Tục Lệ Ma Chay Trong Văn Hóa Của Người Việt Nam - Lịch Vạn Niên
Có thể bạn quan tâm
Khi người đã trút hơi thở cuối cùng, lấy một chiếc đũa để ngang miệng vào giữa hai hàm răng đợi giờ phạm hàm, lấy tờ giấy trắng đắp lên mặt người chết Phạn hàm và chiêu hồn Theo tục lệ xưa, họ hàng hoặc con cháu lấy một nấm gạo nếp vo sạch, ba đồng tiền kẽm mài cho sạch rồi bỏ vào miệng của người chết.Tục này gọi là phạn hàm. Nếu nhà khá giả thì bỏ vàng và châu báu vào miệng người chết để chứng tỏ sự hiếu thảo của mình. Việc làm này ngụ ý không muốn để người chết mà miệng phải trống rổng và thèm muốn. Làm lễ phạn hàm xong, thì trãi chiếu dưới đất, đem người chết xuống nằm nơi ấy (theo phong tục cổ truyền có nghĩa là người ta sinh ra từ đất và khi chết lại trở về đất) Để được một lát lại rước người chết đặt lên giường. Người con cầm cái áo của người chết từng mặc, tay trái cầm cổ áo, tay mặt cầm lưng áo, rồi từ phía trước nhà treo lên nóc, dùng tên gọi của người, chiêu hồn ( gọi hồn người chết ) ba tiếng, có ý cầu mong cho người đó sống lại, sau đó mới lấy chiếc áo đắp lên thi thể người vừa mới chết - Con cháu trong nhà phải yên lặng, cầu nguyện hoặc là rước Thầy về tụng kinh độ vong, Người trong gia đình đều phải đi chân không, không mang nữ trang, không trang điểm son phấn. Con cái trong nhà và những người thân thuộc phải bịt khăn tang trắng cho đến khi thành phục Khâm liệm và nhập quan Những gia đình giàu có thì dùng vóc nhiễu tơ lụa, nhà nghèo thì dùng vải trắng may thành đồ tiểu liệm và bốn cái túi để bao tay, bao chân người đã mất. Đồ tiểu liệm có thể là một tấm chăn nhỏ bọc lấy thi thể rồi đến một đai buộc dọc, và một đai buộc ngang, bên ngoài đồ tiểu liệm đến đồ đại liệm là một tấm chăn lớn bọc kín thân thể, có một đai buộc dọc và năm đai buộc ngang. Ngoài hết là tấm tạ quan,Nhà ai nghèo không đủ tiền mua sắm những vật như thế thì cũng cố kiếm một tấm vải mỏng để bọc,Khi khâm liệm, người ta lấy giấy sạch chèn vào những chổ trống để cho thi thể được ngay ngắn,Sự khâm liệm này có ý trân trọng, tiếc nhớ và giữ gìn di hài người đã khuất, Đúng vào giờ đã chọn, con cháu vào khâm liệm xong, rước thi thể đặt vào quan tài, kê đệm cho ngay ngắn,Quan tài bao giờ cũng phải đặt chính giữa nhà, nếu người trong nhà còn sống tuổi tác lớn hơn người đã chết, thì quan tài có thể đặt khiêm nhường qua một bên, đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân, trước trời đất, Sau đó đập nắp quan tài, sơn và gắn kỹ càng trên nắp quan tài luôn luôn thắp bảy ngọn nén ( thất tinh ) đặt ly hương, một chén cơm, một đôi đũa và một hột trứng gà chín đã bóc vỏ để thờ, Giờ nhập quan, người ta hay tránh và kiêng cử tuổi vong và tuổi trưởng, Từ đây con cháu thường trực quanh linh cữu để cúng lễ hoặc tạ lạy những khách đến phúng điếu Đặt linh sàng, linh toạ Nhà rộng rãi khi có đám tang thì được đặt linh sàng,Linh sàng thì thường là một cái giường kê ở bên linh cửu về phía tay mặt, cung phụng như chổ ngủ lúc người còn sống, có mùng màn, chăn chiếu, gối nệm tử tế Linh tọa là bàn thờ vong linh, đặt trước quan tài, Trên linh tọa có đèn cầy, đặt chân dung người quá cố hoặc có thêm bài vị nữa, Phía ngoài cùng thì kê hương án bàn độc
