Skip to content Trang chủ / Thuốc Thú Y - Thủy Sản - Thú Cưng / Vaccine Vaccin Parvosin-OL- L1 -Phòng bệnh thai khô trên heo nái
Liên hệ
Danh mục: Vaccine
Mô tả
Đánh giá (0)
BỆNH KHÔ THAI, THAI CHẾT LƯU Ở HEO NÁI Nguyên nhân – Nguyên nhân khô thai do Porcine Parvovirus (PPV) gây ra các xáo trộn sinh sản trên heo đặc trưng bởi các biểu hiện như nâng, giảm lứa đẻ, thai hóa gỗ, tiêu thai, sẩy thai, đẻ thai chết, heo con đẻ ra yếu, chết ngay sau sinh hoặc còi cọc, chậm lớn. Bệnh này còn gọi là “Bệnh thai gỗ”. Bệnh chủ yếu lây qua đường tiêu hoá, hô hấp, sinh dục và truyền qua nhau thai. Porcine Parvovirus lưu hành khắp nơi trên thế giới và là nguyên nhân chủ yếu gây chết phôi và chết thai, ngoài ra nó có thể làm tăng các ảnh hưởng của virút PCV2 trong Hội chứng còi cọc sau cai sữa. Bệnh xảy ra chủ yếu trên heo nái hậu bị, nái đã đẻ nhiều lứa, heo nọc đóng vai trò rất quan trọng trong việc gieo rắc mầm bệnh. – Thai chết lưu tăng lên có thể do các bệnh truyền nhiễm như Leptospira pomona và PRRS. Nếu không phải do nguyên nhân truyền nhiễm thì thai chết lưu thường liên quan đến: + Do giống: phổ biến hơn ở lợn nái thuần chủng + Kích thước ổ đẻ quá lớn (số con/lứa cao), ở đàn có kích thước ổ đẻ lớn thường có tỷ lệ con sinh ra chết cao khoảng 5-7%. + Nái đẻ quá già (lứa đẻ cao >8), hoặc nái quá mập làm chậm đẻ hoặc đẻ khó khăn. + Thiếu tập thể dục khi mang thai: nên nái kém vận động cơ bắp trong quá trình sinh đẻ. + Tử cung co thắt kém, có thể liên quan đến nồng độ thấp của canxi trong khẩu phần + Nhiệt độ chuồng quá cao + Hàm lượng khí CO cao (có thể nó phát ra từ lò sưởi) + Thiết kế chuồng đẻ không tốt làm nái gặp khó khăn khi đẻ + Tách nhau thai sớm. Điều trị bệnh khô thai: không có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh này. Chỉ phòng bệnh bằng vaccine. Phòng bệnh: Cách ly nghiêm ngặt những heo nái hậu bị mới đưa vào trại và theo dõi hàng ngày. Kiểm tra định kỳ tinh dịch để loại bỏ các heo đực nhiễm Porcine Parvovirus vì là nguồn truyền lây lan cho heo nái qua đường giao phối. Tạo miễn dịch chắc chắn trên nái hậu bị trước khi phối giống bằng cách cho heo nái hậu bị tiếp xúc với nái đẻ và đực giống để được lây nhiễm tự nhiên nhằm tạo miễn dịch trước khi phối giống lần đầu, cách thứ hai là tiêm vắcxin. Tiêm phòng cho đàn heo cảm nhiễm là cách tốt nhất tránh thiệt hại do bệnh gây nên. Tiêm phòng cho heo đực và nái hậu bị 2 liều cách nhau 15 – 21 ngày, liều thứ hai thực hiện trước khi phối giống 14 ngày. Heo nái được tiêm một liều duy nhất thời điểm cai sữa. Heo nọc 6 tháng tiêm một lần. Vaccine được đóng theo quy cách liều 1 tiện lợi Bệnh do Parvovirus là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở lợn nái với các biểu hiện lâm sàng chỉ thấy ở lợn nái: chết lưu thai, thai gỗ, thai thối, hoặc lợn con đẻ ra có sức sống rất kém. Ở những lợn khác: lợn đực giống, lợn vỗ béo chỉ mang trùng và không có biểu hiện lâm sàng. 1. Giới thiệu Bệnh