Tương Kiến Hoan – Phi Thiên Dạ Tường - Yên Vũ Lâu
Có thể bạn quan tâm
Phi Thiên Dạ Tường (非天夜翔)

Nguồn: Kho Tàng Đam Mỹ
Văn án:
Lâm hoa tạ liễu xuân hồng,
Thái thông thông.
Vô nại triêu lai hàn vũ,
Vãn lai phong1.
Nội dung chính: Hào môn thế gia thiên chi kiều tử
Nhân vật: Đoạn Lĩnh
Tấn giang biên tập đánh giá:
Phong tuyết nộ hào, thiên lý tuyết nguyên, Lý Tiệm Hồng lúc này đã bị dồn đến tình thế được ăn cả ngã về không, tao ngộ nông nỗi bị vài nghìn thiết kỵ vây khốn. Giữa lúc tình thế nguy cấp, hắn từ trong hỗn loạn một người một ngựa xông khỏi chiến trường, lại vì vách núi sụt lở mà tiêu thất dưới vực sâu…
Mà ở một nơi khác, Đoạn gia Nhữ Nam thành Đoạn gia, quản gia bà tử đang trách phạt “Đào sinh tử” Đoạn Lĩnh bị mọi người hoài nghi ăn cắp, giữa lúc cậu khốn đốn bất lực nhất lại bị một nam tử xa lạ cứu ra mang đi. Đại tuyết tung bay, núi xanh như mực, màn sân khấu giật lại, truyền kỳ là sinh ra trong lúc đó.
Tác giả sử dụng ngôn ngữ thành thạo lưu loát, từ tình cảnh chiến trường làm thiết nhập, vừa mở đầu đã khiến độc giả chìm đắm trong bầu không khí cổ phong bi thương, đồng thời cũng bắt được đầu mối quan hệ phức tạp giữa các nhân vật cùng với những phục bút vô tình cố ý lộ ra. Thiếu niên ăn nhờ ở đậu, thân thế vẫn là một câu đố, đột nhiên xuất hiện một nam nhân xa lạ ra tay cứu vớt, theo tình tiết tiến triển, nhân vật lần lượt lên sân khấu, nội dung phát triển của câu chuyện dẫn dắt độc giả đến vô hạn mơ màng.
Đệ nhất quyển: Ngân Hà Phi Độ
1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9 – 10
11 – 12 – 13 – 14 – 15 – 16 – 17 – 18 – 19 – 20
21 – 22 – 23 – 24 – 25 – 26 – 27 – 28 – 29 – 30
31 – 32 – 33 – 34 – 35 – 36 – 37
Đệ nhị quyển: Hạo Tửu Thiên Chung
Kim cổ bắc mang sơn hạ lộ, hoàng trần lão tẫn anh hùng. Nhân sinh trường hận thủy trường đông. U hoài thùy cộng ngữ, viễn mục tống quy hồng.
(Xưa nay dưới chân Bắc Mang sơn, bụi trần già cỗi tẫn anh hùng. Nhân sinh trường hận như nước vẫn mãi chảy về đông. Nỗi u hoài ai người cùng hiểu, chỉ đành dõi mắt xa xăm theo cánh hồng nhạn.)
Cái thế công danh tương để dụng, tòng tiền thác oán thiên công. Hạo ca nhất khúc tửu thiên chung. Nam nhi hành xử thị, vị yếu luận cùng thông.
(Công danh cái thế mang ra dùng, trước giờ thế gian có bao nhiêu oan khuất đều phải trách ông trời. Hát một khúc ca hào hùng dốc cạn nghìn chén rượu. Nam nhi làm việc nào phải giải thích với ai.)