Lễ thành phục
Lễ thành phục còn gọi là lễ phát tang. Sau khi đã làm từ linh sàng, linh tọa xong và sắm đủ tang phục dùng một ít dâng lên linh tọa, thì con cháu bắt đầu xỏa tóc, mặc đồ tang theo thứ tự, ngôi bậc trong gia đình, sắp hàng trước hương án khóc lạy người quá cố, Có đám tang mời thầy đến tụng kinh siêu độ, và trống phách đưa tiễn vong linh người mất. Đồ tang phục Con trai, con gái, con dâu thì đều bịt khăn sô, đội mủ kết bằng sợi chuối, trong mặc áo quần bằng vải thô xấu, bên ngoài mặc áo xô, ngoài cũng quàng sợi dây chuối, thắt lưng bằng chạc hay cũng bện bằng sợi chuối, đi giầy kết bằng cỏ gai hoặc rơm rạ. Nếu người cha chết, thì áo quần may bỏ xổ gấu, mẹ chết thì may áo có vén gấu, có ý là cha hơn mẹ một bực, nên tục ngữ ta có câu : " Cha buông, Mẹ vén " là theo tục ấy, Nhưng nếu người mẹ mất sau cha thì tang phục cũng không cần phải phân biệt như trên, Áo phải khâu đường sống lưng lộn mép vải ra ngoài và giữa lưng có một miếng vải khâu bám vào, người xưa gọi là " phụ bản " tỏ ý cõng trên lưng mình một sự đau xót tiếc thương, Con gái đã xuất giá ( lấy chồng ) thì chỉ mang áo vén gấu để tang cha mẹ đẻ mà thôi. Con Trai phải chống gậy, việc này đối với người xưa hệ trọng lắm. Người có gia thất rồi mà khi mất không có con trai chống gậy đưa tang thì gia quyến tự coi là điều sĩ nhục đau đớn. Gậy tang cha thì bằng trúc, gậy tang mẹ thì bằng vông, bề dài lên ngang ngực nơi chổ trái tim của người chống gậy, Sỏ dỉ có tục lệ này vì người xưa cho rằng : Gậy tang cha bằng trúc, trúc hình tròn tượng trương cho Trời, trúc bốn mùa không đổi tiết cũng như tấm lòng con thương cha vì thế mà không thay đổi,Gậy tang mẹ bằng vông, nữa trên tượng trưng cho Trời, nữa dưới vuông tượng trưng cho Đất ( 1 ) Cả hai thứ gậy tang đều phải chống xuống đất, Bề dài của gậy tang phải ngang với quả tim ngừoi cầm, ý rằng người con hiếu thảo, khóc thương quá độ mà sinh ra đau ốm, phải có cây gậy chống đỡ, Đau ốm từ tim phát ra, nên gậy tang phải ngang để chống đỡ với nỗi đau con tim ấy, Riêng con rể và cháu thì đội mũ mấn khăn áo trắng, Nếu như người con cả chết trước cha mẹ mình, mà có sinh được con trai để lại thì lúc cha mẹ chết, đứa con trai ấy phải thay mặt cha mình chống gậy để báo hiếu ông bà và phải đứng chủ các việc tế lễ gọi là cháu đích tôn thừa trọng tang phục cũng như người con trai vậy Chuyển linh cửu Nữa đêm hoặc sáng sớm hôm cất đám thì làm lễ chuyễn linh cửu - nghĩa là di chuyễn quan tài, Xưa kia những gia đình có nhà thờ riêng, thì nhất thiết phải rước linh cửu đến triều bái tổ tiên, tức là chào từ biệt tiên tổ để về nơi chín suối, Nhưng lễ này rắc rối và phiền hà, nên về sau người ta bỏ dần, Trước khi