Tu Nhân (Xử Thế Và Tứ Ân) - Phật Giáo Hòa Hảo

Nhận Thức Phật Giáo Hòa Hảo
  • Tựa
  • Chương I: Nguồn gốc Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (Nguyên Thỉ)
    • Phật Thầy Và Danh Từ Bửu Sơn Kỳ Hương
    • Phật Thầy Và Danh Từ Bửu Sơn Kỳ Hương
    • Giáo Lý Học Phật Tu Nhân
    • Ảnh Hưởng Trong Dân Chúng
  • Chương II: Nguồn Gốc Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (Hiện Duyên)
    • Các Vị Hoằng Đạo Sau Đức Phật Thầy
    • Đức Giáo Chủ Xuất Hiện
    • Bửu Sơn Kỳ Hương Và Phật Giáo Hòa Hảo Chỉ Là Một
    • Ảnh Hưởng Trong Đại Chúng
  • Chương III : Đức Giáo Chủ Và Công Đức Truyền Giáo
    • Chữa Bịnh Để Truyền Giáo
    • Thuyết Pháp Để Truyền Giáo
    • Biên Kinh Để Truyền Giáo
  • Chương IV: Đức Giáo Chủ và Sứ Mạng Thiêng Liêng
    • Thần cách của Đức Giáo Chủ
    • Bản chất đại giác, đại bi và quyền năng của Đức Giáo Chủ
    • Sứ mạng thiêng liêng của Đức Giáo Chủ
  • Chương V: Đức Giáo Chủ Trong Việc Thi Hành Sứ Mạng
    • Từ Khùng Điên đến Tiên Phật
    • Từ những sự kiện quan sát đến lời khuyên tu hành
    • Từ những nét thông thường đến những điểm cao siêu trong Giáo Lý và những hình ảnh cụ thể đến những tưởng trừu tượng.
  • Chương VI: Sự Canh Tân và Quy Nguyên Trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo
    • Cần hiểu rõ Đạo Phật
    • Mục đích cứu cánh của Phật
    • Đạo Phật bị bày đặt thêm
    • Phật Giáo Hòa Hảo đã quy nguyên Phật Pháp
    • Phật Giáo Hòa Hảo đã canh tân Giáo Điều
  • Chương VII: Giáo Lý Căn Bản Phật Giáo Hòa Hảo
    • Học Phật (Tu Phước và tu Huệ)
    • Tu Nhân (Xử thế và Tứ Ân)
  • Chương VIII: Tinh Thần Khổng, Lão Trong Giáo Lý Phật Giáo Hòa Hảo
    • Vị trí Khổng Mạnh trong Phật Giáo Hòa Hảo
    • Giáo thuyết Nho Giáo trong Phật Giáo Hòa hảo
    • Vị trí Lão Trang trong Phật Giáo Hòa Hảo
    • Ảnh hưởng Lão Trang trong Phật Giáo Hòa Hảo
  • Chương IX: Tinh Thần Cách Mạng Quốc Gia trong Phật Giáo Hòa Hảo
    • Tư tưởng cách mạng thoát thai từ đạo Phật
    • Các hoạt động cách mạng quốc gia và tinh thần dân chủ xã hội của Đức Thầy
  • Chương X: Phật Giáo Hòa Hảo Với Bản Sắc Dân Tộc
    • Quan niệm Tiên Rồng
    • Giữ nền nếp cũ
    • Nuôi dưỡng tinh thần quốc gia
    • Tính chất giản dị trong việc thờ cúng là tính chất dân tộc
    • Sấm Giảng với đặc tính dân tộc
    • Dân tộc nhưng đại đồng
  • Chương Thứ XI: Phật Giáo Hòa Hảo Với Quần Chúng
    • PGHH xuất thế hay nhập thế
    • PGHH chán đời hay yêu đời
    • Mối liên quan giữa Đời và Đạo
    • PGHH với quần chúng
  • Chương Thứ XII: Sự Thực Hư và Lối Vần Vè Trong Thi Văn Sấm Giảng Phật Giáo Hòa Hảo
    • Sự thực hư trong lối văn tiên tri của người xưa
    • Chư Tổ trong Bửu Sơn Kỳ Hương cũng dùng lối thực hư để tiên đoán
    • Đức Giáo Chủ với sự thực hư và lối vần vè
    • Đức Giáo Chủ có mục đích gì khi dùng lối văn ấy?
  • Chương Thứ XIII: Nền Văn Minh Tây Phương Qua Sấm Kinh Phật Giáo Hòa Hảo
    • Văn minh là gì?
    • Hậu quả bi thảm của văn minh khoa học.
    • Những lời cảnh cáo
  • Chương Thứ XIV: Ý Nghĩa Vô Vi Trong Phật Giáo Hòa Hảo
    • Vô Vi qua học thuyết Lão Trang
    • Vô Vi trong đạo Phật
    • Vô Vi trong Giáo Lý của Đức Giáo Chủ
    • Tìm hiểu chữ Vô Vi
  • Chương Thứ XV: Vấn Đề Hòa Bình Trong Phật Giáo Hòa Hảo
    • Sự lấn áp của văn minh khoa học đối với đạo đức nhân nghĩa
    • Tình trạng bất ổn mỗi lúc một tăng
    • Làm sao đi đến hòa bình thế giới
    • Dấu chấm dứt của khúc bi ca lịch sử
    • Hội Long Hoa, ngày giải quyết vấn đề
  • Chương Thứ XVI: Sự Dung Hóa Giữa Giáo Lý Từ Bi và Tinh Thần Ái Quốc Trong Phật Giáo Hòa Hảo
    • Từ bi không có nghĩa cầu an, tiêu cực
    • Ái quốc không có nghĩa bài ngoại, hiếu sát
    • Ái quốc là một cạnh khía của Từ Bi
    • Giáo Lý từ bi và tinh thần ái quốc cùng dung hóa một cách thích đương
    • Nhưng người tu không được vịn vào cớ ái quốc mà để cho lợi danh cám dỗ
  • Chương Thứ XVII: Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo Không Phải Là Một Đoàn Thể Chánh Trị
    • Giáo Lý và sự hành Giáo
    • Những cái nhìn thiên lệch
    • BSKH và PGHH có phải là đảng cách mạng khoác áo tôn giáo ?
    • BSKH và PGHH với xu hướng tôn giáo hóa chánh trị
  • Chương Thứ XVIII: Sự Bành Trướng Và Tiềm Lực Tự Tồn Của Phật Giáo Hòa Hảo
    • Với thực dân
    • Với vô thần
    • Với phong kiến
    • Với hạng người lợi dụng
    • PGHH vẫn bành trướng và tự tồn
  • Chương Thư XIV: Phật Giáo Hòa Hảo Ngày Nay
    • Tổ chức cơ cấu
    • Trọng tâm công tác
    • Ảnh hưởng PGHH
  • LỜI BẠT

