ này thường

được dùng với sắc thái phê phán.

Có một cách hiểu rất phổ biến

về thành ngữ này như sau: bắt cá hai

tay tức là "hai tay mỗi tay bắt một

con cá và kết cục là chẳng được con

nào cả". Từ điển của Vũ Dung, Vũ

Thúy Anh, Vũ Quang Hào [3] giải

thích: "nghĩa đen của thành ngữ này

là mỗi tay bắt một con cá, kết quả là

tuột mất cả, chẳng được con nào. Nghĩa

bóng là hành động khôn lỏi, tham

lam, ôm đồm, muốn có nhiều thứ,

muốn làm nhiều việc cùng một lúc".

Trong cuốn Kể chuyện thành ngữ,

tục ngữ [8], Hoàng Văn Hành cũng

hoàn toàn nhất trí với cách hiểu trên.

Từ điển thành ngữ tiếng Việt của

Nguyễn Lực thì chú giải nghĩa của

thành ngữ này là "khôn ngoan, tham

gia cả hai nơi hay hai bên để có lợi".

Như vậy, ý nghĩa biểu trưng của

thành ngữ bắt cá hai tay được hiểu

một cách thống nhất. Tuy nhiên, đi

sâu tìm hiểu cơ sở hình thành nên

thành ngữ này thì thấy nảy sinh nhiều

vấn đề gây tranh cãi. Yếu tố gây tranh

cãi ở đây chính là nằm ở tổ hợp bắt

cá. Trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng

Phê chủ biên [14], từ cá ngoài nghĩa

“động vật sống có xương sống, sống

dưới nước, thở bằng mang, bơi bằng

vây” còn có nghĩa là: “cược, đánh

cược”. Đại Nam quốc âm tự vị của

Huỳnh Tịnh Paulus Của cũng giải

nghĩa từ cá là “cá cược, cược với

nhau” [2, 86]. Như vậy, ở đây nên

hiểu bắt cá là dùng tay (một tay hay

cả hai tay) để bắt con cá hay bắt cá

là một từ lóng chuyên dùng trong

giới cờ bạc, cá độ?

Theo chúng tôi, cá trong bắt cá

hai tay có nghĩa là "đánh cược" (chứ

không phải "con cá"), nên bắt cá là

nhận đánh cược bằng cách bắt (chọn)

một trong hai đấu thủ (gà chọi, cá chọi,

võ sĩ...), một trong hai phe (đội bóng,

đội bơi thuyền...). Nếu bên mình bắt

mà thắng thì mình sẽ được cuộc, ngược

lại thì sẽ thua cuộc. Nghĩa này của

tổ hợp bắt cá đã được ghi trong Việt

Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê

Ngọc Trụ (dẫn theo [1]) như sau: "Bắt

cá (...) nhận đánh cuộc: ra trường gà

bắt cá, bắt cá đá banh".

Vậy bắt cá hai tay có nghĩa là

nhận đánh cuộc bằng cách bắt cả hai

bên đối nghịch nhau, vừa bắt bên

này vừa bắt bên kia tùy theo tình

thế, để nếu hỏng bên này thì hi vọng

được bên kia. Từ tiếng lóng của dân

chơi cờ bạc, cụm từ này đã có sự

chuyển nghĩa. Dựa vào quy luật liên

tương đồng, nó chuyển sang chỉ hành Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

động tham lam, ôm đồm, mưu làm

nhiều việc cùng một lúc, hi vọng

hỏng việc này thì được việc kia, kết

quả là chẳng được việc gì.

* Thành ngữ vắng như chùa Bà

Đanh

Thành ngữ vắng như chùa Bà

Đanh cũng được giải thích nguồn gốc

theo nhiều cách khác nhau do cách

hiểu khác nhau về địa danh chùa Bà

Đanh. Theo cách giải thích thông

thường, chùa Bà Đanh (tên nôm của

chùa Châu Lâm) là một ngôi chùa

cổ nằm ở làng Thụy Chương, Hà Nội,

(nay là phường Thụy Khuê, quận Tây

Hồ). Chùa này được cất lên cùng với

viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh

Tông (1460-1497) ở làng Thụy Chương,

Hà Nội. Vào thời đó, viện Châu Lâm

được dùng làm chỗ ở cho những người

Chiêm Thành được đưa về sau các

cuộc chiến tranh, còn chùa Châu Lâm

là nơi dành cho họ cúng lễ, vì hầu

hết những người này đều theo đạo

Phật. Sau khi thực dân Pháp chiếm

đóng Hà Nội, chúng đã chiếm khu

đất này để lập trường Trung học bảo

hộ (1907), nay là trụ sở của Trường

Trung học Chu Văn An, vì thế chùa

Châu Lâm phải rời về phía tây nam,

ở cuối làng và đổi tên thành chùa

Phúc Lâm. Dấu tích của chùa Phúc

Lâm hiện còn lưu giữ lại được tấm

bia ghi rõ Bà Đanh tự (chùa Bà Đanh).

Tục truyền, Bà Đanh là một người

đàn bà có công gây dựng nên ngôi

chùa này. Do phải di dời vị trí vào

một nơi hẻo lánh, ít người đi lại nên

chùa ngày càng trở nên vắng vẻ, dần

dần nó trở thành một hình ảnh để so

sánh với bất kì nơi hoang vắng nào.

Cách giải thích như trên về nguồn

gốc của thành ngữ vắng như chùa

Bà Đanh cũng được các tác giả Tiêu

Hà Minh, Vũ Dung khẳng định trong

các cuốn [12] và [3].

Tuy nhiên, qua một số tư liệu,

chúng tôi biết thêm về một địa danh

nữa cũng có tên là chùa Bà Đanh.

Chùa này không nằm ở Hà Nội mà

nằm ở vùng Kim Bảng, tỉnh Hà Nam,

nơi có ngọn núi Ngũ Động và đền

thờ Lý Thường Kiệt. Chùa Bà Đanh

được xây dựng từ thời L ‎ ý (thế kỉ XI)

do một người đàn bà giàu có trong

làng cung tiến, làng có tên chữ là

Đinh Xá (nghĩa là "nơi ở của dòng

họ Đinh"), tên nôm gọi là Đanh (nhiều

địa phương cũng gọi "cái đinh" là

"cái đanh"), vì vậy ngôi chùa được

gọi là chùa Bà Đanh. Theo các tài

liệu mô tả thì ngôi chùa này nằm nép

mình ven khúc uốn lượn của dòng

sông Đáy. Đó là một vị trí rất hẻo

lánh, thời xưa nơi đây toàn rừng rậm,

ba mặt giáp sông, bên kia là ngọn

núi Ngọc linh thiêng, thậm chí đêm

đêm còn có thú dữ đến cào cổng chùa,

vì vậy rất ít người qua lại chốn này.

Có lẽ do cảnh chùa u tịch, cô liêu,

vắng vẻ quanh năm nên người dân

nơi đây đã ví vắng như chùa Bà Đanh.

Từ thực tế này chúng tôi nhận

thấy để đi đến kết luận cuối cùng về

nguồn gốc của thành ngữ vắng như

chùa Bà Đanh là một điều rất khó.

Bước đầu, chúng tôi tạm thời đưa ra

một vài luận giải như sau: Nét nổi

bật trong văn hóa tín ngưỡng của

người Việt Nam là tín ngưỡng thờ

thần, trong đó việc thờ các nữ thần

chiếm ưu thế. Nữ thần của ta không

phải là những cô gái trẻ đẹp mà là

các Bà mẹ, các Mẫu. Tục thờ Mẫu

là một tín ngưỡng Việt Nam điển hình.

Chính nét văn hóa này giải thích vì Truy tìm...

13

sao cùng một vị nữ thần nhưng được

người Việt thờ phụng ở nhiều địa

phương khác nhau. Chẳng hạn, Bà

Chúa Kho vừa được thờ ở Bắc Ninh

vừa được thờ ở Hà Nội, hay bà Chúa

Liễu cũng được thờ cúng ở nhiều

nơi như Hưng Yên, Nam Định, Hà

Nội v.v... Với Bà chúa Đanh chúng

tôi cho rằng cũng tương tự như vậy.

Bà chúa Đanh có thể được thờ ở Hà

Nội hay Hà Nam. Như vậy, khó có

thể xác định chính xác địa danh chùa

Bà Đanh ở địa phương nào là có trước.

Theo Hoàng Văn Hành [8, 481- 482],

chùa Bà Đanh ở Hà Nội được xây

dựng vào thời vua Lê Thánh Tông

(1460-1497). Trong khi đó, chùa Bà

Đanh ở Kim Bảng, Hà Nam lại được

xây dựng từ thời L ‎ ý thế kỉ XI. Vậy

chùa Bà Đanh ở huyện Kim Bảng,

tỉnh Hà Nam ra đời trước ngôi chùa

Bà Đanh ở Hà Nội. Thêm vào đó, lí

do mà một số tác giả đưa ra để giải

thích cho sự vắng vẻ của ngôi chùa

nói trên là thiếu sức thuyết phục. Vì

chùa chuyển đến một vị trí hẻo lánh,

số người đến lễ bái ngày một ít đi nên

chùa dần dần trở nên hoang vắng,

tàn phế.

Dựa vào những mô tả và những

phân tích nói trên về chùa Bà Đanh

ở Hà Nam, chúng tôi nghiêng về cách

giải thích thứ hai, cho rằng thành ngữ

vắng như chùa Bà Đanh có xuất xứ

từ ngôi chùa Bà Đanh ở tỉnh Hà Nam.

* Thành ngữ công tử bột

Thành ngữ công tử bột thường

dùng để ví những chàng thanh niên

con nhà giàu có vẻ ngoài bảnh bao,

trắng trẻo, nhưng ngơ ngác, vụng về

trong cuộc sống, thích chơi bời, lười

lao động. Sắc thái đánh giá trong

thành ngữ này nghiêng về âm tính,

thường sử dụng với mục đích mỉa

mai, châm biếm, chế giễu. Xung quanh

nguồn gốc của thành ngữ này cũng có

khá nhiều những luận giải khác nhau.