do Parvovirus là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở lợn nái với các biểu hiện lâm sàng chỉ thấy ở lợn nái: chết lưu thai, thai gỗ, thai thối, hoặc lợn con đẻ ra có sức sống rất kém. Ở những lợn khác: lợn đực giống, lợn vỗ béo chỉ mang trùng và không có biểu hiện lâm sàng. Bệnh do Parvovirus gây nên. 2. Thiệt hại về kinh tế Đây là một bệnh gây rất nhiều thiệt hại cho các trại giống lợn sinh sản + Giảm số đầu lợn con sơ sinh lên tới 50- 60%/năm + Giảm trọng lượng ở lợn con lúc cai sữa + Tăng chi phí để khắc phục hậu quả do bệnh gây ra 3. Căn nguyên Virut gây bệnh sảy chết thai ở lợn là một loại Parvovirus dạng trần, không vỏ bọc chứa ADN có kích thước nhỏ 20nm (trong khi đó virut gây bệnh PRRS có kích thước lớn hơn và chứa ARN). Khi vào cơ thể lợn virut gây sảy thai ký sinh ở trong nhân tế bào ký chủ và lấy ADN của tế bào lợn điều tiết quá trình sinh sản cho chính virut. Cơ quan thích hợp nhất để chúng phát triển là não, hạch lâm ba, gan, thận, phổi, amidal, bào thai và nhau thai. Virut dễ nuôi cấy trên các tổ chức tế bào khác nhau của cơ thể lợn và tạo nên hiện tượng “Bệnh tích tế bào” (Cito – pathogen effect – CPE) và các biến đổi trong nhân tế bào ký chủ. Virut có sức sống kém đối với các chất như nước vôi 5%, Foocmol 0,8%- 1%; 1-2% của Vinadin 10% và B.K.Vet,… 4. Đặc điểm dịch tễ Tất cả các lứa tuổi lợn và giống lợn đều có thể nhiễm virut gây bệnh, tuy nhiên bệnh thể hiện chủ yếu ở nái chửa và nái nuôi con, do bào thai mẫn cảm nhất. Bệnh có khả năng truyền dọc (qua tinh trùng, qua bào thai…) và truyền ngang qua tiếp xúc trực tiếp, qua ăn uống,… Nguồn bệnh nguy hiểm nhất là lợn đực giống, nái chửa, hoặc nái nuôi con đã khỏi bệnh nhưng mang mầm bệnh. Chúng đào thải virut bằng tất cả con đường thoát ra từ cơ thể: phân, nước tiểu, dãi đờm, nước mắt, nước mũi và tinh trùng. Ngoài môi trường thiên nhiên, virut gây bệnh có thể tồn tại tới 135 ngày do đó bệnh càng ngày càng phổ biến trên thế giới. 5. Cơ chế sinh bệnh Parvovirus gây bệnh xâm nhập vào cơ thể bằng rất nhiều cách như đã trình bày ở phần trên. Từ chỗ xâm nhập, virut chui thẳng vào nội tế bào, lấy ADN của cơ thể lợn cho mình và sinh sôi rất nhanh. Sau đó các virion từ nhân tế bào nhiễm lại nhanh chóng chui vào các tế bào mới và chỉ trong thời gian rất ngắn đã có hàng tỷ virut gây bệnh lùa vào đường lympho, đường máu vào hệ tuần hoàn gây nên hiện tượng nhiễm trùng huyết. Từ đây, virut di hành đến khắp các cơ quan tổ chức của cơ thể lợn, nhưng nơi mà phù hợp nhất để chúng tồn tại và tiếp tục sinh sản và gây bệnh là các cơ quan sinh dục, não, thận, phổi và hạch lâm ba của lợn. Đối với các nái chửa, virut chui qua nhau thai vào bào thai và gây chết thai không phụ thuộc vào giai đoạn nào của thời gian chửa và tuổi bào thai. Các nhà khoa học đã chứng minh: Nếu virut vào nái chửa sớm hơn 44 ngày sau khi thụ thai (chửa) thì virut giết chết tất cả các bào thai. Nếu virut vào cơ thể