Trên đây là phần học Phật mà tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo luôn luôn chuyên trì tu niệm, nhưng ngoài việc họcPhật, họ còn phải tích cực tu Nhân.

-Tại sao ta phải tu Nhân? Tại sao con người Phật tử đã theo Phật rồi, lại không xuất gia, rời thế gian để đi thẳng vào cõi giải thoát mà còn làm việc đời, còn bận bịu trần ai?

Đó là câu hỏi mà có lẽ nhiều người còn băn khoăn khi đứng giữa hai nẻo đường đời và đạo.

Cổ nhân có câu “Dục tu tiên đạo, tiên tu nhân đạo, nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn hĩ”. Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng dạy rằng :

Tu đền nợ thế cho rồi

Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen.

Như vậy, chúng ta đã được thấy rằng :”Phật đạo bất ly thế gian”. Bởi vì lìa đời, Đạo còn cải sửa cho ai, và một khi đã không được cải sửa thì xã hội nầy sẽ ra sao? Cho nên Đức Giáo Chủ đã nhiều phen ân cần nhắc nhở :

Đòi không đạo đời vô liêm sỉ

Đạo không đời đạo biết dạy ai

Vì vậy mà trong việc tu nhân, điều trước tiên là phải tu thân xử kỷ, Ngài khuyên mọi người nên dứt bỏ những cổ lệ lỗi thời, những tập tục hủ bại để rồi “ rán giữ gìn phong hóa nước nhà”.