Sách Kể chuyện thành ngữ, tục

ngữ của Hoàng Văn Hành giải thích

về thành ngữ này như sau: Công tử

bột không phải ai xa lạ mà chính là

các công chức ngành dây thép (bưu

điện) trong thời Pháp thuộc. Thuở

ấy, các quan chức này thường ăn diện

quần áo trắng tinh, bảnh bao, cứ chạy

nhong nhong như cờ lông công trên

các đường phố lớn ở thành phố... Trong

mắt người lao động, bọn họ là loại

người ăn trắng mặc trơn. Nhưng bột

là gì? Trong cách hiểu dân gian, dường

như có sự trùng âm giữa từ bột với

nghĩa trong bột gạo, bột mì, bột sắn,

phỗng bột cũng như các thứ đồ chơi

của trẻ em xinh xắn, bụ bẫm. Bột

trong thành ngữ công tử bột vốn là

cách đọc chệch của âm poste trong

tiếng Pháp, có nghĩa là "bưu điện".

Như vậy, công tử bột là chàng công

tử làm nghề bưu điện hoặc liên quan

đến nghề bưu điện [8, 119-120].

Giải thích trên của Hoàng Văn

Hành có điểm chưa hợp lí ở chỗ: Công

việc của các công chức bưu điện là

đưa thư, do vậy, suốt ngày họ phải

chạy vất vả, ngược xuôi trên các đường

phố. Một công việc như vậy thì không

thể cho là an nhàn, rảnh rỗi được.

Trong khi từ công tử nghĩa gốc vốn

chỉ con trai nhà quan hoặc con nhà

quyền quý. Những cậu ấm này thường

được nuôi dưỡng, chăm bẵm chu đáo,

chỉ biết ăn mà không biết làm, thể

chất yếu ớt, tinh thần bạc nhược. Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

Liên quan đến nguồn gốc của

thành ngữ này, nhà văn Nguyễn Công

Hoan cung cấp một câu chuyện như

sau: Đây là tiếng chế giễu một người

học sinh đi ăn cắp, tên là Nguyễn

Đức Quý, con một viên chức tòng

sự tại sở Bưu điện Hà Nội. Hồi còn

đi học, Quý mê một cô đào hát tên

là Minh ở rạp Quảng Lạc. Quý muốn

tặng cho Minh một nhẫn kim cương,

bèn nghĩ cách ăn cắp ở cửa hàng Gôđa.

Buổi chiều, cửa hàng đóng cửa lúc 7

giờ. Quý trốn ở lại, núp trong phòng

thử, chờ khi mọi người về hết, cửa

đóng, đèn tắt, Đức mới lần ra tủ đồ

nữ trang, lấy dao cắt kính rạch kính,

rồi thó một chiếc nhẫn kim cương.

Lấy xong, Quý lại vào chỗ cũ đứng

đó suốt đêm, định bụng sáng hôm

sau cửa hàng mở, Quý sẽ lén ra hòa

lẫn vào đám khách mà chuồn. Nhưng

chẳng may cho Quý, sáng đó một

nhân viên đến sớm quét dọn, phát

giác ra nên Quý bị tóm cổ. Khi điều

tra, người ta biết Quý là con một viên

chức cao cấp của Sở bưu điện, nên

gọi nhạo Quý là công tử, và vì bưu

điện tiếng Pháp đọc là poste nên gọi

là công tử poste. Dần dần, người ta

đọc chệch ra thành công tử bột với

hàm ý con trai hư đốn của người làm

"pốt" (dẫn theo [13]).

Câu chuyện nhà văn Nguyễn

Công Hoan kể trên xem ra hợp lí hơn

cách giải thích của Hoàng Văn Hành

ở chỗ: Công tử bột không phải là viên

chức ngành bưu điện mà là con của

một viên chức ngành bưu điện. Giải

thích như vậy cũng phù hợp với nội

dung ngữ nghĩa của cụm từ công tử

bột. Hơn nữa, câu chuyện mà nhà

văn cung cấp ở trên được kể rõ ràng,

cụ thể, dẫn chứng người thật việc

thật. Câu chuyện chàng công tử Quý

ăn cắp đã được đăng tải trên báo Trung

Bắc tân văn, và người phóng viên

điều tra vụ việc ấy là Dương Phương

Dực. Tuy nhiên ông cũng không nói

rõ câu chuyện trên được xuất bản vào

số báo nào, năm nào.

Báo Trung Bắc tân văn là một

trong những tờ báo đầu tiên của Bắc

Kỳ do một người Pháp sáng lập năm

1915. Năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh

mua lại tờ báo và làm chủ bút. Từ đó

báo mới ra hàng ngày. Số báo đầu

tiên được phát hành vào tháng 1 năm

1919. Như vậy, căn cứ vào thời điểm

phát hành của tờ báo và tạm cho là

câu chuyện trên được phát hành vào

những số đầu tiên của báo thì cụm

từ công tử bột có lẽ ra đời vào những

năm đầu của thế kỉ XX.

Tuy vậy, chúng tôi lại thấy băn

khoăn ở những điểm sau:

Thứ nhất, vào thời điểm đó, việc

phát hành báo chí chưa thể phổ biến

và rộng rãi như bây giờ. Hơn nữa,

cũng thời điểm đó, phần lớn người

dân Việt Nam còn mù chữ, đa số là

thất học. Những người được đọc báo

lúc bấy giờ chỉ là một bộ phận công

chức nhà nước có chút chữ nghĩa.

Cho nên, thành ngữ công tử bột khó

có thể đi từ ngôn ngữ báo chí đến

với ngôn ngữ toàn dân.

Thứ hai, con đường hình thành

của thành ngữ thường là bắt đầu từ lời

ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.

Những lối nói hàng ngày nhờ được

lặp đi lặp lại cùng với sự chuyển di ngữ

ngữ nghĩa nhất định mà tạo thành thành

ngữ. Có lẽ nào, một thành ngữ quen

thuộc như công tử bột lại được hình

thành theo con đường ngược lại? Truy tìm...

13

Những băn khoăn nói trên tiếp

tục gợi mở cho chúng tôi tìm đến một

nguồn tư liệu khác để hiểu rõ về lai

lịch, xuất xứ của thành ngữ này. Trong

tác phẩm Kim thạch kì duyên của Bùi

Hữu Nghĩa có bài hát thằng Bột. Nội

dung bài hát chế giễu cậu ấm có cha

là tri phủ giàu sang, suốt ngày ăn chơi

trác táng, mặt mũi lúc nào cũng phờ

phạc, trăng trắng như bột: "Cậu Ái

Lang chữ đặt, cha tri phủ giàu sang;

như nhà cụ: cửa nhà chớn chở bạc

vàng, hầu thiếp nhởn nhơ điếu đỏ;

Nói chi bạn hàng cũ, muốn con gái

nguyên, cậu chơi hoài hoài, thiên

hoàng thiến chi hoang, sướng đế sướng

đê chí sướng..." (dẫn theo [13]).

Kim thạch kì duyên là vở tuồng

cổ đầu tiên của Nam Bộ do thủ khoa

Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) sáng tác.

Tác phẩm này được xuất bản lần đầu

tiên ở Sài Gòn vào năm 1895.

Như vậy, từ những tư liệu nói

trên, có thể khẳng định thành ngữ

công tử bột đã ra đời từ trước khi câu

chuyện kể của nhà văn Nguyễn Công

Hoan được phát hành trên báo Trung

Bắc tân văn. Sau đó, nhà báo Dương

Phương Dực đã vận dụng thành ngữ

trên trong bài viết của mình và do

câu chuyện liên quan đến một viên

chức bưu điện mà người ta suy diễn

ông đã chơi chữ bằng cách phiên âm

từ poste thành từ bột.

Ngoài ra, trong tác phẩm Bến

Nghé xưa, nhà văn Sơn Nam cho rằng

thành ngữ công tử bột có nguồn gốc

từ tuồng hát bội. Trong tuồng hát bội,

có nhân vật tên là Hoa Bột, Ba Bột:

"Hoặc hát khách thằng Bột: rượu bọt

ngon, con gái tốt đẹp, xang xang xang

cống xang xê cống cống xang xê".

Hoa Bột, Ba Bột là tên của nhân vật

xấu gần như vai hề, tính tình kiêu

hãnh trong tuồng hát bội (nay hãy còn

gọi là công tử bột). Để diễn cách một

công tử bột người ta thường dặm mặt

trắng cho nhân vật này, đôi khi còn

dặm trắng cái mũi cho ra bột luôn (dẫn

theo [13]). Như vậy, phải chăng lí giải

của nhà văn Sơn Nam về nguồn gốc

của thành ngữ công tử bột là chính xác?

Chúng tôi đồng ý với cách giải

thích của nhà văn Sơn Nam. Theo

đó, thành ngữ công tử bột có xuất

xứ từ nghề hát bội - một loại hình ca

hát rất phổ biến ở Nam Bộ thời xưa.

Từ một nhân vật hề trong gánh hát,

cụm từ vốn là tên gọi nhân vật này

đã được lan truyền, mở rộng phạm

vi sử dụng trở thành lối nói toàn dân.

Sự liên tưởng chuyển nghĩa trong

trường hợp này được thực hiện theo

con đường ẩn dụ.

* Thành ngữ đèo heo hút gió

Trong kho tàng thành ngữ tiếng

Việt, đèo heo hút gió là một thành

ngữ quen thuộc đến mức hầu như

người Việt Nam nào cũng biết. Để

hiểu sâu sắc và thấu đáo về thành ngữ

này chúng ta hãy đi sâu tìm hiểu ý

nghĩa của từng yếu tố cấu tạo nên

thành ngữ.

Các tác giả Nguyễn Lực, Nguyễn

Lân, Vũ Dung trong các công trình

của mình đều có một cách hiểu thống

nhất và giải thích thành ngữ này như

sau: chỉ những nơi rừng núi hoang

vu, hẻo lánh, ít người qua lại [10];

[9]; [3]. Tác giả Hoàng Văn Hành

trong [8] cũng đồng tình với cách

hiểu này. Như vậy, ý nghĩa biểu trưng

của thành ngữ này không có gì phải

bàn cãi. Tuy nhiên đi sâu tìm hiểu ý Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

nghĩa của từng thành tố cấu tạo nên

thành ngữ mới thấy không hề đơn

giản. Các yếu tố đèo, heo, hút, gió ở

đây có ý nghĩa gì? Tại sao lại là đèo

heo, hút gió? Heo hút ở đây là một

từ hay hai từ? Thành ngữ này có thực

sự nguyên gốc là đèo heo hút gió

hay không?...