lợn khoảng 56 ngày sau khi thụ thai (tức là đúng vào giữa của thời kỳ chửa) thì nó sẽ giết chết 74% số bào thai. Nhưng nếu virut vào lúc chửa kỳ hai hoặc cuối kỳ hai trở đi thì chúng không gây chết bào thai, nhưng những lợn con sinh ra đã mang mầm bệnh và có sức sống kém, chết yểu. Các kết quả nghiên cứu chứng minh: trong nái chửa nếu virut vào sau 70 ngày kể từ ngày mang thai thì không những virut không giết chết bào thai mà không phải tất cả các bào thai đều bị nhiễm virut. Vì thế khi lợn nái đẻ, nếu chú ý quan sát chúng ta có thể nhìn rõ bức tranh đa hình thái: thai gỗ, thai chết lưu với độ lớn khác nhau, lợn con đẻ ra rất yếu xen lẫn với lợn con đẻ ra hoàn toàn bình thường. Đây là đặc điểm nổi bật của bệnh do Parvovirus gây ra, nhưng cũng rất khó để phân biệt với hiện tượng này trong bệnh PRRS. Tuy vậy, lợn nái chửa ít khi bị sảy thai, do đó sảy thai ở nái chửa không phải là triệu chứng lâm sàng điển hình cho bệnh. Chưa hết, việc nhiễm trùng và mang trùng Parvovirus trong cơ thể lợn nái không chửa, lợn đực giống và lợn vỗ béo đã kích thích cơ thể tạo ra một hàm lượng kháng thể kháng Parvovirus rất cao và kéo dài tới 3 tháng là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đàn đã được tiêm phòng vacxin với đàn lợn mang trùng. 6. Biểu hiện lâm sàng Biểu hiện bệnh chỉ thấy ở lợn nái chửa, nái sinh sản. Các kết quả nghiên cứu cho biết 7- 8 ngày sau khi nái chửa bị nhiễm virut thì bị sốt kèm theo giảm lượng bạch cầu. Đây là kết quả của nhiễm trùng huyết. Trong thời gian này virut có thể được phân lập từ máu và trong mô tổ chức có khả năng sinh trưởng cao như niêm mạc phổi, tế bào gan, lách, thận, tinh trùng, nhau thai và bào thai. Ngay sau khi virut vào đến bào thai, chúng gây chết thai của nái chửa dưới 44 ngày. Các bào thai chết ở các nái này có thể được phân huỷ và được hấp thụ ngược lại hoàn toàn nếu bào thai dưới 35- 36 ngày tuổi. Lúc đó, lợn lại có thể động dục trở lại. Nếu virut vào sau 44 ngày kể từ khi chửa thì quá trình chửa vẫn xảy ra bình thường nhưng khi đó sẽ có một số thai chết hoặc phát triển kém cho đến lúc sinh, trong khi đó một số thai vẫn phát triển bình thường. Phụ thuộc vào thời điểm nhiễm virút gây bệnh, nên lúc sinh đẻ ta có thể thấy có sự rất khác nhau trong quá trình phát triển của bào thai của cùng 1 nái đẻ: khi thì bị thai khô, khi thì thai chết, một số con thì phát triển bình thường với các kích cỡ khác nhau. Lúc đẻ ra con thì chết yểu ngay sau khi đẻ, con sống bình thường. Đôi khi chúng ta cũng ghi nhận được một số nái bị sảy thai. Song sảy thai không phải là dấu hiệu điển hình của bệnh. 7. Mổ khám bệnh tích Ở lợn đực, lợn vỗ béo và nái không chửa bị nhiễm bệnh không phát hiện được các biến đổi bệnh lý. Bức tranh âm tính tương tự cũng có thể thấy ở nái chửa dưới 36 ngày tuổi của bào thai. Tuy nhiên ở những nái này khi xét nghiệm vi thể lại thấy rõ các tập đoàn tế bào bạch cầu đơn nhân trong dạ con, tuỷ xương và