38 – 39 – 40
41 – 42 – 43 – 44 – 45 – 46 –47 – 48 – 49 – 50
51 – 52 – 53 – 54 – 55 – 56 – 57 – 58 – 59 – 60
61 – 62 – 63 – 64 – 65 – 66 – 67 – 68 – 69 – 70
71 – 72 – 73 – 74 – 75 – 76 – 77 – 78 – 79 – 80
81 – 82 – 83 – 84 – 85 – 86
—————————-
Diễn giải của Editor:
Bắc Mang sơn là một địa danh nổi tiếng chuyên chôn cất các vương hầu. Câu đầu tiên ẩn ý nói về Lý Tiệm Hồng, dù là vương hầu, là hào kiệt, đến khi bụi trần đọng lại cũng chỉ còn một nắm mồ dưới chân núi Bắc Mang. Nhân sinh có bao nhiêu oán hận, bao nhiêu chí hướng kỳ vọng chưa được hoàn thành cũng sẽ như dòng nước chảy về đông, không níu kéo được, không quay lại được. Nỗi lòng này liệu có ai là người thấu tỏ để trò chuyện cùng ta, thôi đành chỉ dùng ánh mắt xa xăm dõi theo cánh hồng nhạn. Chữ ‘hồng’ trong Lý Tiệm Hồng cũng là hồng trong ‘Hồng nhạn’.
Câu thứ hai là luận về Lang Tuấn Hiệp và Vũ Độc, có thể nói là luận về thích khách nói chung. Công danh cả đời bọn họ đều chỉ là những thứ được sắp đặt bày bố, là mưu toan vô nghĩa, trên đời có bao nhiêu trớ trêu, những việc bọn họ không muốn nhưng bất đắc dĩ phải làm đều là lỗi của ông trời, là ông trời muốn bọn họ hết lần này đến lần khác đều mang tiếng bất nghĩa. Thế nhưng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất, hát một khúc ca uống nghìn chén rượu, chuyện bọn họ đã làm chỉ cần không thẹn với lòng cũng không cần giải thích với người nào.
Đệ tam quyển: Đông phong hoàn hựu
A Phòng vũ điện phiên la tụ, Kim Cốc danh viên khởi ngọc lâu, Tùy đê cổ liễu lãm long chu. Bất kham hồi thủ, đông phong hoàn hựu, dã hoa khai mộ xuân thì hậu.
(Vũ điện trong cung A Phòng phất phơ tay áo lụa, trong Kim Cốc viên vang danh xây dựng lầu ngọc, hàng liễu già cỗi bên bờ đê nhà Tùy thưởng lãm thuyền rồng. Nghĩ lại mà kinh, đông phong còn tại mà hoa dại đã nở đến hồi điêu tàn như sắp cuối xuân.)
Mỹ nhân tự vẫn Ô Giang ngạn, chiến hỏa tằng thiêu Xích Bích giang, tướng quân không lão Ngọc Môn quan. Thương tâm Tần Hán, sinh dân đồ thán, độc thư nhân nhất thanh trường thán.
(Mỹ nhân tự vẫn bên bến Ô Giang, chiến hỏa từng thiêu qua dòng Xích Bích, tướng quân già cỗi thủ Ngọc Môn quan trống rỗng. Tần Hán là lúc tang thương, lê dân đồ thán, người đọc sách chỉ có thể thở dài một tiếng.)
87 – 88 – 89 – 90
91 – 92 – 93 – 94 – 95 – 96 – 97 – 98 – 99 – 100
101 – 102 – 103 – 104 – 105 – 106 – 107 – 108 – 109 – 110
111 – 112 – 113 – 114 – 115 – 116 – 117 – 118 – 119 – 120
121 – 122 – 123 – 124 – 125 – 126 – 127 – 128 – 129 – 130
131 – 132 – 133 – 134 – 135 – 136 – 137 – 138 – 139
—————————
Diễn giải của editor:
Vế trên lần lượt nhắc về cung A Phòng của Tần Thủy Hoàng, Kim Cốc viên là nơi ở của phú hào Thạch Sùng và Lục Châu đời Tấn, đê nhà Tùy là đang ám chỉ đến Đại vận hà, một công trình thiên cổ của Tùy Dạng đế, ông đã đào một con kênh từ Bắc Kinh thông đến tận Hàng Châu, là con kênh đào cổ dài nhất và cũng là một công trình lớn nhất trong thời cổ đại của thế giới. Tất cả những thứ đó đều là đỉnh cao của một thời vàng son, nhưng cũng có một điểm chung đặc hữu, sau khi đạt đến đỉnh cao không bao lâu, những thứ xa hoa rực rỡ đó đều nhanh chóng lụi tàn. Sau khi xét lại, nghĩ đến mà kinh, tuy rằng đông phong còn tại nhưng hoa dại đã nở quá thì như độ cuối xuân, mọi thứ đều đã trong tư thế cạn kiệt sinh cơ
Vế này đang ám chỉ thế cục của các nước Trần, Liêu, Nguyên, vàng son thoáng chốc rồi lại suy tàn, tuy rằng thoạt nhìn đông phong (cũng là thời thế) chưa hết, nhưng thật ra quân dân đều đã mệt mỏi bất kham.