Phần lớn các ý kiến đều cho rằng

heo, hút là hai yếu tố của một từ phức

heo hút với nghĩa “ở nơi nào vắng

và khuất, gây cảm giác buồn và cô

đơn”. Theo lối giải thích này, thành

ngữ đèo heo hút gió là kết quả của

sự giao kết ba từ đèo / heo hút/ gió.

Với cách giải thích như vậy, ý nghĩa

của từng từ trong thành ngữ rất rõ

ràng, tường minh. Tuy vậy, cách hiểu

này có hạn chế ở chỗ: từ heo hút không

có khả năng kết hợp với gió. Heo hút

thường đi sau các danh từ là địa danh

chứ không đứng trước hoặc sau các

danh từ chỉ hiện tượng tự nhiên như

mưa, gió, sấm chớp…

Theo một hướng giải thích khác,

Hoàng Văn Hành cho rằng, muốn

giải thích được các chữ heo hút cho

hợp lí cần dựa vào quy tắc đối điệp

trong cấu tạo thành ngữ tiếng Việt.

Thành ngữ đèo heo hút gió gồm bốn

yếu tố, chia thành hai vế đăng đối,

cân xứng với nhau. Giữa hai vế có

sự đối ý (đèo heo - hút gió) và đối

lời (đèo - hút, heo - gió). Theo quy

tắc đối điệp, các yếu tố đối xứng với

nhau ở hai vế phải phản ánh những

đặc trưng thuộc cùng một phạm trù

ngữ nghĩa và phải thuộc cùng một

phạm trù từ loại, tức có cùng một

thuộc tính ngữ pháp. Do vậy, ở cặp

heo - gió thì heo và gió cùng nghĩa

với nhau. Heo có nghĩa như gió trong

heo may, trời hanh heo. Heo chính

là gió lạnh thu đông, một thứ gió hanh

khô, gây cho da nứt nẻ. Tương tự như

vậy, ở cặp đèo - hút, đèo và hút cũng

phải tương đương nhau về ý nghĩa.

Trong tiếng Việt, hút là động từ với

nghĩa chỉ “hoạt động cuốn theo luồng,

theo dòng làm cho nước, khí và gió

xoay tròn”. Động từ hút chuyển hóa

thành danh từ với nghĩa chỉ luồng,

nơi tập trung dòng chảy, luồng xoáy

như hút nước, hút gió. Chữ hút trong

thành ngữ trên được dùng với nghĩa

này. Với cách phân tích như trên, thành

ngữ đèo heo hút gió hoàn toàn tuân

thủ theo quy tắc đối điệp. Giữa hai

vế của thành ngữ có sự tương hợp

về từ loại cũng như về ý nghĩa. Đây

cũng là dạng thức điển hình trong cấu

tạo thành ngữ tiếng Việt. Để khẳng

định thêm nhận định này, tác giả còn

dẫn ra một biến thể khác của thành

ngữ đèo heo hút gió là đèo mây hút gió.

Theo cách luận giải trên, các yếu

tố đèo, hút, gió có ý nghĩa rất rõ ràng,

tường minh. Yếu tố gây bàn cãi ở

đây chính là yếu tố heo. Hoàng Văn

Hành cho rằng, heo ở đây là một từ

được dùng với nghĩa là "gió lạnh thu

đông, thứ gió hanh khô, thường gây

cho da nứt nẻ".

Trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng

Phê chủ biên) [14], có một số từ heo

sau đây:

Heo là từ địa phương có nghĩa

là "con lợn".

Heo hút: "Ở nơi vắng và khuất,

gây cảm giác buồn, cô đơn".

Heo hắt: từ này đồng nghĩa với

hiu hắt, nghĩa là "ở trạng thái yếu ớt,

mỏng manh, gây cảm giác buồn vắng,

cô đơn". Truy tìm...

13

Heo may: gió heo may.

Từ heo thứ nhất là từ đồng âm,

không thể dùng từ heo này vào thành

ngữ nói trên. Cả ba từ heo hút, heo

hắt, heo may đều là những từ phức

có chung yếu tố heo. Xét về ý nghĩa,

cứ cho rằng heo có thể có nghĩa tương

đương với gió (như trời hanh heo,

gió heo may). Tuy nhiên, xét về khả

năng hoạt động, như ta thấy, yếu tố

heo không thể đứng độc lập tạo thành

một từ đơn được mà phải kết hợp với

các yếu tố khác. Chúng ta không thể

nói gió heo được mà phải là gió heo

may. Cả tổ hợp gió heo may mới tạo

thành một tên gọi chỉ một thứ gió nhất

định. Hơn nữa, các mục từ trong Từ

điển tiếng Việt cũng không hề có mục

từ riêng là heo (với nghĩa là "gió").

Như vậy có thể khẳng định, heo ở

đây không phải là một từ mà chỉ là

yếu tố cấu tạo từ. Do đó, với thực tế

này, tổ hợp đèo heo theo cách giải

thích của Hoàng Văn Hành là chưa

thỏa đáng. Bởi theo chính ông giải

thích, thành ngữ được cấu tạo từ các

từ đơn chứ không phải từ các yếu tố

cấu tạo từ.

Chúng tôi tìm đến một nguồn

tư liệu khác để hiểu rõ hơn về thành

ngữ này. Trong Tiếng Việt tinh nghĩa,

tác giả Trịnh Mạnh đã giải thích thành

ngữ này như sau: “Chính là “đèo Neo

hút gió” bị nói chệch đi. Ngày trước,

đường quốc lộ đi từ Thăng Long lên

ải Nam Quan phải đi qua đèo Neo

(một cái đèo gần thị xã Bắc Giang

bây giờ). Tiễn người đi sứ sang Trung

Quốc, bạn bè dù thân thiết cũng chỉ

đi tiễn đến đèo Neo, đặt rượu tiễn

hành rồi quay về. Người đi sứ phải

đi vào đoạn đường rừng hoang vắng

để lên cửa ải” [11].

Những dòng tư liệu ít ỏi này đã

cung cấp cho chúng ta thêm một cụm

từ nữa là đèo Neo hút gió. Vậy đèo

Neo hút gió hay đèo heo hút gió? Phải

chăng thành ngữ đèo heo hút gió có

hình thức ban đầu là đèo Neo hút gió?

Để hiểu rõ hơn về lai lịch của

thành ngữ này, chúng tôi tìm đến

huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang và

được biết đây là một địa danh có thật

nằm ở huyện Yên Dũng. Núi Neo

(hay còn gọi là núi Nham Biền) là

một dãy núi đồ sộ, chạy từ làng Cổ

Dũng Núi, xã Cổ Dũng, tổng Cổ Dũng

đến làng Bài Sanh, xã Vân Cốc, tổng

Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ

Lạng Giang, xứ Kinh Bắc xưa. Núi

Neo còn có một tên tự nữa là Cửu

Thập Cửu Phong sơn, nghĩa là dãy

núi chín mươi chín ngọn. Sự tồn tại

của dãy núi này gắn với nhiều huyền

tích huyền sử. Tương truyền, từ thuở

khai thiên lập địa, có một đàn phượng

hoàng bay đi tìm đất đế đô, chúng

đã chọn nơi này. Đàn chim có một

trăm con mà núi chỉ có chín mươi

chín ngọn, những con bay trước lần

lượt từ con đầu mỗi con đậu trên một

ngọn núi. Con bay sau cùng thấy thiếu

chỗ đỗ, nó lượn vòng nghiêng ngó

rồi sải cánh lao đi. Đàn chim thấy

vậy lại vung cánh rướn chân bay theo

con chim thiếu chỗ đỗ ấy. Đàn chim

đã bay đi nơi khác tìm đất đế đô, nếu

không kinh đô của nước Việt ta đã ở

đất Nham Biền. (Phải chăng, vì thiếu

núi đậu mà núi này mang tên Neo?

(nghĩa này của từ neo còn được dùng

hiện nay: nhà neo người)).

Trong thời kì kháng chiến chống

Pháp, núi Neo cũng là một trong những

căn cứ cách mạng của quân và dân

ta. Nơi đây địa hình hiểm trở, đường

đi khúc khuỷu, quanh co, cây cối um

tùm lau lách. Về quân sự, tiến có chỗ

đánh, tránh có chỗ rút, là bức bình

phong thuận tiện giữa đồng bằng và

trung du. Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

Những mô tả trên đây rất phù

hợp với nội dung ngữ nghĩa của thành

ngữ đèo heo hút gió. Có thể nói, từ

những đặc điểm nói trên của núi Neo

cha ông ta đã khái quát nên thành ngữ

đèo Neo hút gió.

Ngày nay, đèo Neo chỉ còn là

một con dốc nhỏ, thoai thoải nối các

xã của huyện Yên Dũng với thị trấn

Neo. Nơi đây không còn là một địa

danh hiểm trở, um tùm lau lách nữa

mà trở nên quang đãng, rộng rãi hơn.

Tuy vậy đó vẫn là một địa điểm ít

người qua lại.

So sánh đèo heo hút gió và đèo

Neo hút gió chúng ta nhận thấy hai

cụm từ này có sự khác biệt nhất định.

Xét về cấu trúc, cụm từ đèo heo hút

gió là thành ngữ đối (theo cách phân

tích của Hoàng Văn Hành), trong khi

đó, cụm từ đèo Neo hút gió lại có cấu

trúc C-V. Tính chất của các yếu tố

trong thành ngữ cũng có sự thay đổi.

Từ hút trong trường hợp này được

dùng với tư cách là động từ với nghĩa

chỉ “hoạt động cuốn theo luồng, theo

dòng làm cho nước, khí và gió xoay

tròn”. Về ý nghĩa hai thành ngữ này

không khác nhau là mấy. Đèo heo

hút gió như đã phân tích ở trên, chỉ

nơi hoang sơ, vắng vẻ, ít người qua

lại. Còn ở cụm từ đèo Neo hút gió

lại cực tả vẻ hoang sơ, vắng lặng của

một địa danh cụ thể - đèo Neo.