não bộ. Ở các nái chửa trên 44 ngày thấy rõ sự khác nhau trong quá trình phát triển của các thai nhi đã trình bày ở phần lâm sàng học. Đặc biệt thấy rõ sự phù nề, xuất huyết, mất nước của các thai chết lưu, sự khác nhau về độ lớn giữa các bào thai của cùng một nái. Nhau thai cũng bị phù nề, xuất huyết, thậm chí có đám viêm hoại tử. Có sự hiện diện của rất nhiều mạch máu mới trên bề mặt bào thai và nhau thai. Các thai chết yểu lúc sinh ra nếu được mổ khám cũng quan sát được viêm xuất huyết màng não và não bộ. Trong các xoang cơ thể thấy có những cục máu Xét nghiệm vi thể: có tổn thương và hoại tử ở các mô tổ chức khác, thấy bạch cầu bao quanh các mạch máu của não. 8. Chẩn đoán Do tính chất gây hại nên mỗi một hiện tượng gây rối loạn sinh sản ở lợn đều phải nghĩ đến bệnh do Parvovirus gây ra. Sau đó mới là các bệnh khác như PRRS, Brucellosis. Vì thế kết quả chẩn đoán trong phòng thí nghiệm sẽ cho phép ta khẳng định bệnh. Thông qua phản ứng trung hoà huyết thanh lấy từ thai nhi bị sảy với hồng cầu chuột bạch hoặc từ các cơ quan nội tạng của thai bị sẩy ra làm 20- 30% huyễn dịch vô trùng, sau đó đem ly tâm vòng quay 1000 vòng/phút trong 20 phút. Lấy chất lỏng trong suốt trên phần lắng cặn pha loãng 1:2000 đến 1: 4000 làm phản ứng trung hoà với hồng cầu chuột bạch. Phản ứng dương tính tức là cho ta kết quả khẳng định bệnh. Trong chẩn đoán bệnh do Parvovirus còn có thể dùng các phương pháp: – Miễn dịch huỳnh quang (IF) – Phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu (HI) – Phản ứng miễn dịch bổ thể… 9. Chẩn đoán phân biệt Bệnh do Parvovirus cần phân biệt với: 9.1 Bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis suum) – Sảy thai đồng loạt vào giữa tháng thứ 3 và thứ 4 trong chu kỳ chửa – Sau sảy thai bao giờ cũng có hiện tượng lưu nhau thai, viêm tử cung, viêm khớp – Lợn đực bị nhiễm Brucella luôn bị viêm khớp, viêm tinh hoàn và túi chứa tinh trùng. 9.2. Bệnh nghệ- Leptospyrosis suum Các biểu hiện của thai nhi trong suốt thời gian chửa giống như bệnh do Parvovirus .nhưng bệnh nghệ được quan sát thấy ở các lợn với các lứa tuổi khác nhau trong cùng ô chuồng/ trại với các biểu hiện vàng da, vàng mắt, đái ra máu, nước tiểu màu nâu, sốt ngắt quãng, có dử mắt, táo bón xen kẽ tiêu chảy. 9.3. Bệnh Aujeszki- Bệnh giả dại Cũng thấy chết thai, sảy thai hoặc đẻ con ra hay bị chết yểu. Song lợn con sinh ra bị giả dại luôn có các biểu hiện thần kinh, hai chân đạp bơi trong không khí. Mổ khám lợn sơ sinh thấy xuất huyết lấm tấm ở gan, thận và não. Xét nghiệm não thấy hạt virion- virut. ở lợn vỗ béo, lợn lớn, bệnh súc xuất hiện các triệu chứng viêm phổi kèm theo bọt, dãi hoặc mủ… 9.4. Bệnh PRRS- hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn Ngoài hiện tượng sảy thai, đẻ chậm, đẻ ra có thai chết lưu hoặc chết yểu,… Những lợn sơ sinh luôn kèm theo viêm phổi và tiêu chảy, rìa tai xanh tím. – Lợn bệnh PRRS bị ở tất cả các lứa tuổi và các biêu hiện