Đức Giáo Chủ với lời lẽ ôn hòa lưu loát bàng bạc trong Thi văn. Ngài dạy, tín đồ rạch ròi từ chân tóc kẻ răng, nào cách ở ăn với xóm giềng, việc xã giao trong hương đẳng, rồi tình bè bạn, nghĩa thầy trò, đạo chồng vợ… Tất cả nhữngtình ba trong nho giáo cũng như những giáo điều xử thế tiếp vật của Phật giáo. Ngài đều đã rút tỉa và giảng dụ cho tín đồ. Ngài đã quan niệm một xã hội an lạc tại thế gian, một xã hội mà trong đó toàn là con người chân thực với sự phát triển tột độ về than tâm:

Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng

Đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc

Ngoài ra, người cư sĩ tại gia còn có bốn trọng ân không thể nào không đền đáp được. Bốn trọng ân đó là :

-Ân tổ tiên cha mẹ

-Ân đất nước

-Ân tam bảo

-Ân đồng bào và nhân loại

1- Ân Tổ Tiên Cha Mẹ: Cây có cội, nước có nguồn. Thân xác nầy có được là nhờ đâu nếu không phải nhờ ở tổ tiên cha mẹ ?

Cổ nhân có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”. Con người nếu không gìn hiếu đạo thì dầu họ không tự tủi hổ với lương tâm, cũng bị mọi người khinh khi xa lánh.

Theo Đức Giáo Chủ thì hiếu đạo chẳng những chỉ“chăm lo nuôi dưỡng báo đền” mà còn phải làm sao cho cha mẹ được luôn luôn yên lòng đẹp dạ nữa.

Một hôm, có một môn đệ hỏi Đức Giáo Chủ rằng : Thầy có dạy :

Nếu ai biết chữ tu trì

Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn

Nhưng con thấy có người lo cho cha mẹ uống ăn no đủ, mà trái lại, họ thường làm phiền cha mẹ thì có nên không? Đức Giáo Chủ liền đọc cho tín đồ kia nghe hai câu trong Sấm Giảng :

Ở cho biết nhượng biết tùy

Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.

Rồi Ngài giảng tiếp rằng : “Người con hiếu không chỉ làm chữ hiếu như Tử Lộ mà còn phải có được cái hiếu của Tăng Sâm.

Thì ra, Tử Lộ người Xuân Thu, học trò Khổng Tử, rất có hiếu. Thường đường xa đổi gạo để kiếm tiền nuôi mẹ. Được liệt vào một trong nhị thập tứ hiếu của Tàu. Nhưng tính Tử Lộ cương cường, đôi khi làm cho mẹ vì con mà lo sợ buồn khổ. Lúc ông được làm quan phú quí thì mẹ đã mất, ông hằng than thở : Ta không còn được đội gạo để nuôi mẹ nữa. Còn Tăng Sâm là con của Tăng Tích, mỗi bửa cơm đều có rượu thịt dâng lên cho cha. Mỗi khi ăn xong dẹp mâm xuống, ông còn hỏi cha : “Đồ ăn thừa nên cho ai?”. Làm như thế Tăng Tử muốn cho cha được vui lòng, vì còn của dư, có thể đem cho người khác. Mạnh Tử khen Tăng Tử biết nuôi cha phải đạo, ông không những nuôi cha về thể xác mà còn nuôi dưỡng tâm trí cha nữa.

2.Ân Đất Nước : Sanh ra con người nhờ tổ tiên cha mẹ, nhưng sống được là nhờ tất đất ngọn rau. Mộtdải giang sơn ta ở đậu phải tự nhiên có được mà phải do công lao tranh thủ không ngừng của các bậc tiền bối tự nghìn xưa :

Bắc Nam một giải san hà

Mồ hôi giọt máu ông cha ta bồi

Cho nên bổn phận công dân là phải bảo vệ đất nước. Bởi vì : “Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên , quốc gia mạnh giàu than ta mới ấm”.

Vì quan niệm như trên, nên Đức Giáo Chủ đã tự mình thực hiện cứu quốc bằng cách “Rứtáo cà sa khoác chiến bào”. Ngài đã cất tiếng buồn than khi non song nghiêng ngửa :

Yêu nước bao đành trơ mắt ngó

Thương đời chưa vội ẩn non cao

Và Ngài đã quả quyết lên đường cứu quốc :

Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha

Việc cứu nướcchỉ là một phương tiện đượcáp dụng trong một giai đoạn bảo vệ quốc gia, đồng bào và bảo vệ tín ngưỡng mà thôi. Khi nước nhà an lạc, người Phậttử liền trở về vị trí tu hiền để được vào cõi siêu hình, giải thoát :