Như chúng ta biết, một trong

những con đường hình thành nên

thành ngữ là định danh hóa các tổ hợp

tự do. Cơ chế của hiện tượng này như

sau: một cụm từ tự do được sử dụng

thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần,

biểu thị một khái niệm đơn nhất, chỉnh

thể, có tính chất định danh thì sẽ chuyển

thành thành ngữ. Khi chuyển từ cụm

từ tự do sang thành ngữ, các mối quan

hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp của cụm

từ tự do bị nhược hóa hoàn toàn. Ý

nghĩa từ vựng của các yếu tố cấu tạo

bị tan biến đi, thay vào đó là ý nghĩa

biểu trưng; quan hệ ngữ pháp giữa

các yếu tố bị nhòa mờ, đứt gãy, thay

vào đó là các mối liên hệ nội tại giữa

các yếu tố bên trong một chỉnh thể.

Trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt,

phần lớn các thành ngữ được hình

thành theo con đường này. Chẳng hạn,

hai bàn tay trắng, áo gấm đi đêm,

cháy nhà ra mặt chuột, bới lông tìm

vết v.v.. Thành ngữ đèo Neo hút gió

theo chúng tôi cũng được hình thành

theo con đường này. Từ một cụm từ

tự do với ý nghĩa chỉ đặc điểm của

một địa danh cụ thể (đèo Neo), cụm

từ này đã được biến đổi ý nghĩa, chuyển

sang biểu trưng cho một phạm trù ý

nghĩa rộng hơn là chỉ những nơi vắng

vẻ, xa xôi, hẻo lánh nói chung. Sự

chuyển nghĩa trong trường hợp này

được thực hiện bằng con đường ẩn dụ.

Trong quá trình sử dụng, do tác

động của hiện tượng đồng hoá ngữ

âm để cho dễ nói (cụ thể ở đây là đồng

hóa ngược, Neo hút đã biến thành heo

hút), đồng thời do Neo vốn là địa danh

cụ thể rất ít ai biết đến mà Neo đã

chuyển thành heo - yếu tố thông dụng

và có nghĩa từ vựng dễ hiểu hơn trong

ngôn ngữ toàn dân, nên đèo Neo hút

gió đã chuyển thành đèo heo hút gió.

Cách giải thích này cũng phù hợp với

đặc điểm hình thành và biến đổi của

các sáng tác dân gian kiểu như thành

ngữ. Những sáng tác dân gian thường

có đặc điểm là truyền miệng, do vậy,

một tác phẩm dân gian thường xuất

hiện nhiều biến thể (hay dị bản) khác Truy tìm...

13

nhau. Chẳng hạn, bên cạnh già đòn

non lẽ chúng ta còn có già đòn non

nhẽ, hoặc già trái non hột bên cạnh

già dái non hột, vênh váo như bố vợ

phải đấm và vênh váo như khố rợ

phải lấm…

Tóm lại, thành ngữ đèo heo hút

gió là biến âm của đèo Neo hút gió

do neo bị đồng hoá ngữ âm đã chuyển

thành heo.

Trên đây là những kiến giải ban

đầu của chúng tôi về nguồn gốc của

một thành ngữ cụ thể - thành ngữ đèo

heo hút gió. Suy rộng ra, trong kho

tàng thành ngữ dân tộc - “túi khôn

của nhân loại”, có rất nhiều thành ngữ

đã bị cắt đứt mối liên hệ với nguồn

gốc đích thực của nó. Việc truy nguyên

nguồn gốc của những thành ngữ này

không phải là dễ dàng bởi rất nhiều

những lí do khác nhau.

* Thành ngữ vụng chèo khéo chống

Thành ngữ này thường được dùng

với nghĩa "làm dở, làm kém nhưng

khéo chống chế, biện bạch". Nhìn

chung, ý nghĩa và cách sử dụng thành

ngữ này đơn giản, dễ hiểu, dễ dùng.

Tuy vậy, về nguồn gốc và cơ chế hình

thành của thành ngữ trên lại được lí

giải theo những hướng khác nhau.

Hầu hết các ý kiến đều cho rằng

thành ngữ vụng chèo khéo chống bắt

nguồn từ nghề lái thuyền trên sông

nước. Theo cách hiểu này, chèo và

chống là các động từ. Chèo là hoạt

động dùng mái chèo gạt nước để thuyền

di chuyển, chống là tì mạnh vào đầu

chiếc sào đã cắm xuống nước để đẩy

cho thuyền bè đi. Trong thực tế, chèo

khó hơn chống. Người ta chỉ chống

sào ở chỗ nước cạn, gần bờ, còn khi

ra xa bờ, chỗ nước sâu thì nhất thiết

phải chèo. Người chèo thuyền trên

sông nước phải khéo léo, biết phối

hợp nhịp nhàng cả chèo lẫn chống.

Tuy vậy, cũng có những người vụng

về, chỉ biết chống mà không biết chèo

hoặc chèo vụng nhưng vẫn đưa được

thuyền ra sông. Đó là do anh ta biết

cách chống sào để bù lấp cho sự chèo

thuyền vụng về của mình. Nếu anh

ta vụng chèo lái nhưng khéo chống

sào thì thuyền vẫn đi lại được. Từ

thực tế chèo đò trên sông nước nói

trên, dân gian đã khái quát nên thành

ngữ vụng chèo khéo chống đang dùng

hiện nay.

Liên quan đến nguồn gốc của

thành ngữ này còn có cách giải thích

thứ hai, cho rằng: xuất xứ của thành

ngữ này gắn liền với việc diễn chèo.

Ở đây chèo là danh từ, chỉ làn điệu

dân ca cổ truyền, còn chống tức là

"trống", một loại nhạc cụ thuộc bộ

gõ. Chèo có nguồn gốc ở đồng bằng

Bắc Bộ, và ở đây, phụ âm tr được

phát âm thành ch, nên trống biến âm

thành chống. Khi hát chèo, ngoài lời

hát, điệu hát còn phải kết hợp với các

nhạc cụ như trống, đàn nhị.... để tạo

nền nhạc cho chèo. Trong đó, trống

đóng vai trò rất quan trọng, "phi trống

bất thành chèo". Hát chèo kém, vụng

có thể dùng tiếng trống để che lấp đi,

che giấu đi cái vụng về của người hát.

Theo cách lí giải này, hình thức ban

đầu của thành ngữ này là vụng chèo

khéo trống, trong đó vụng đối với

khéo, chèo đối với trống. Cả chèo và

trống đều là danh từ chỉ các sự vật

trong nghề hát chèo. Với một kết cấu

như vậy, thành ngữ vụng chèo khéo

trống có sự đối xứng giữa hai vế - đặc

điểm này hoàn toàn phù hợp với đặc Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

điểm cấu trúc của thành ngữ tiếng Việt

nói chung. Những giải thích trên đây

phải chăng chính là cơ sở logic hình

thành thành ngữ vụng chèo khéo chống?

Cả hai cách giải thích trên xem

ra đều rất hợp lí khi lí giải được lô gích

nội tại hình thành ý nghĩa của thành

ngữ này. Vậy trong hai cách giải thích

trên, cách giải thích nào là hợp lí hơn,

dễ được chấp nhận hơn? Và thực sự,

thành ngữ này có phải xuất phát từ

kinh nghiệm của những người hát chèo

hay không?

Nếu so sánh về sự ra đời của nghề

lái thuyền và nghề hát chèo thì một

điều chắc chắn là nghề lái thuyền ra

đời trước nghề hát chèo. Do đặc điểm

Việt Nam là vùng sông nước, hệ thống

sông ngòi chằng chịt, vì vậy, phương

tiện đi lại chủ yếu là đường thủy. Sách

Lĩnh Nam chích quái còn chép lại rằng

"người Việt cổ lặn giỏi, bơi tài, thạo

thủ chiến, giỏi dùng thuyền" (dẫn theo

[18]). Các phương tiện đi lại trên sông

nước ở Việt Nam rất phong phú: thuyền,

ghe, xuồng, bè, phà, tầu... Chính đặc

điểm kể trên khiến hình ảnh sông nước

ăn sâu vào tâm khảm người Việt Nam

đến mức mọi mặt sinh hoạt đều lấy

con thuyền và sông nước làm chuẩn

mực (những cách nói sạch nước cản,

thân phận bọt bèo, thuyền theo lái,

gái theo chồng v.v.. minh chứng cho

điều này).

Trong khi đó, chèo là loại hình

nghệ thuật dân gian, gắn liền với lao

động. Các loại hình nghệ thuật dân

gian nói chung, chèo nói riêng, ra đời

nhằm phục vụ cho cuộc sống lao động

của con người. Chèo vốn xuất xứ từ

một điệu hát dân gian, cụ thể là điệu

hát chèo đò đưa linh trong nghi thức

tang ma của người Việt Nam, mà thực

chất là mô phỏng lại động tác chèo

thuyền. Về sau, chèo được nâng lên

thành một bộ môn nghệ thuật dân gian.

Lúc đó, hát chèo mới có các nhạc cụ

như trống, đàn nhị kèm theo. (Cũng

có ý kiến cho rằng chèo là do âm Hán

là trào đọc chệch ra mà thành). Điều

này khẳng định, thành ngữ vụng chèo

khéo chống không thể có xuất xứ từ

vụng chèo khéo trống được.

Với cụm từ vụng chèo khéo trống,

người ta luận giải rằng nếu hát chèo

có dở nhưng nếu có tiếng trống đệm

hay, thì sẽ cứu vãn được cho ca sĩ.

Thực tế, người Nam Bộ không có bộ

môn nghệ thuật chèo nhưng lại sử dụng

thành ngữ vụng chèo khéo chống rất

phổ biến. Bằng chứng này thêm một

lần nữa lại càng khẳng định xuất xứ

của vụng chèo khéo chống không thể

ra đời từ nghệ thuật hát chèo.