lâm sàng bao trùm lên ba hệ: sinh sản, hô hấp và hệ tiêu hoá. – Bệnh PRRS xảy ra không phụ thuộc giới tính lợn, không phụ thuộc hình thức chăn nuôi và thời tiết. ở lợn lớn bao giờ cũng có phát ban đỏ, viêm phổi nặng, mắt phù nề, thâm quầng 10. Điều trị Không có thuốc đặc trị, nhưng phải dùng T.Metrion để thụt rửa tử cung phòng và chống viêm tử cung. Mỗi lần 50 – 100 ml T. Metrion/nái , dùng 3 lần cách nhau 8 giờ. Ngoài ra phải tiêm kháng sinh Vidan.T hoặc Linco-Gen LA hoặc T,enteron vào mục đích ngừa bệnh thứ phát: 1ml/8- 10kgP/lần x 2 lần. Dùng 3 ngày liên tục. Bệnh nổ ra phải tiêm ngay vacxin vào đàn nái. Các vacxin thường dùng là: + Parvosin + Sulvaccin-Parvo + Nobi- Provac- Parvo của Hà Lan + Parvovax của Pháp do Rhone Marial sản xuất đây là vacxin vô hoạt dạng dầu dùng cho heo hậu bị. a. Đối với nái không rõ nguồn gốc ta tiêm 2 lần. Lần 1: Dùng vacxin ngay sau khi lợn chịu đực, nhưng không cho phối giống. Lần 2: sau 2- 3 tuần nhưng phải trước khi phối giống ít nhất là 1 tuần. Để đảm bảo độ dài miễn dịch thì 6 tháng sau đó phải tiêm nhắc lại. b. Đối với nái không có kháng thể (tức là không được tiêm phòng trước đó hoặc độ dài miễn dịch đã hết) thì chủng lần đầu 2 tuần trước khi đẻ và sau khi cai sữa tiêm nhắc lại, sau đó cứ 6 tháng thì tiêm vacxin lại. c. Đối với lợn đực lấy tinh: Trước khi lấy tinh phối giống 2 tuần thì tiêm vacxin. Sau đó cứ 6 tháng định kỳ ta tiêm nhắc lại. 11. Phòng bệnh Những thai nhi đẻ ra bị chết, thai gỗ… từ nái bị bệnh phải huỷ, đốt, chôn sâu. Toàn bộ trại phải khử trùng tiêu độc bằng 1- 2% của Vinadin 10%; hoặc 2% formol hoặc B.K.Vet Phải can thiệp tiêm ngay vacxin cho mọi đối tượng lợn đặc biệt là lợn đực giống và ngừng lấy tinh trong thời gian ít nhất 3 tháng. Lợn nái phải thụ tinh nhân tạo, tinh lấy từ đực giống hoàn toàn khoẻ mạnh từ nơi khác. Các biện pháp ngăn ngừa từ xa phải được áp dụng triệt để nhất là phải xem xét kỹ hồ sơ lợn ngoại nhập. Chỉ nhập những lợn có lý lịch rõ ràng và từ những nơi an toàn dịch
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.
Hãy là người đầu tiên nhận xét “Vaccin Parvosin-OL- L1 -Phòng bệnh thai khô trên heo nái” Hủy
Đánh giá của bạn * Xếp hạng… Rất tốt Tốt Trung bình Không tệ Rất tệ
Nhận xét của bạn *
Tên *
Email *
Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi.
Sản phẩm tương tự
Vaccine
Vacccin tiêm gà
Liên hệ
Vaccine
RES-VAC Vaccine ngừa bệnh viêm phổi phức hợp trên heo
Liên hệ
Vaccine
Avac PED live
Liên hệ
Vaccine
Ecoli bại huyết
Liên hệ
Vaccine
AFTOGEN OLEO
Liên hệ
Vaccine
Suyễn Mypracovac
Liên hệ
Vaccine
Circo Pig Vac
Liên hệ
Vaccine
Vaccin dịch tả vịt
Liên hệ
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.
Hãy là người đầu tiên nhận xét “Vaccin Parvosin-OL- L1 -Phòng bệnh thai khô trên heo nái” Hủy
Đánh giá của bạn * Xếp hạng… Rất tốt Tốt Trung bình Không tệ Rất tệ
Nhận xét của bạn *
Tên *
Email *
Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi.