Vấn đề Hán Nôm đặt Ra Trong Nhà Trường

Nghiên cứu Hán Nôm >> Tác giả >> T >> Lê Anh Tuấn
65. Vấn đề Hán Nôm đặt ra trong nhà trường (TBHNH 2004)

Cập nhật lúc 08h24, ngày 24/06/2007

VẤN ĐỀ HÁN NÔM ĐẶT RA TRONG NHÀ TRƯỜNG

LÊ ANH TUẤN

Đại học KHXH & Nhân văn

1. Khái niệm Hán Nôm hiểu theo nghĩa thông thường là hệ thống các văn bản được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm của ông cha ta. Hai loại hình văn tự - chữ Hán (chữ viết do người Trung Quốc sáng tạo ra) và chữ Nôm (chữ viết do người Việt tạo ra để ghi trực tiếp tiếng Việt) cùng song hành tồn tại trong suốt thời gian dài hơn mười thế kỷ, cho đến những năm đầu thế kỷ XX, trước khi chữ "Quốc ngữ" chiếm vị trí Quốc tự.

1.1. Ngoài những nhà nghiên cứu, những người quan tâm đến hai loại hình văn tự này, giáo viên các cấp đã được học qua chữ Hán và chữ Nôm, nhìn chung số đông còn cảm giác mơ hồ, chưa xác định cụ thể, hiểu rõ khái niệm Hán Nôm. Hán Nôm có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống ngôn ngữ giao tiếp, văn hóa hàng ngày. Vì lẽ đó, gặp nhiều hạn chế trong quá trình sử dụng vốn từ ngữ, mà bắt đầu từ những yếu tố Hán Việt, gốc Hán hoạt động tạo từ trong tiếng Việt. Nhiều người còn nhầm lẫn giữa chữ Hán cổ (văn ngôn) với tiếng Hán hiện đại (văn bạch thoại), đồng nhất cả hai loại trên về mọi phương diện. Thậm chí, có người còn quan niệm học Hán Nôm là học một ngoại ngữ, mà không hiểu rằng: "Cái mà gọi là ngoại ngữ đó" lại chính là tiếng đang sử dụng thường ngày để viết và nói (?!).

1.2. Như chúng ta đã biết, trong kho từ vựng tiếng Việt có vốn từ ngoại lai khá lớn (từ ngoại lai trong các ngôn ngữ trên thế giới là hiện tượng phổ biến). Từ ngoại lai vào tiếng Việt có nhiều địa chỉ khác nhau như Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản, Pháp, Anh... Trong đó, số lượng từ vay mượn từ Trung Quốc, chiếm tỉ lệ khá lớn. Đặc biệt, những yếu tố đơn, gốc Hán vào tiếng Việt ở từng thời kỳ khác nhau, có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình phát triển tiếng Việt. Những yếu tố gốc Hán tham gia hoạt động trong tiếng Việt, ngoài chức năng cơ bản phản ánh nội dung một khái niệm cụ thể, nó còn có khả năng hoạt động tự do, kết hợp với các yếu tố khác, tạo ra những từ Hán Việt mới, đáp ứng đòi hỏi của tiếng Việt.

1.3. Tên gọi Hán Nôm được nêu ra trên cơ sở ghép hai loại hình văn tự cổ chỉ đơn thuần là cách gọi. Vấn đề ở chỗ vai trò chi phối của nó như thế nào đối với đời sống xã hội quá khứ và hiện tại. Trong lịch sử tồn tại suốt thời gian dài, từ khi chữ Hán vào nước ta thời Bắc thuộc (trước TK X) sau khi nước nhà dành độc lập, đến thời thuộc Pháp và cho tới những năm đầu TK XX, chữ Hán được coi là văn tự chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam, văn từ chính thức dùng trong khoa cử. Chữ Hán để lại dấu ấn không chỉ thuần túy là hình thức văn tự, mà nội dung, ý nghĩa, giá trị cần khẳng định, nhấn mạnh là toàn bộ hệ thống văn bản thành văn viết bằng chữ Hán phản ánh đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân ta suốt thời kỳ dài. Hệ thống văn bản đó thuộc các lĩnh vực khác nhau như giấy tờ, công văn hành chính nhà nước, trứ tác văn học, sử học, triết học, di văn Hán tự thuộc các di tích cổ như văn bia, thể phả, đại tự, câu đối...