Vế dưới nhắc đến những điển tích Ngu mỹ nhân (Ngu Cơ) tự tử bên bờ Ô Giang để gợi về kết cục của Hạng Vũ, lửa thiêu Xích Bích mở ra cục diện mới chia ba thiên hạ của Tam Quốc, và hình ảnh Ngọc Môn quan trống rỗng sừng sững lại tiêu điều. Đây đều là những hình ảnh khiến người ta liên tưởng đến sự kết thúc của một thời kỳ, dẫn đến bước ngoặc lịch sử chính trị quan trọng. Cuộc chiến Tần Hán (hoặc Hán Sở chiến) là một trong những thời kỳ giết chóc tàn bạo nhất trong lịch sử Trung Quốc, dân sinh sụt giảm một phần ba, hơn nữa nhắc đến giai đoạn này không thể không nhắc đến quyết lệnh ‘Đốt sách chôn nho’ lừng danh của Tần Thủy Hoàng, hàng loạt những sự kiện này khiến cho người đọc sách đời sau chỉ có thể thở dài thương cảm.
Vế này ám chỉ đến vị thế của Đoạn Lĩnh, ép vào đường cùng để thấy được sinh cơ, tưởng đã kết thúc mà hóa ra lại thấy được ánh sáng. Chỉ là nhất tướng công thành vạn cốt khô, phông nền của tất cả các cuộc tranh đoạt thiên hạ vẫn luôn được tô bằng xương máu của vạn người, bi ai vạn phần không sao tả xiết.
Đệ tứ quyển: Vũ thương túy nguyệtPhù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ; Trời đất là quán trọ của vạn vật; Quang âm giả, bách đại chi quá khách. Quang âm là khách qua đường của trăm đời, Nhi phù sinh nhược mộng, Mà kiếp phù sinh như mộng, Vi hoan ki hà? Lúc vui được bao? Cổ nhân bỉnh chúc dạ du, Cổ nhân đốt đuốc chơi đêm[1], Lương hữu dĩ dã. Thực là hữu lý. Huống dương xuân triêu ngã dĩ yên cảnh, Huống chi mùa xuân ấm áp đem mây khói mà mời đón, Đại khối giả ngã dĩ văn chương. Trời đất mênh mông đem cảnh đẹp mà giúp vui. Hội đào lý chi phương viên, Họp trong vườn thơm đào mận, Tự thiên luân chi lạc sự. Bày tiệc vui giữa anh em. Quần quý tuấn tú, giai vi Huệ Liên. Các em tuấn tú, đều giỏi như Huệ Liên [2]. Ngô nhân vịnh ca, độc tàm Khang Lạc. Bọn ta ca vịnh, riêng thẹn với Khang Lạc [3]. U thưởng vị dĩ, Ngắm cảnh chưa chán, Cao đàm chuyển thanh. Xoay ra thanh đàm. Khai quỳnh diên dĩ tọa hoa, Mở tiệc dưới hoa, Phi vũ thương nhi túy nguyệt. Vung chén [4] say với nguyệt. Bất hữu giai tác, Nếu chẳng có văn hay, Hà thân nhã hoài? Sao tả được lòng nhã? Như thi bất thành, Như thơ không thành, Phạt y Kim Cốc tửu sổ. Phạt theo số rượu ở Kim Cốc [5].
Editor lảm nhảm: Đây là bài thơ ‘Xuân dạ yến đào lý viên tự’ (Đêm xuân uống rượu trong vườn đào lý) của Lý Bạch. Ý nghĩa khá rõ ràng, là kể về một buổi họp mặt giữa các văn nhân nhã sĩ. Mà ý chính của quyển này cũng là quần hùng tụ hội thi thố tài năng.