động quan con cháu xúm xít quanh quan tài nhắc lên đặt xuống ba lần để cho người chết cáo vong, cáo tổ trước khi về cõi âm Cất đám Cất đám, tức là rước linh cửu đi an táng, Sáng sớm trước khi cất đám phải làm lễ cáo vễ việc này cho họ hàng bà con thân thiết được biết, đến giờ, những đô tuỳ vào rước linh cửu đặt lên linh dư, đầu quan tài cũng bao giờ đi trước, việc này có hàm ý là người chết đi từ chổ tối ra chổ sáng,Linh cửu dần dần chậm rãi chuyễn đi, con cháu, anh em, họ hành thân thiết tay bám vào quan tài mà khóc than, tiếp đến bạn bè thân hữu đi sau, Trong khi đưa đám, nếu người con trai nào đi vắng xa không về kịp tang lễ thì cây gậy của người ấy phải đem treo ở đầu đòn khiêng, con gái, con dâu thỉnh thoảng phải nằm lăn ra mặt đường, con gái nằm ngoảnh mặt tới trước, con dâu nằm ngoảnh mặt trở lại sau, Ý nghĩa của việc nằm lăn ra đường này để chứng tỏ rằng mình đem thân ra nằm trên những chổ đường lồi lõm, cao thấp cho linh cửu của cha, mẹ mình ra đi được êm đềm, và tỏ lòng đạo hiếu của con cái
Nghi lễ đi đường
Đám tang thường có hai thần phương tướng đi đầu để trừ tà tịch, Ngày xưa hai người này đều đeo mặt nạ, cầm giáo mác, đóng vai Thần dẹp ôn tịch, trừ đạo tặc, Theo sau Phương Tướng là hai người rước một bức hoành tráng vả trắng có bốn chữ " Hổ sơn vân ám " ( cha mất ) hay " Dĩ lĩnh vân mê " ( mẹ mất ) sở dĩ có bức hoành tráng này dùng vào việc khóc thương cha mẹ quá cố bở người xưa có câu : " Trèo lên núi Hổ, ta trông thấy Cha Trèo lên núi Dĩ, ta trông ngóng Mẹ " Tiếp đến là miếng vải làm bằng vóc nhiễu the lụa hoặc bằng giấy đỏ cũng được để đề tên họ người quá cố, được treo vào cành tre như cây phướng, hoặc căng thẳng dựng đứng để lên bàn cho hai người khiêng, sau đó, mới đến hương án, giá hương, đồ tam sự và một mâm ngũ quả, lợn quay, bánh trái, giấy vàng bạc rãi suốt dọc đường linh cửu đi qua để tống tiền ma quỷ khỏi bám vào quan tài nặng nề khó đi Hạ huyệt Khi đám tang đưa đến huyệt, người ta đem hai thẫn phướng dạo bốn góc huyệt, đọan đưa quan tài xuống, Hạ linh cửu xuống huyệt, rồi mới tháo minh tinh rải lên mặt quan tài, đoạn con cháu khóc lạy, và bà con, bè bạn, mỗi người nắm một hòn đất, hoặc một cành hoa xuống huyệt, rồi mới bắt đầu lấp đất, việc này có ý cho người chết được ấm cúng bởi sự đấp đập của những người còn sống, trong khi lấp đất thì gia quyến bày lễ cúng Hậu thổ cầu cho người nằm dưới mộ được thảnh thơi yên ổn Cúng quy lăng Những người theo đạo phật, thì trước khi lấp đất thuỜng nhờ đến các sư, tăng làm lễ cúng phật độ, vừa niệm kinh vừa đi quanh mả gọi là " dong nhan " Sự khóc lạy Trong khi đám ma còn để trong nhà, con cháu và khách đến viếng chỉ lạy hai lạy, nghĩa là còn coi như người ấy đương sống, Mai táng xong mới lạy bốn lạy, tức là mới lấy đạo người chết mà thờ - Khách đến viếng, người thường thì lạy không, người thân thì khi lạy phải ô, hô ba tiếng để tỏ lòng thương tiếc - Khách đến viếng lạy, con cái