Như vậy, chữ Hán vào Việt nam ghi lại mọi hoạt động tinh thần của nhân dân ta qua hai hình thức ngôn ngữ và văn tự như đã nêu trên. Chữ Hán gắn liền với truyền thống văn hóa Việt Nam với tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày qua âm Hán Việt. Người Việt tiếp xúc với các loại hình văn bản qua hình thức văn tự. Chữ Hán vào Việt Nam được đón nhận một cách tự nhiên, xuất phát từ yêu cầu bức thiết của đời sống ngôn ngữ, nhu cầu phản ánh toàn bộ hoạt động xã hội, trên mọi lĩnh vực khác nhau.

1.4. Con đường dẫn đến sự hiện hữu mang tính tất yếu của chữ Hán ở Việt Nam có trường thời gian, qua từng đợt tiếp xúc ngôn ngữ. Những đợt tiếp xúc mang tính lịch sử giữa tiếng Hán (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp) với tiếng Việt, có ý nghĩa nhất định đối với hệ thống yếu tố gốc Hán và vốn từ tiếng Hán dùng trong tiếng Việt qua cách đọc Hán Việt. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học có hai lần tiếp xúc cơ bản quan trọng giữa tiếng Hán và tiếng Việt. Lần tiếp xúc thứ nhất từ khi nhà Hán tràn xuống phía Nam, xâm chiếm vùng đất Bách Việt. Nước ta phụ thuộc vào sự thống trị của người Hán. Tiếng Hán trực tiếp xâm nhập vào tiếng Việt qua con đường khẩu ngữ. Do yêu cầu cấp thiết bổ khuyết vốn từ còn thiếu, tiếng Việt được gia tăng một lượng từ khá lớn. Số lượng từ được bổ sung ở thời kỳ này được gọi là tiền Hán Việt (Hán Việt cổ hay Cổ Hán Việt) như mùa, tìm, buồng, nách, mùi v.v.. Loại từ trên tồn tại trước khi hình thành cách đọc Hán Việt, thâm nhập sâu vào kho tàng tiếng Việt, được tiếng Việt thu nạp trong vốn từ vựng của mình và dùng như từ thuần Việt.

Đợt tiếp xúc thứ hai có số lượng lớn, phạm vi rộng, ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến tiếng Việt là thời kỳ Đường, Tống (thế kỷ VIII, IX). Từ tiếng Hán và Hán tự vào tiếng Việt với mức độ cao về số lượng, qua con đường khẩu ngữ và sách vở. Thời điểm này hình thành cách đọc chữ Hán của người Việt mà truyền thống ta vẫn gọi là cách đọc Hán Việt. Phần lớn vốn từ Hán Việt trong tiếng Việt được tiếp nhận từ tiếng Hán trong thời kỳ này.

Đặc biệt vốn từ đơn âm tiết, nghĩa là mỗi chữ Hán tương ứng một âm tiết - một tiếng, hay còn gọi là những yếu tố gốc Hán, có vai trò rất quan trọng trong tiếng Việt. Những yếu tố gốc Hán được tiếng Việt mượn như là những hạt nhân dĩ tác trong quá trình tạo từ trong tiếng Việt. Theo cách gọi yếu tố gốc Hán, là những hạt nhân cơ bản tự do hoạt động, có khả năng tái tạo từ mới Hán Việt. Những yếu tố gốc Hán có khả năng tự do này, đã, đang và sẽ có cơ tạo từ mới trong tiếng Việt một cách hiệu quả và có vị trí đáng chú ý. Từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu rộng rãi với các nước trên thế giới, tạo mối quan hệ gần gũi, trực tiếp về văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Cùng quá trình đó, hàng loạt những khái niệm mới từ bên ngoài vào tiếng Việt, bắt buộc tiếng Việt phải có từ để ghi lại, dùng cho chính mình. Vậy trên cơ sở nào để có thể tạo lập vốn từ ghi lại những thuật ngữ, khái niệm mới đó ? Trong trường hợp này chỉ có các yếu tố gốc Hán mới có thể đáp ứng được đòi hỏi bức thiết trên, trong hiện tại và cả trong tương lai.