140
141 – 142 – 143 – 144 – 145 – 146 – 147 – 148 – 149 – 150
151 – 152 – 153 – 154 – 155 – 156 – 157 – 158 – 159 – 160
161 – 162 – 163 – 164 – 165 – 166 – 167 – 168 – 169 – 170
171 – 172 – 173 – 174 – 175 – 176 – 177 – 178 – 179 – 180
181 – 182 – 183 – 184 – 185 – 186 – 187 – 188 – 189 – 190
191 – 192 – 193 – 194 – 195 – 196 – 197 – 198 – 199 – 200
201
——-
1/ Cổ thi có câu: Trú đoản khổ dạ trường, hà bất bỉnh chúc dạ du? 晝短苦夜長, 何不秉燭遊 Ngày ngắn khổ đêm dài, sao chẳng đốt đuốc chơi?
2/ Tạ Huệ Liên là em tạ Linh Vận đời Lục Triều, rất đa tài.
3/ Khang Lạc là Tạ Linh Vận, thi văn tung hoành tuấn dật, được tập tước làm Khang Lạc công (có sách chép là Khang Lạc hầu).
4/ Về chữ “vũ thương” này có nhiều thuyết lắm, ta chỉ nên biết là đồ đựng rượu.
5/ Kim Cốc là tên một khu vườn của Thạch Sùng đời Tấn. Các văn nhân thi sĩ họp trong vườn để uống rượu, làm thơ phú, ai không làm được thì phải phạt uống ba đấu rượu.
Mộ hải thiên chungThập niên ly loạn hậu, Đời loạn lạc mười năm cách biệt
trường đại nhất tương phùng. Lớn lên rồi mới dịp gặp nhau
Vấn tính kinh sơ kiến, Ngẩn ngơ hỏi họ vừa chào
xưng danh ức cựu dung. Xưng tên dần nhớ dáng nào ngày xanh !
Biệt lai thương hải sự, Chuyện dâu bể rành rành kể lể
ngữ bãi mộ thiên chung. Lòng vừa vơi chiều xé tiếng chuông
Minh nhật ba lăng đạo, Ba Lăng mai tiếp lên đường
thu sơn hựu kỷ trọng Núi thu cách trở muôn trùng núi thu !
————————-
Đây là bài thơ ‘Hỷ kiến ngoại đệ hựu ngôn biệt’ (Mừng gặp lại đệ đệ nhưng phải từ biệt) của Lý Ích. Kể lại cảnh gặp lại người em trai lưu lạc sau mười năm chiến loạn, nhưng hôm sau lại phải vì công vụ mà chia biệt.
Ý cảnh lưu luyến, miêu tả sự vô thường của kiếp người, tương phùng ít biệt ly nhiều.
Editor lảm nhảm: Bối cảnh truyện này cũng kéo dài gần mười hai năm, từ lúc Lý Tiệm Hồng bị đoạt quyền dưới Tướng quân lĩnh đến khi hoàn truyện. Kẻ mất người còn, ly biệt trùng phùng đan xen, có lúc tưởng đã tương phùng thật ra lại là ly biệt.
Mượn đôi câu trong ‘Mô Ngư nhi’ trích từ thiên cổ tuyệt tình thơ mà Lý Mạc Sầu hay ngâm vựng để miêu tả lại tâm trạng của Mèo sau khi edit hết chương cuối của quyển này. Đến cuối cùng, có một mối tình, có một con người vĩnh viễn chìm trong phong tuyết.
Hoan lạc thú, ly biệt khổ (Hoan lạc thú, ly biệt sầu)
Tựu trung cánh hữu si nhi nữ (Nỗi khổ chứa đầy tình tương tư)
202 – 203 – 204 – 205 – 206 – 207 – 208 – 209 – 210
211 – 212 – 213 – 214 – 215 – 216 – 217 – 218 – 219 – 220
221 – 222 – 223 – 224 – 225 – 226 – 227 – 228
———————–
1/ Tương kiến hoan – Lý Dục:
林花謝了春紅, Lâm hoa tạ liễu xuân hồng, Rừng xuân tàn tạ thưa hồng,
太匆匆。 Thái thông thông. Rối lung bung.