Có thể hình dung như sau: Thoạt

tiên, đây là lối nói của nghề chèo thuyền,

sau đó, trong quá trình sử dụng, nó

được giải thích theo lối từ nguyên dân

gian phù hợp với từng ngành nghề,

công việc nhất định. Do có sự liên tưởng

đồng âm giữa chèo trong chèo thuyền

và chèo trong hát chèo, và sự không

phân biệt trong phát âm của vùng Bắc

Bộ giữa tr và ch nên có sự liên tưởng

chống (thuyền) với trống (trong hát

chèo). Từ đây thành ngữ vụng chèo

khéo chống có thêm một biến thể mới

là vụng chèo khéo trống.

* Thành ngữ già kén kẹn hom

Xoay quanh việc lí giải nguồn

gốc và cơ chế hình thành của thành

ngữ này, phần lớn các ý kiến đều cho

rằng thành ngữ già kén kẹn hom xuất

phát từ cách nói của nghề trồng dâu Truy tìm...

13

nuôi tằm. Các yếu tố già, kén, kẹn,

hom trong thành ngữ trên chỉ những

sự vật, quá trình trong nghề trồng dâu

nuôi tằm. Cụ thể, kén tức là "cái kén",

một giai đoạn phát triển của tằm; kẹn

do sự biến âm của kẹt hay nghẹn mà

thành, hom tức là khoảng cách giữa

các nan tre để tằm kết kén. Trong khi

nuôi tằm, nếu để kén tằm già, quá ngày

thì kén sẽ mắc kẹt ở hom, khó gỡ. Nếu

gỡ được kén ra thì tơ lấy được từ kén

đó cũng mất đi vẻ đẹp óng ả, mượt

mà. Đó chỉ là những sợi tơ xơ xác,

kém chất lượng. Từ thực tế nói trên,

bằng cách liên tưởng đồng âm, cụm

từ này đã chuyển sang một nghĩa mới.

Kén trong "cái kén" gợi liên tưởng đến

kén trong "kén chọn", hom gợi liên

tưởng đến hom hem, già có sự liên

tưởng với nghĩa "quá mức nào đó" (thí

dụ: già nửa cân),... Từ đây, già kén

kẹn hom được dùng để chỉ những người

con gái kén chọn quá kĩ, dẫn đến lỡ

làng, ế ẩm.

Thực ra, các yếu tố già, kén, hom

trong thành ngữ trên đã được giải thích

rõ ràng. Vậy còn yếu tố kẹn? Theo

giải thích của Hoàng Văn Hành, kẹn

là dạng thức cổ của kẹt hay nghẹt vì

trong tiếng Việt thường xảy ra sự biến

đổi tương ứng về âm giữa âm đầu k-

ng và âm cuối t-n [7]. Giải thích này

xem ra khá hợp lí.

Trịnh Mạnh lại đưa ra một cách

giải thích khác hẳn về nguồn gốc của

thành ngữ nói trên. Theo ông, hình

thức ban đầu của thành ngữ già kén

kẹn hom là già kén chẹn hom. Già kén

chẹn hom có nghĩa là già kén (kén

chồng) thì lấy chồng muộn và dễ bị

bệnh chẹn hom. Bệnh chẹn hom là

bệnh khi sinh nở lần đầu xương hom

không giãn nở to ( tức là xương hom

bị chẹn lại), khó sinh và dễ chết cả mẹ

lẫn con. Vì vậy, ngày trước, các thầy

thuốc còn có bài thuốc chữa bệnh chẹn

hom để làm cho dây chằng dễ giãn khi

sinh đẻ. Nếu hiểu như vậy thì thành

ngữ này có ý khuyên phụ nữ đừng

kén chọn quá, dễ nguy hiểm đến tính

mạng [11].

Vậy trong hai hình thức già kén

kẹn hom và già kén chẹn hom, hình

thức nào là nguyên gốc?

Để thẩm định lại cách giải thích

nói trên, chúng tôi đã sơ bộ tìm hiểu

về căn bệnh chẹn hom. Song trong

các tài liệu y học, từ hom được giải

thích là "xương hom" tức "xương sườn"

và cũng không có căn bệnh nào là bệnh

chẹn hom với nghĩa xương hom bị

chẹn lại, khó sinh và dễ chết cả mẹ

lẫn con.

Vì vậy, chúng tôi nhất trí và cho

rằng cách luận giải của Hoàng Văn

Hành về thành ngữ nói trên là đúng.

Như vậy, có thể thấy rằng các

thành ngữ thuộc nhóm thứ nhất sở dĩ

được giải thích nguồn gốc theo nhiều

cách khác nhau là do người ta liên hệ

chúng với nhiều lĩnh vực/ thành tố văn

hóa khác nhau mà ‎ ý nghĩa của thành

ngữ có thể phản ánh.

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu nhóm

thành ngữ có nhiều cách giải thích

nguồn gốc do có hiện tượng biến thể

của thành tố cấu tạo.

2.2. Thành ngữ có nhiều cách

giải thích nguồn gốc do có hiện tượng

biến thể của thành tố cấu tạo

Bên cạnh những thành ngữ có

nhiều lối giải thích nguồn gốc ra đời Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

do dựa vào các hiện tượng văn hóa

khác nhau, còn có những thành ngữ

được giải thích có nguồn gốc khác

nhau do có hiện tượng biến thể (từ

vựng hoặc ngữ âm) của thành tố cấu

tạo nên. Ở đây, chúng tôi đặc biệt chú

ý những thành ngữ có hiện tượng biến

thể từ vựng của thành tố cấu tạo vừa

có sự khác biệt về ngữ âm, đồng thời

lại có sự đối lập về ý nghĩa: mũi dại

lái phải chịu đòn/ mũi vạy lái phải

chịu đòn; chờ được vạ thì má đã sưng/

chờ được mạ thì má đã sưng; buồn

như chấu cắn/ buồn như trấu cắn; cao

như sếu vườn/ cao như sếu vươn; chân

nam đá chân chiêu/ chân đăm đá chân

chiêu; đâm ba chẻ củ/ đâm ba chày

củ; trăm thứ bà giằn/ trăm thứ bà dằn;

áo cứ chàng làng cứ xã/ áo cứ tràng

làng cứ xã; khôn sống mống chết/ khôn

sống bống chết.

Dưới đây chúng tôi phân tích các

thành ngữ nói trên để xác định đâu là

thành ngữ gốc và có xuất xứ từ đâu.

* Thành ngữ mũi dại lái phải

chịu đòn/ mũi vạy lái phải chịu đòn

Từ điển thành ngữ và tục ngữ

của Nguyễn Lân giải nghĩa thành ngữ

này như sau: Mũi là phía trước thuyền,

lái là phía sau. Ý nói: Người lãnh đạo,

người hướng dẫn phải chịu trách nhiệm

về những sai lầm do người ở dưới quyền

mình [9]. Cũng thành ngữ trên, từ điển

của Nguyễn Như Ý lại ghi là: Người

chỉ huy, lãnh đạo kém cỏi, sai lầm thì

mọi hậu quả đều đổ lên đầu cấp dưới,

người thực thi nhiệm vụ gánh chịu

tất cả [21]. Từ điển của Vũ Dung, Vũ

Quang Hào lại giải thích: Tội lỗi người

dưới gây ra rốt cuộc người đứng đầu

phải chịu cả [3]. Như vậy, ba cuốn từ

điển có ba cách giải thích khác nhau

về nghĩa của thành ngữ trên. Sự khác

nhau này là do các soạn giả chưa có

cách hiểu thỏa đáng về nghĩa của các

thành tố tạo nên thành ngữ.

Theo chúng tôi, hình thức gốc

của thành ngữ này là mũi vạy lái phải

chịu đòn. Thành ngữ này bắt nguồn

từ kinh nghiệm lái ghe thuyền trên

sông nước, đặc biệt phổ biến ở Nam

Bộ, nơi có hệ thống kênh rạch chằng

chịt, việc đi lại chủ yếu nhờ ghe thuyền.

Từ điển từ ngữ Nam Bộ do Huỳnh

Công Tín biên soạn có ghi nghĩa của

từ vạy là "cong, không thẳng mà cũng

không gẫy gập". Chúng ta có thể thấy

trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê

chủ biên) có từ vạy được giải thích

như sau: "(cũ; ph) Cong, không thẳng".

Chúng ta lại cũng biết rằng cái ách

(từ địa phương gọi là cái vạy) để trâu

kéo cày là đoạn gỗ khoác lên cổ con

trâu cũng có hình dạng cong như vậy.

Do đó, mũi vạy tức là mũi thuyền cong,

lệch, không đi đúng hướng cần thiết,

có thể do nước xoáy hoặc do nước

chảy xiết. Trong tình thế khó khăn đó,

người cầm lái phải vững vàng thì mới

điều khiển con thuyền đi đúng hướng

mà vượt qua chỗ nguy hiểm. Chính

vì thế mà anh ta phải chịu đòn, nghĩa

là phải ra sức "ghì cây đòn lái" cho

thật chắc theo hướng đã định để cho

con thuyền khỏi bị cuốn theo con nước

xoáy hay dòng nước xiết. Động từ chịu

ở đây có nghĩa tương tự như chịu trong

chịu lái, đứng mũi chịu sào, chứ chịu

đòn không có nghĩa là "nhận hình phạt

bằng roi vọt". Từ hình ảnh thực tế của

nghề chèo lái ghe thuyền, cụm từ này

được dùng với nghĩa biểu trưng cho

vai trò và trách nhiệm của người chỉ

huy trong tình thế khó khăn nguy hiểm. Truy tìm...

13

Từ nguyên dân gian đã biến cụm

từ mũi vạy lái phải chịu đòn thành mũi

dại lái phải chịu đòn (Có lẽ do vạy

là từ địa phương nên khó hiểu ‎ ý nghĩa

hơn dại là từ toàn dân? Có thể còn có

lí do nữa là các cặp phụ âm đầu trong

phương ngữ Nam Bộ: v, d, gi đều được

phát âm thành [z]). Do vạy đã được

đổi thành dại (trái nghĩa với khôn), nên

chịu đòn được hiểu là "bị đánh bằng

roi vọt" (có sự ảnh hưởng của cả hiện

tượng đồng âm: đòn

1

là "cái đoạn tre,

gỗ để kê, khiêng…" và đòn

2

là "hình

phạt đánh vào thân thể" [12, 432].