Đền xong nợ nước thù nhà

Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô

3. Ân Tam Bảo : Tam Bảo tức Phật, Pháp, Tăng. Có Phật mới có Pháp, nhờ Phật mà chúng sanh mới có người được chuyển mê thành ngộ, cho nên không Phật tử nào được quên ân Phật. Biết ân Phật, người Phật tử lại phải thực hành các Pháp mà Phật truyền dạy, vậy Pháp bảo là món báu vô song. Đến như Tăng là hạng người giử Pháp và truyền bá các Pháp cho người đời hiểu rõ. Cho nên người Phật tử cũng cần tôn trọng các tăng nit u hành chân chính để cho Phật Pháp được truyền thụ lâ dài.

4. Ân Đồng Bào và Nhân Loại : Con người khi lọt lòng mẹ, đã phải chịu ơn của những kẻ xung quanh. Càng lớn lên, con người càng nhờ nhỏi đồng bào nhiều hơn nữa. Do đó, mọi người phải biết ơn đồng bào, bởi vì không một ai có thể đứng lẻ loi một mình mà sống được. Vì cảm nghĩa đồng bào mà năm 1946 trong bài “Tiếng chuông cảnh tỉnh” Đức Giáo Chủ đã truyền phán :

Khắp Bắc Nam Lạc Hồng một giống

Tha thứ nhau để sống cùng nhau

Quí nhau từng giọt máu đào

Để đem máu ấy tưới vào địch quân

Ngoài đồng bào ta còn phải nghĩ tới nhân loại trên mặt địa cầu.Nếu không có nhân loại chúng ta sẽ không đủ vật liệu cần dung, ta sẽ thiếu người giúp đở khi có thiên tai, địa ách. Những cuộc cứu trợ của ngoại bang trong thời kỳ lụt lội miền Nam 1961 và thiên tai miền Trung năm 1964, há không phải là điều mà ta đáng ghi ân nhân loại hay sao?

Vậy muốn tròn nhân đạo, phải giữ tứ ân mà người tu Phật như chúng ta, nếu không đền tứ ân, nghĩa là ta muốn ly thế gian, không chịu lo tròn nhân đạo, thì khó mong đắc thành đạo quả.

Người tín đồ nhà Phật, khi làm tròn nhân đạo thì tự nhiên đã tiến được nhiều phần trên đường giải thoát. Vì khi tận tâm phục vụ Đạo Đời, chúng ta đã dẹp được ích kỷ tham lam thể hiện từ bi bác ái.

Đức Phật Thích Ca có thuyết : “Nếu ai thọ trì theo phẩm báo tứ ân thì sẽ được siêu việt sanh tử, có mặt trong Long Hoa Hội và sẽ được giải thoát.”

Tổng quan, căn bản giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo là dắt người từ mê si tăm tối trở về con đường lành, lo tròn nhân đạo để xây dựngmột thế giới hòa hảo, an vui. Và sau khi làm xong nhân đạo, con người sẽ tự nhiên tiến đến diệt trừ vọng niệm, ái dục, để tỏ ngộ bản tâm hầu có giải thoát.

Trên hết mọi phàm nhân, Đức Giáo Chủ là hiện thân của nhân đạo, của công bằng, của từ bi và bác ái. Ngài đã hòa quang đồng trần để hướng khách trần gian tiến về nơi quang minh đỉnh.

Người ta không thể tìm thấy nơi Ngài một khuyết điểm nào, những giáo điều mà Ngài ban bố cho chúng sanh, chính bản thân Ngài đã thực thi đầy đủ.

Nhờ phương pháp phổ độ rất thích hợp và nhờ có căn bản giáo lý vừa vững chắc vừa hợp lý hợp tình qua lời văn thông thường êm đẹp, Đức Giáo Chủ đã nắm được thành công lớn lao trong một thời gian kỷ lục.

Hơn một phần tư thế kỷ trước đây, Ngài đã nhận định là cần phải lấy nông dân Việt Nam làm trọng tâm cứu khổ và làm xuất phát điểm gương mẩu cho nông dân thế giới, thì gần đây người ta mới chú ý tới và nhận rằng điều ấy là quan trọng. Nội bấy nhiêu đó tưởng cũng đủ cho chúng ta suy gẫm về sự thành công trên bước đường truyền giáo của Ngài.

Từ khóa » Tứ ân Trong Phật Giáo Hòa Hảo