1.5. Hán tự với vỏ âm thanh là âm Hán Việt có mối quan hệ máu thịt với tiếng Việt. Trong tiếng Việt có tới 2/3 vốn từ Hán Việt được dùng trong giao tiếp và tạo lập văn bản. Trong những trường hợp nhất định, có thể thay thế từ Hán Việt bằng từ thuần Việt, dạng như xạ kích = bắn súng, không phận = vùng trời, hải phận = vùng biển v.v.. Những từ Hán Việt đã quen dùng có sắc thái tu từ riêng, ý nghĩa sâu sắc, tính chất trang trọng thì thường không thể thay bằng từ thuần Việt được, như không tặc = giặc trên không, lâm tặc = giặc rừng, tin tặc = giặc máy tính v.v.. Điều đó cho thấy vai trò của từ Hán Việt được cấu thành từ các yếu tố gốc Hán, có vị thế đáng kể, góp phần tái tạo, bổ sung cho kho từ vựng tiếng Việt.

Vốn văn hóa Hán Nôm kể trên được cụ thể hóa bằng những thuật ngữ, khái niệm mang vỏ ngữ âm Hán Việt. Mặc dù người Việt dù không biết chữ Hán, đọc phần âm Hán Việt, ít nhiều cũng cảm nhận được phần nào ý nghĩa của chúng. Văn hóa Hán Nôm còn thể hiện qua phong tục tập quán, tín ngưỡng thờ thần thánh, thờ cúng tổ tiên, thú chơi chữ, quan niệm thẩm mỹ v.v... Những tác phẩm văn học cổ được được chuyển tải bằng hai phương tiện là chữ Hán và chữ Nôm. Hai hình thức văn tự chữ Hán, chữ Nôm có chung nguồn gốc là loại hình văn tự ghi âm tiết. Chữ Hán được người Việt dùng làm văn tự ghi chép và đọc theo âm tiếng Việt; chữ Nôm là văn tự do người Việt tạo ra ghi trực tiếp tiếng Việt.

Có thể nói khái niệm Hán Nôm tuy có vẻ xa với cảm hiểu của người Việt hiện đại, nhưng thực ra chúng gắn bó mật thiết hàng ngày với quan hệ giao tiếp của người Việt, ngay từ bản chất ý nghĩa của từ ngữ, mà chúng ta không biết rõ gốc gác, xuất xứ của từng từ ngữ đó thôi.

2. Thực trạng bất cập về cách hiểu yếu tố gốc Hán, vốn từ Hán Việt, chữ Hán và chữ Nôm của người Việt.

2.1. Việc hiểu các yếu tố gốc Hán và vốn từ Hán Việt... đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với người Việt, người dùng tiếng Việt và đặc biệt đối với học sinh phổ thông, sinh viên cao đẳng và đại học. Một khi đã hiểu không đúng ý nghĩa của từng yếu tố Hán Việt, gốc Hán sẽ dẫn đến tình trạng cảm nhận ý nghĩa một cách mơ hồ, thiếu chính xác, thậm chí sai lệch trầm trọng. Thường thì đa số khi sử dụng từ Hán Việt để viết hoặc nói đều theo thói quen cảm nhận, không rõ được nghĩa gốc của những yếu tố tạo nên từ đó là gì. Hạn chế đó xuất phát từ việc không được tiếp thụ kiến thức chữ Hán gốc - yếu tố được dùng trong tiếng Việt = 1 âm tiết, = 1 tiếng, đơn vị có khả năng tạo từ cao. ít nhất để có thể hiểu được những từ Hán Việt thường dùng, cần nắm vững gần một ngàn chữ Hán- Mỗi chữ là một yếu tố Hán Việt, gốc Hán. Trên dưới một ngàn yếu tố Hán Việt, gốc Hán này thường xuyên tham gia hoạt động trong tiếng Việt, với tư cách từ đơn. Đồng thời, các yếu tố đó còn có chức năng phát tạo những từ Hán Việt mới, trên cơ sở ý nghĩa kết hợp của những yếu tố tạo nên từ mới đó. (Trong tiếng Việt có trên 7 vạn từ Hán Việt)(1).