* Thành ngữ áo cứ tràng làng cứ

xã/ áo cứ chàng làng cứ xã

Đối với người Việt Nam, muốn

giải quyết một công việc chung của

làng xã, người ta đều phải tìm đến

người đứng đầu (xã trưởng hay lí

trưởng). Từ thực tế này, tiếng Việt

có thành ngữ áo cứ tràng làng cứ xã.

Như chúng ta thấy, các từ ngữ cấu

tạo nên thành ngữ này đều là thuần

Việt, quen dùng trong giao tiếp hàng

ngày. Chỉ duy nhất yếu tố tràng là từ cổ.

Khi giải nghĩa thành ngữ này, Từ

điển Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam

của Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang

Hào đã chú giải tràng: tràng áo, tức

vạt áo; xã: xã trưởng, người đứng đầu

xã. Nghĩa đen của thành ngữ này là:

Muốn tìm ai thì cứ túm lấy vạt áo, muốn

lệnh cho làng thì cứ dựa vào xã trưởng

và nghĩa bóng là dựa vào người đầu

trò để giải quyết công việc.

Để tìm hiểu chắc chắn hơn, chúng

tôi đã tra Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn

Ngọc San thì thấy có chú giải nghĩa

của từ tràng như sau: tràng: vạt áo.

Hộ lĩnh buộc che ngoài tràng (Chỉ

Nam ngọc âm giải nghĩa) [16, 240].

Trong ca dao cổ cũng có câu:

Áo rách thì giữ lấy tràng

Đủ đóng đủ góp với làng thì thôi

Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha -

La-tinh của A.de Rhodes cũng ghi

tràng nghĩa là "cái cổ áo", nay được

hiểu là vạt trước của chiếc áo dài.

Như vậy, có thể khẳng định tràng

nghĩa là "cái vạt áo". Áo cứ tràng làng

cứ xã tức là "áo hãy dựa vào vạt trước

mà bình phẩm, đánh giá, còn làng thì

cứ dựa vào xã trưởng mà xét đoán hoặc

cắt đặt công việc". Từ đây suy ra nghĩa

biểu trưng của thành ngữ này là dựa

vào người đứng đầu để giải quyết

công việc.

Xét về cấu trúc, thành ngữ này

được cấu tạo theo mô hình A cứ B, C

cứ D, trong đó B là một bộ phận của

A, D là một bộ phận của C. Chẳng hạn,

câu thuyền cứ mạn, quán cứ vách thì

mạn là một bộ phận của thuyền, vách

là một bộ phận của quán. Tương tự

như vậy, trong áo cứ tràng làng cứ

xã thì tràng là một bộ phận quan trọng

của áo, xã trưởng là một thành phần

đứng đầu của dân làng. Hiểu như vậy

rõ ràng là phù hợp với tính đối xứng

trong đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa

của thành ngữ Việt.

Cách luận giải nói trên cũng giúp

chúng ta loại trừ cách giải thích thiếu

chính xác khác về thành ngữ này. Trong

Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam

do Nguyễn Lân biên soạn, soạn giả

đã đổi tràng thành chàng và hiểu chàng

là người đàn ông: áo cứ chàng, làng

cứ xã. Từ đây tác giả giải thích thành

ngữ này nói về tính ỷ lại của người

đàn bà, cũng như tính ỷ lại của người

dân trong thôn xóm, không thấy được Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

vai trò làm chủ của mình. Cách hiểu

này rõ ràng đã phá vỡ cấu trúc cân

xứng của thành ngữ, bởi lẽ chàng không

thể là một bộ phận của cái áo được.

Thành ngữ này cũng không hề nói về

tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như

tính ỷ lại của người dân trong thôn

xóm, mà chỉ nói lên vai trò và trách

nhiệm của xã trưởng (hoặc lí trưởng)

đối với dân làng.

* Thành ngữ khôn sống mống chết

Giải thích về nguồn gốc của thành

ngữ này, tác giả Tiêu Hà Minh [12, 284]

có kể một câu chuyện như sau:

Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng

Tử: "Người khôn có sống lâu không"?

Khổng Tử đáp: "Có, khôn thì sống lâu

chứ dại thì sống lâu sao được". Rồi

Khổng Tử giảng giải: Người ta có ba

cái thứ chết. Ăn uống khó nhọc quá,

lười biếng ăn chơi sa đọa quá, người

như thế thì chết vì bệnh tật. Phận là

người dưới mà xúc phạm người trên,

lòng tham muốn vô độ, làm điều phi

nghĩa, người như thế thì chết về hình

pháp. Mình ngu mà kình địch người

khôn, yếu mà khinh bỉ người mạnh,

cứ giận dữ làm liều, không biết lượng

sức mình, người đó tất chết về binh đao.

Ba thứ ấy chết, thực không phải

số mệnh, chỉ tự mình giết mình. Rồi

Khổng Từ cả cười: "Khôn sống, mống

chết".

Câu chuyện trên được tác giả

trích từ Cổ học tinh hoa do Nguyễn

Văn Ngọc sưu tầm và biên soạn. Dựa

theo câu chuyện này, người ta sẽ dễ

dàng đi đến nhận định rằng thành ngữ

khôn sống mống chết có nguồn gốc

từ tiếng Hán chứ không phải thành

ngữ thuần Việt.

Tuy nhiên chúng tôi lại thấy băn

khoăn ở mấy điểm sau:

Thứ nhất, câu chuyện trên được

in trong cuốn Đi tìm điển tích thành

ngữ của tác giả Tiêu Hà Minh. Mục

đích của cuốn sách là giải thích nguồn

gốc của thành ngữ, tục ngữ dựa vào

nghĩa đen của chúng. Để giúp người

đọc hiểu rõ về gốc tích của thành ngữ,

tác giả đã sưu tầm, tập hợp, cải biên,

phóng tác, sáng tác những câu chuyện

trong kho tàng văn học dân gian, bao

gồm truyện cổ tích, truyện cười, điển

tích cổ sự, cổ học, lịch sử... Tác giả

viết: "Chuyện được sáng tác ra từ thành

ngữ, tục ngữ hoặc từ truyện mà có

thành ngữ, tục ngữ...". Như vậy, dựa

vào nhận định này, chúng tôi nghi ngờ

rằng đây rất có thể chỉ là một câu chuyện

giả danh được tác giả phóng tác ra

sau khi đã xuất hiện thành ngữ khôn

sống mống chết, nhằm giải thích về

nguồn gốc của thành ngữ này.

Thứ hai, xét về hình thức ngữ

âm, các yếu tố trong thành ngữ này

đều là những âm đã có từ lâu đời trong

tiếng Việt, có thể khẳng định đây là

những âm thuần Việt. Ngay cả từ mống -

yếu tố gây tranh cãi trong thành ngữ

này cũng là thuần Việt. Bằng chứng

là trong dân gian vẫn tồn tại cách nói

mống cụt, chỉ đoạn cầu vồng hiện ra

ở chân trời, đối diện với mặt trời (mống

bên đông, vồng bên tây, chẳng mưa

dây thì bão giật). Vậy mống có nghĩa

là gì?

Tác giả Lê Gia trong [5] cho rằng

hình thức đúng của thành ngữ này là

khôn sống bống chết. Ông giải thích

bống là "cá bống" nghĩa là "dại'. Có

khá nhiều ý kiến đồng tình với hình

thức này. Truy tìm...

13

Vậy, khôn sống mống chết hay

khôn sống bống chết?

Theo chúng tôi, thành ngữ này

phải là khôn sống mống chết, trong

đó mống phải là yếu tố trái nghĩa với

khôn theo quy luật cấu tạo đối và điệp

của thành ngữ như chúng ta đã biết.

Thực tế đã đúng như vậy. Trong Từ

điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã giải

thích từ mống như sau: "(cũ) Dại, không

khôn ngoan. Khôn sống mống chết".

Hiểu như thế là hoàn toàn phù hợp

về ‎ ý nghĩa cũng như cấu trúc đối và

điệp trong cách cấu tạo của thành

ngữ này.

2.3. Thành ngữ được giải thích

có xuất xứ cả từ trong tiếng Việt và

trong tiếng Hán

Như chúng ta biết, quá trình giao

lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn

hóa Trung Quốc trải qua gần hai nghìn

năm. Sự giao lưu, tiếp xúc này đã để

lại dấu ấn trong kho tàng thành ngữ.

Bằng chứng là có khá nhiều thành ngữ

vừa xuất hiện trong tiếng Hán vừa xuất

hiện trong tiếng Việt. Thí dụ: thành

ngữ ếch ngồi đáy giếng được cho là

dịch nghĩa thành ngữ tỉnh để chi oa,

đàn gẩy tai trâu được cho là dịch từ

đối ngưu đàn cầm, gội gió dầm mưa

dịch từ mộc vũ trất phong, cao chạy

xa bay dịch từ cao phi viễn tẩu, dễ

như trở bàn tay dịch từ dị như phản

chưởng v.v.. Nói cách khác, đây là

những thành ngữ Việt được cho là

dịch nghĩa của thành ngữ gốc Hán.

Vậy giải thích như thế nào về nguồn

gốc của các thành ngữ nói trên?

Như chúng ta biết, Việt Nam và

Trung Quốc là hai nước láng giềng,

có quan hệ mật thiết về nhiều mặt.

Hai nước có nhiều điểm tương đồng

về văn hóa (như kinh tế nông nghiệp,

cách ứng xử, chào hỏi, ăn uống cho

đến cả phương thức tư duy). Vì vậy,

có thể có hiện thực khách quan giống

nhau và sự trùng lặp về tư duy liên

tưởng giữa hai dân tộc. Những thành

ngữ kể trên, theo chúng tôi là kết quả

của sự trùng lặp đó. Lấy thí dụ: Tiếng

Việt có thành ngữ ếch ngồi đáy giếng,

tiếng Hán có thành ngữ tỉnh để chi

oa với nghĩa tương đương. Tuy có ý

kiến cho rằng thành ngữ ếch ngồi đáy

giếng được dịch từ thành ngữ Hán

tỉnh để chi oa, song, cũng có nhiều

bằng chứng cho thấy thành ngữ ếch

ngồi đáy giếng có xuất xứ từ Việt Nam.

Thứ nhất, như chúng ta biết, truyện

cổ tích là một trong những nguồn tạo

nên thành ngữ. Trong kho tàng truyện

cổ Việt Nam do Ôn Như Nguyễn Văn

Ngọc biên soạn còn ghi lại câu chuyện

Con ếch và bầu trời. Từ câu chuyện

ngụ ngôn về một con ếch với thái độ

nhâng nháo, coi trời bằng vung mà

người Việt Nam khái quát nên thành

ngữ ếch ngồi đáy giếng.

Thứ hai, các chất liệu ngữ âm

(âm, vần) cấu tạo nên thành ngữ ếch

ngồi đáy giếng đều thuần Việt. Các

vần ếch, ay là các vần mang tính chất

thuần Việt rất rõ.

Vì vậy, có thể kết luận ếch ngồi

đáy giếng là thành ngữ Việt chứ không

phải được dịch nghĩa từ thành ngữ

Hán tỉnh để chi oa.

Tương tự như vậy, thành ngữ

cao chạy xa bay. Nhiều tài liệu cho

rằng cao chạy xa bay là thành ngữ

có nguồn gốc Hán, được dịch từ thành

ngữ cao phi viễn tẩu. Tuy nhiên, xét

về cấu tạo, thành ngữ Việt cao chạy

xa bay là một thành ngữ có cấu tạo phi Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

logic. Kiểu cấu tạo này nằm trong

hệ thống hàng loạt các thành ngữ Việt

có trật tự phi logic như con ông cháu

cha, im hơi lặng tiếng, nhường cơm

sẻ áo, của đau con xót, sẩy đàn tan

nghé, hòn tên mũi đạn v.v.. Đó là lối

nói kết hợp tách xen các thành tố của

hai từ ghép hoặc hai tổ hợp song tiết

vào nhau khá phổ biến trong tiếng Việt:

con cháu và ông cha; nhường sẻ và

cơm áo… Trong khi thành ngữ Hán

cao phi viễn tẩu lại là thành ngữ có

cấu tạo theo trật tự lô gích thông thường.

Vì vậy, có thể khẳng định cao chạy

xa bay là thành ngữ thuần Việt.

Tóm lại, dù có nhiều cách giải

thích khác nhau về nguồn gốc xuất

xứ của một thành ngữ thì xét đến cùng

chúng được hình thành từ lời ăn tiếng

nói hàng ngày của nhân dân, từ nhu

cầu phản ánh sự vật một cách hình

ảnh, cô đọng. Khi mới hình thành, các

thành ngữ có nguồn gốc xuất xứ rõ

ràng. Tuy nhiên, do tác động của thời

gian, không gian, các thành ngữ có

sự biến đổi về hình thức ngữ âm và

nội dung ngữ nghĩa. Từ đó, dẫn đến

một thành ngữ có thể được giải thích

theo nhiều nguồn gốc khác nhau. Xét

ở bình diện không gian, các nhân tố

như văn hóa, nghề nghiệp, lối sống,

hoàn cảnh địa lí... ở các địa phương

khác nhau đã tác động đến ngôn ngữ

nói chung, thành ngữ nói riêng, khiến

sự thay đổi diễn ra là tất yếu. Xét ở

mặt thời gian, sự vận động chuyển

biến trong ngôn ngữ nói chung, thành

ngữ nói riêng cũng là quy luật. Nói

như Saussure: "Người ta quên nhân

tố thời gian, vì nó không cụ thể bằng

nhân tố không gian. Nhưng thật ra,

chính do nó mà có sự phân hóa ngôn

ngữ" [4].

Dưới đây, chúng tôi lí giải một

vài nguyên nhân khiến cho một thành

ngữ trở nên có nhiều cách giải thích

xuất xứ khác nhau.

3. Một số nguyên nhân khiến

một thành ngữ có nhiều cách giải

thích nguồn gốc khác nhau

Nguyên nhân thứ nhất: trong quá

trình phát triển của từ vựng, một số

yếu tố cấu tạo nên thành ngữ đã trở

thành từ cổ. Đó là những từ ngữ thuần

Việt bình thường đã từng có thời gian

được sử dụng phổ biến trong lời nói

hàng ngày, nhưng qua thời gian sàng

lọc chúng không còn được sử dụng

nữa mà chỉ tồn tại trong các tác phẩm

văn học cổ hoặc trong thành ngữ, tục

ngữ, ca dao cổ. Những từ này đã mất

đi trong ngôn ngữ hiện đại hoặc có

xuất hiện thì cũng không giữ nghĩa

cổ nữa khiến người Việt hiện nay

không hiểu được ý nghĩa của chúng.

Chẳng hạn, yếu tố mông trong đồng

không mông quạnh, hay yếu tố tràng

trong thành ngữ áo cứ tràng, làng

cứ xã...

Nguyên nhân thứ hai, một số thành

ngữ đã tách hẳn khỏi môi trường cụ

thể của ngành nghề đã sản sinh ra chúng

để trở thành lối nói chung của toàn

xã hội. Thí dụ: sạch nước cản vốn là

lối nói của thuật đánh cờ. Sạch là "hết

tất cả, không còn sót lại chút nào",

nước là bước đi theo cách đã được quy

định của mỗi quân cờ mỗi lần, làm

ảnh hưởng đến thế cờ (thí dụ: mã đi

ô chữ nhật, tượng đi ô chữ điền, xe

đi liền, pháo đi cách...), cản là "ngăn

chặn". Do vậy, thoạt đầu Sạch nước

cản là cụm từ tự do biểu thị trình độ

đánh cờ ở mức tạm được, mới chỉ

biết hết những nguyên tắc đi của các Truy tìm...

13

con cờ khi nào thì không bị cản trở

(thí dụ như lối đi của con mã), chứ

chưa phải là tay cờ cao thủ. Sau đó

cụm từ này được cố định hóa để biểu

trưng cho trình độ nhận thức hoặc nhan

sắc của người phụ nữ ở mức tạm được.

Thí dụ:

Về trình độ chuyên môn thì tay

này cũng chỉ sạch nước cản, nhưng

được cái là cần cù, chăm chỉ, nên cũng

làm được việc.

Hoặc:

Nó cưỡi ngựa đi giữa lòng đường,

nhòm nhỏi từng cô, cô nào sạch nước

cản thì chết với nó (Lí Biên Cương,

Người đãi vàng)

Thành ngữ chân chỉ hạt bột vốn

là từ ngữ nghề nghiệp của nghề thêu.

Thoạt tiên, cụm từ này chỉ "tua bằng

chỉ màu có kết hạt trang trí, thường

đính vào mép các bức thêu". Dần dần,

cụm từ này tách khỏi nghề thêu, người

sử dụng không còn hiểu đúng ý nghĩa

ban đầu của nó nữa. Từ những đường

viền chân chỉ hạt bột đều tăm tắp quanh

các bức thêu, cụm từ này có sự chuyển

nghĩa hoán dụ sang chỉ phẩm chất

của con người - "thật thà, chất phác,

không gian ngoan".

Trong Từ điển thành ngữ và tục

ngữ Việt Nam, thành ngữ quyền thằng

hủi được Nguyễn Lân giảng nghĩa

như sau: Trong xã hội cũ, người bị

bệnh phong bị xã hội ruồng bỏ; ý nói

chẳng có quyền hành gì. Thành ngữ

này được sắp xếp cùng hệ thống các

thành ngữ có yếu tố quyền như quyền

sinh quyền sát, quyền cao chức trọng,

quyền rơm vạ đá, quyền huynh thế

phụ... Như vậy, quyền trong quyền

thằng hủi và quyền trong các thành

ngữ trên đều được tác giả hiểu là những

điều do địa vị hay chức vụ mà được

làm. Tuy nhiên, quyền trong thành

ngữ quyền thằng hủi lại không mang

nghĩa như vậy, mà có nghĩa là "môn

võ đánh bằng tay không, không dùng

khí giới" [14]. Cái nắm tay của thằng

hủi không có ngón thì không thể đấm

được. Vì vậy, quyền thằng hủi có

nghĩa chỉ những tay võ kém cỏi. Do

có sự liên tưởng đồng âm giữa quyền

(với nghĩa là những điều được làm do

chức vụ hay địa vị quy định) và quyền

(với nghĩa chỉ một môn võ thuật) mà

cụm từ này đã chuyển sang được hiểu

là "những kẻ bất tài nhưng lại nắm

giữ những cương vị "ngon lành"".

Có thể dẫn chứng thêm một vài

thành ngữ như bắt cá hai tay, vụng

chèo khéo chống, mũi vạy lái phải

chịu đòn, năm giềng ba mối, lật đật

như quai sa vật vải v.v.. Các thành

ngữ trên thoạt tiên là những kinh

nghiệm của một ngành nghề nào đó,

dần dần chúng tách khỏi môi trường

đã sản sinh ra để trở thành lối nói

toàn dân.

Tóm lại, trong kho tàng thành

ngữ tiếng Việt, có một số đơn vị vốn

là những lối nói chuyên ngành, những

biệt ngữ mà người ngoài nghề không

hiểu đúng nội dung ngữ nghĩa của

chúng, từ đó dẫn đến sử dụng sai. Trải

qua thời gian, các thành ngữ này dần

dần mất đứt liên lạc với nguồn gốc

đích thực của chúng, trở thành lối nói

toàn dân. Lí giải cho hiện tượng này

phải chăng là do quy luật liên tưởng

đồng âm trong ngôn ngữ?

Một nguyên nhân nữa khiến cho

một thành ngữ có nhiều cách giải thích

nguồn gốc xuất xứ khác nhau, đó là

do chúng bị từ nguyên dân gian làm

cho "méo mó". Các thành tố cấu tạo Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

nên thành ngữ có thể bị thay đổi một

cách võ đoán làm cho mối liên hệ giữa

các thành tố trở nên khó hiểu. Cách

giải thích thành ngữ áo cứ chàng, làng

cứ xã trong Từ điển thành ngữ, tục

ngữ của Nguyễn Lân đã dẫn trên là

trường hợp như vậy.

Hoặc thành ngữ buồn như chấu/

trấu cắn. Từ điển của Nguyễn Như

Ý ghi là buồn như chấu cắn và giảng

nghĩa thành ngữ này như sau: (Buồn:

vốn có nghĩa chỉ cảm giác bứt rứt,

hơi khó chịu do tác động bên ngoài

như bị châu chấu cắn chẳng hạn); rất

buồn, trong lòng bồn chồn, bứt rứt.

Cũng thành ngữ trên, Từ điển giải

thích thành ngữ, tục ngữ của Vũ Dung

lại ghi là buồn như trấu cắn và chú

giải nghĩa của thành ngữ này như sau:

(trấu: lớp vỏ cứng đã tách ra của hạt

thóc; trấu cắn: trấu dính vào da khiến

người ta ngứa ngáy); Tâm trạng bứt

rứt không yên. Như vậy, phần nghĩa

chung của thành ngữ này được các

từ điển lí giải khá thống nhất. Điểm

không thống nhất ở đây là cách ghi

hai từ chấu và trấu. Vì ghi bằng hai

hình thức ngữ âm khác nhau nên dẫn

đến hai cách hiểu và giải thích khác

nhau về nguồn gốc và nghĩa đen của

thành ngữ.

Theo chúng tôi, hình thức đúng

của thành ngữ trên phải là buồn như

trấu cắn. Trấu ở đây chỉ lớp vỏ cứng

đã tách ra khỏi hạt thóc. Cách hiểu

này có cơ sở từ thực tế sinh hoạt của

người Việt Nam xưa kia. Chẳng là

trong quan niệm của người Việt, lúa

gạo là loại lương thực quan trọng nhất,

chiếm vị trí số 1 trong cơ cấu ăn của

người Việt Nam. Chính vì vậy, tiếng

Việt có rất nhiều từ liên quan đến phạm

vi biểu vật lúa gạo. Để lúa (hay thóc)

trở thành gạo, người ta phải tiến hành

xay, giã. Quá trình xay lúa đã tách vỏ

ngoài của hạt lúa ra gọi là trấu. Từ

trấu, người ta có thể tận dụng nó vào

nhiều việc như bón phân, đốt đống

dấm, hoặc rắc lên trên các ruộng rau

cải. Vì thường xuyên tiếp xúc với trấu

nên khi trấu dính vào người, người

ta dễ có cảm giác ngứa ngáy. Yếu tố

buồn ở đây chỉ cảm giác xúc giác, chứ

không có nghĩa chỉ trạng thái tâm lí.

Đây chính là cơ sở xuất hiện của thành

ngữ buồn như trấu cắn. Do lối phát

âm không phân biệt tr và ch ở vùng

Bắc Bộ mà trấu nói thành chấu.

Tóm lại: Qua tìm hiểu một số

thành ngữ thuần Việt có nhiều cách

giải thích xuất xứ nguồn gốc khác nhau,

chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau:

1. Số lượng thành ngữ thuần Việt

rất lớn, lại liên tục được bổ sung theo

thời gian nhưng chung quy lại chúng

được hình thành từ mấy nguồn chính

sau đây:

- Từ các phong tục của người

Việt như phong tục hôn nhân, tang

ma, lễ tết và lễ hội; các tín ngưỡng

như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thần

linh, tư tưởng sùng bái con người,

sùng bái thiên nhiên và các loài động

thực vật;

- Các lĩnh vực văn hóa khác nhau

như: văn hóa ăn, văn hóa mặc, văn

hóa ở, văn hóa đi lại;

- Từ các tích truyện dân gian,

nhân vật điển hình trong các tác phẩm

văn học nổi tiếng;

- Một số thành ngữ do người Việt

tạo ra bằng cách mượn các điển tích,

điển cố tiếng Hán, được Việt hóa về

ngữ âm, để làm chất liệu cấu tạo theo Truy tìm...

13

lối tư duy và quy tắc ngữ pháp của

tiếng Việt.

Khi các thành tố cấu tạo thành

ngữ đều có ‎ ý nghĩa rõ ràng, thành ngữ

không chứa từ cổ, từ ít dùng hoặc không

có sự biến dạng về ngữ âm thì mối liên

hệ giữa thành ngữ và nguồn gốc ra

đời của chúng có thể nhận thấy rõ ràng.

Bên cạnh đó, còn có một số thành

ngữ được giải thích xuất xứ từ nhiều

nguồn khác nhau do trong thành ngữ

có những từ cổ, nghĩa cổ hoặc có sự

biến dạng ngữ âm khiến thành ngữ

khó hiểu hoặc có nhiều cách hiểu khác

nhau về ‎ ý nghĩa. Khi đó dễ có sự tác

động của từ nguyên dân gian. Đối với

những thành ngữ này, bằng phương

pháp phân tích, phục nguyên chúng

ta có thể xác định chính xác nguồn

gốc của chúng, trả chúng về với xuất

xứ ban đầu.

2. Tìm hiểu nguồn gốc ra đời của

thành ngữ thuần Việt như chúng ta

thấy quả là một vấn đề rộng lớn và

phức tạp. Rộng bởi hai lẽ: Thứ nhất

là vấn đề thời gian. Các thành ngữ

cũng giống như từ, vốn ra đời từ rất

xa xưa. Hơn nữa, chúng lại ra đời trong

một xã hội Việt Nam cổ truyền, khi

mà nhận thức của con người còn rất

''ngây thơ", kinh tế nghèo nàn, lạc

hậu. Các chất liệu cấu tạo nên thành

ngữ chủ yếu là những sự vật, hiện

tượng gắn bó với đời sống sinh hoạt

của người xưa.

Thứ hai là vấn đề không gian.

Liên quan mật thiết đến sự hình thành

của thành ngữ không chỉ có nhân tố

ngôn ngữ mà còn có sự chi phối của

các nhân tố ngoài ngôn ngữ liên quan

đến văn hóa như phong tục, tôn giáo,

tín ngưỡng, lễ hội... Chính những lí

do kể trên khiến cho việc truy tìm

nguồn gốc thành ngữ đòi hỏi phải

có sự nghiên cứu liên ngành, thống

hợp. Bất kì một sự nghiên cứu nào

về nguồn gốc của thành ngữ nếu bỏ

qua một trong hai phương diện trên

đều là sự nghiên cứu phiến diện, dễ

dẫn đến sai lầm.

3. Trong sự ra đời của thành ngữ,

bên cạnh sự chi phối của các nhân

tố ngoài ngôn ngữ như đã kể trên, còn

có sự tác động của các quy luật ngôn

ngữ mà nổi bật là quy luật liên tưởng.

Có hai quy luật liên tưởng quan trọng,

đó là liên tưởng tương đồng (tạo nên

các thành ngữ ẩn dụ), liên tưởng tương

cận (tạo nên các thành ngữ hoán dụ).

Đặc biệt, liên tưởng đồng âm cũng

là một trong những cơ sở quan trọng

tạo nên nhiều biến thể thành ngữ khiến

có thể có nhiều cách giải thích nguồn

gốc khác nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. An Chi, Chuyện Đông chuyện

Tây, Tập 1, Nxb Trẻ, 2006.

2. Huình Tịnh Plaus Của, Đại Nam

quấc âm tự vị, Nxb Sài Gòn, 1895.

3. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ

Quang Hào, Từ điển thành ngữ và tục

ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông

tin, H., 1995.

4. Ferdinand de Saussure, Giáo

trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb

KHXH, H.,1973.

5. Lê Gia, 1575 thành ngữ, tục

ngữ cần bàn thêm, Nxb Văn Nghệ.

2009.

6. Nguyễn Thiện Giáp, Về khái

niệm thành ngữ tiếng Việt, T/c Ngôn

ngữ, Số 3, 1974. Ngôn ngữ số 9 năm 2012

26

7. Hoàng Văn Hành, Thành ngữ

học tiếng Việt, Nxb KHXH, H., 2008.

8. Hoàng Văn Hành (chủ biên),

Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb

Văn hóa Sài Gòn, 2005.

9. Nguyễn Lân, Từ điển thành

ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn

học, H., 1989.

10. Nguyễn Lực, Lương Văn Đang,

Thành ngữ tiếng Việt, Nxb KHXH,

H.,1978.

11. Trịnh Mạnh, Tiếng Việt lí thú

tập 2, Nxb GD, H.,2003.

12. Tiêu Hà Minh, Đi tìm điển tích

thành ngữ, Nxb Thông tấn, H., 2008.

13. Nguyễn Văn Nở, Về nguồn

gốc của thành ngữ "Công tử bột", T/c

Ngôn ngữ và đời sống, Số 1&2, 2004.

14. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển

tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Ngôn

ngữ, H.,1992.

15. Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu

tiếng Việt lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm

Hà Nội, 1993.

16. Nguyễn Ngọc San, Từ điển

từ Việt cổ, Nxb Sài Gòn, 2001.

17. Nguyễn Ngọc San (chủ biên),

Từ điển giải thích điển cố văn học dùng

trong nhà trường, Nxb GD Việt Nam,

H., 2010.

18. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn

hóa Việt Nam, Nxb GD, H., 1999.

19. Huỳnh Công Tín biên soạn,

Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH,

Năm xb

20. Nguyễn Đức Tồn, Cách nhận

diện và phân biệt từ thuần Việt với từ

Hán Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 2, 2001.

21. Nguyễn Như Ý, Từ điển thành

ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa, H., 1973.

22. Trang web: http://vnpt-

hanoi.com.vn

SUMMARY

This article considers pure Vietnamese

idioms to be the ones which are created

by the Vietnamese people based on pure

Vietnamese language materials, or the

ones which are created by the Vietnamese

people in conformity with their ways

of thinking, reflecting their feelings and

spiritual life on the basis of the classical

literary allusions borrowed from Chinese.

The article analyzes these idioms,

explaining why different interpretations

about their origins occur. This may be

due to the relations of the contents of these

idioms to different cultural phenomena,

or the variations in structure which result

in the variations in meanings, or the

similarities in objective realities, and

the similar ways of thinking of the

Vietnamese and the Chinese people. Based

on these facts, the article attempts to trace

the origins of some pure Vietnamese idiomsTruy tìm...

13

Từ khóa » Dán Phù Luồn Kèo