無奈朝來寒雨, Vô nại triêu lai hàn vũ, Không cản ban mai mưa lạnh,
晚來風。 Vãn lai phong. Gió chiều dông.
胭脂淚, Yên chi lệ, Đỏ ngầu lệ,
相留醉, Tương lưu tuý, Say tuý luý,
幾時重。 Kỷ thời trùng. Lại tuôn ròng.
自是人生長恨, Tự thị nhân sinh trường hận, Từ đây kiếp người trường hận,
水長東。 Thuỷ trường đông. Nước xuôi đông.
Nguồn: Tuyển tập từ Trung Hoa – Nhật Bản, bản dịch Nguyễn Chí Viễn, NXB Văn hoá – Thông tin, 1996
Lý Dục 李煜 (937-978) vốn tên là Lý Tòng Gia, tự Trùng Quang 重光, hiệu là Chung Ẩn 钟隐, người đời quen gọi là Nam Đường Hậu Chủ hay Lý Hậu Chủ, quê ở Bành Thành, tức ở Từ Châu tỉnh Giang Tô Trung Quốc ngày nay. Ông nối ngôi vua vào năm thứ hai Tống Kiến Long, tức năm 961 công nguyên. Lý Dục là đời vua thứ 3 và cũng là Đời vua cuối cùng của triều Nam Đường, cho nên người đời xưng ông là Nam Đường hậu chủ. Ông là người nhân huệ minh mẫn, văn hay hoạ khéo, biết âm luật. Thơ văn, đặc biệt là từ của ông có trình độ rất cao, nhiều bài thơ hoặc từ do ông sáng tác được lưu truyền và có sự ảnh hưởng rộng rãi cho đến ngày nay và được nhiều người yêu thích. Thơ văn và từ của ông chủ yếu được chia làm hai loại. Một là những tác phẩm được sáng tác vào trước khi mất nước đầu hàng nhà Tống, đề tài chỉ hạn hẹp ở chỗ phản ánh sinh hoạt và tình yêu lứa đôi trong cung đình; Hai là những tác phẩm được sáng tác vào sau khi mất nước đầu hàng nhà Tống, phản ánh tâm trạng đau xót trước cảnh lầm than mất nước. “Ngu mỹ nhân”, “Lang đào sa”, “Ô dạ đề”, “Tương kiến hoan”, đặc biệt là bài từ “Ngu mỹ nhân” vv … chủ yếu mô tả tâm trạng thê lương ai oán của ông, ngày ngày rửa mặt bằng nước mắt, đứng tựa lan can nhìn ra phía xa xa, nằm mơ cũng chỉ mong có thể trở về quê hương đất nước, những tác phẩm bất hủ của ông chiếm một địa vị rất quan trong lịch sử từ của Trung Quốc. Cho nên ông được mệnh danh là “Thiên cổ từ đế”, tức vua muôn thủa của các bài từ, có sự ảnh hưởng cho muôn đời sau.
Chia sẻ:
- X
Từ khóa » đam Mỹ Tương Kiến Hoan
-
Tương Kiến Hoan - Truyện FULL
-
Tương Kiến Hoan – Phi Thiên Dạ Tường (Hoàn) - Nhà Bất Động
-
[Review] Tương Kiến Hoan – Phi Thiên Dạ Tường - Thanh Phong
-
Tương Kiến Hoan - Đam Mỹ Mới Hoàn
-
Tương Kiến Hoan Full - Phi Thiên Dạ Tường - Doc Truyen Online
-
Tương Kiến Hoan. - Review đam Mỹ – DeraMochi's Home
-
Đam Mỹ Mới Hoàn - Tương Kiến Hoan... - Facebook
-
Truyện Đam Mỹ - TƯƠNG KIẾN HOAN ---- SAO ĐAU LÒNG...
-
Tương Kiến Hoan Chương Mới Nhất - SSTruyen
-
[Review] Tương Kiến Hoan - Ryeosomnia Wi
-
Tương Kiến Hoan - Wattpad.VN
-
[Đam Mỹ - Cổ đại] Tương Kiến Hoan - Phi Thiên Dạ Tường
-
Đọc Truyện Tương Kiến Hoan
-
đam Mỹ Tương Kiến Hoan - Truyện Audio Mới