vừa khóc, vừa lạy đáp, nhưng chỉ đáp lễ một lần, khách lạy hai thì mình lạy một, Con cái khi làm lễ trước linh toạ, hay khi đáp lễ khách, phải quỳ dưới đất, không được quỳ trên chiếu Tế ngu An táng người chết xong, về nhà lại cúng tế, gọi là " Tế ngu " Ngu có nghĩa là yên để cho vong hồn người khuất được yên ổn, Tuần lễ sau ngày an táng gọi là " sơ ngu " tế xong thì đem hồn bạch chọn một chổ đất vắng lặng sạch sẻ mà chôn xuống, sau tuần sơ ngu lễ còn đặt ra hai tuần lễ " tái ngu " và " tam ngu " ở những ngày hôm sau nữa, việc này thường những nhà khá giả mới tổ chức Cúng cơm ba ngày Ngày thứ ba sau khi an táng, gia quyến còn có lễ cúng cơm ba ngày ( hay gọi mở cửa mã ) buổi sáng con cháu đem trầm hương ra viếng mã, và sửa sang cho đẹp, xong về nhà cúng vái, mời bà con họ hàng ăn uống, tạ lễ Cúng cơm hằng ngày, hằng tuần An táng rồi thì ngày nào cũng phải cúng cơm hai bửa, thường là bát cơm với quả trứng luộc, hoặc khi người còn sống thích gì thì cúng nấy Chung thất ( 49 ngày ) Bốn mươi chín ngày gọi là cúng tuần chung thất, dịp này các gia đình đạo phật hay mời các vị sư tụng niệm, sám hối, cầu vong linh siêu sanh tịnh độ - Đây cũng là tuần thất cuối cùng Tốt khốc ( 100 ngày ) Một trăm ngày kể từ khi người chết đã khuất, thì gia đình phải cúng tuần " tôt khốc " có nghĩa là ngừng khóc, Cúng xong tuần này thì từ đây về sau không còn cúng cơm hằng ngày Tiểu tường ( giổ đầu ) Được một năm thì giổ đầu -thường gọi là " tiểu tường ", Đến kỳ lể này thì tất cả áo quần của ngày tang con cái, anh chị em, phải mang lại để làm lễ, trừ những đồ sô gai, mũ cũng bỏ cho nhẹ bớt và bắt đầu làm lễ lại như người thân vừa mới mất, kỳ lễ này người ta thường mua sắm đồ hàng mã, cúng kiếng rồi đốt cho người cõi âm Đại tường Được hai năm kể từ sau ngày người quá cố gọi là giổ hết ( mãn khó ) hoặc đại tường, Lễ này con cháu sau khi lễ xong thì bỏ hết đồ tang * ( 1 ) Người xưa quan niệm Trời tròn, đất vuông ( Sụ tích bánh dày, bánh chưng )
Lưu ý trước khi an táng, mai táng cần phải xem có bị trùng tang hay không, chọn ngày tốt để an táng. tránh những giờ xấu, giờ phạm.
Từ khóa » Cúng Ma Chay
-
Phong Tục Ma Chay - Những điều Kiêng Kỵ Khi Nhà Có Tang
-
Phong Tục Cúng Ma Chay Tại Việt Nam - Trại Hòm Đức Thịnh TpHCM
-
Những Nghi Thức Trong Phong Tục Ma Chay Của Người Việt
-
Đám Tang Người Việt - Wikipedia
-
#Tìm Hiểu Phong Tục Đám Tang Của Người Việt
-
LÝ GIẢI MỘT SỐ TỤC LỆ MA CHAY, CÚNG LỄ CỦA NGƯỜI VIỆT
-
Các Bài Văn Khấn Ma Chay-Giỗ Chạp Chuyên Dùng
-
Tìm Hiểu Về Phong Tục Ma Chay Của Người Việt - Hành Trình Tâm Linh
-
GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHONG TỤC MA CHAY CỦA NGƯỜI VIỆT
-
NHỮNG TỤC LỆ TRONG MA CHAY (1) - Sim Phong Thủy
-
NHỮNG TỤC LỆ TRONG MA CHAY (2) - Sim Phong Thủy
-
Tục Lệ Ma Chay Cúng Lễ Của Người Việt Xưa - Tạp Chí Đáng Nhớ
-
Phong Tuc Ma Chay Cua Nguoi Hoa - Quang Silic
-
Tất Cả Những điều Cần Biết Về Phong Tục Tang Ma Của Người Việt