Thực tế khi khảo sát cho thấy: số lượng lớn yếu tố Hán Việt gốc Hán có thể tạo nên các kết hợp thể hiện trên hai phương diện, do chức năng từ loại và chuyển từ loại của chúng qui định. Có thể lấy ví dụ như Âm tiết sự ® sự (phụng sự) - sự (việc), trọng ® trọng (tôn trọng) - trọng (nặng), khinh ® khinh (khinh thị) - khinh (nhẹ), thâm ® thâm (thâm hiểm) - thâm (sâu) v.v... nghĩa là trong hai biểu hiện thì biểu hiện 1 được Việt hóa cao, còn biểu hiện 2 chưa được Việt hóa cao. Như vậy, từ đơn tiết Hán Việt có khả năng tạo từ Hán Việt cao, được sử dụng qua biểu hiện thứ hai. Vì chữ Hán được tạo ra dựa vào phép "lục thư" (6 cách tạo chữ Hán), độ chính xác về nghĩa, chứ Hán cao hơn tiếng Việt.

Hiện tượng đồng âm trong các yếu tố gốc Hán cũng như đồng âm giữa các từ Hán Việt với từ thuần Việt, từ Hán Việt với từ Hán Việt là tương đối phổ biến. Khu biệt ý nghĩa trong những trường hợp đồng âm là hết sức khó khăn đối với những người không học chữ Hán. Từ đó dẫn đến tình trạng hiểu nhầm, hiểu sai nghĩa là không thể tránh khỏi.

2.2. Hiện nay, khi nói tới chữ Hán và chữ Nôm, mọi người trong xã hội còn cảm thấy lạ. Điều đó cũng không trách cứ được bởi lẽ tính xã hội hóa Hán Nôm chưa thật sự rộng. ảnh hưởng của văn hóa Hán Nôm mà trước hết là chữ Hán và chữ Nôm còn mờ nhạt. Sự tách biệt ngôn ngữ và văn tự (từ ngữ) trở thành hố ngăn cách, hạn chế người Việt tiếp xúc với văn tự Hán và chữ Nôm. Chỉ có những ai học chữ cổ mới thực sự quan tâm đến và thường xuyên tiếp xúc, hiểu các văn bản cổ mà thôi. Ngoài ra, nếu có dịp du lãm, vô tình hay hữu ý bắt gặp hai loại chữ này, cũng chỉ biết cái đẹp, cái hay của chữ Hán, chữ Nôm ở đường nét, lối viết, bài trí.

Đặc biệt, sự hiện hữu của chữ Hán, chữ Nôm trong các di tích lịch sử - văn hóa thể hiện trên các chất liệu ở di tích cổ như Hoành phi, đại tự, câu đối, bảng thơ, văn bia, văn chuông... là những thể tài văn học cổ; mảng văn hóa vật chất Hán Nôm cổ, tồn tại khách quan như một tất yếu lịch sử, thường nhật vẫn tồn tại trước mắt chúng ta. Bên cạnh, đâu đó chung quanh nơi ở, học đường qua lại, lối phố hay trên phương tiện truyền hình thảng hoặc xuất hiện bóng dáng của văn tự cổ. Đó chính là gạch nối để người Việt gắn với quá khứ bằng khái niệm mờ ảo, chứ không thực sự ý thức được tất cả những cái hay hàm chứa trong từng nét chữ cổ và nội dung phản ánh của hình thể văn tự đó. Thực ra không phải ai cũng có thể hiểu được. Nhưng vấn đề ở chỗ làm cách nào để mọi người có thể hiểu và hiểu như thế nào cho đúng. Có lẽ đây là vấn đề nan giải, không dễ có thể khắc phục một sớm, một chiều được. Sự hiển thị trước mắt mọi người loại chữ viết cổ kính (có điều hàng ngày người ta vẫn nhắc tới âm đọc của chúng), với những đường nét khác lạ, mỗi chữ nằm trong một ô vuông riêng biệt. Với số đông chỉ nhìn thoáng qua như những nét vẽ, mà không hiểu được đó là chữ Hán hay chữ Nôm. Dĩ nhiên, muốn biết được phải có người hướng dẫn dịch nghĩa và giải nghĩa câu, chữ.

2.3. Những bất cập trong việc hiểu chữ Hán và chữ Nôm, chung qui lại trước, nay chưa có những định hướng chuẩn cho việc giáo dục có tính phổ cập, rộng rãi, ở các cấp độ khác nhau. Mặt khác, khi đề cập đến hai loại hình văn tự Hán - Nôm mới chỉ dừng lại trong phạm vi giới thuyết khái quát, chưa tương xứng với vị trí và tầm quan trọng của chúng. Đặc biệt, Văn hóa Hán Nôm ít được thấm nhuần và am hiểu đúng những gì mà bản thân hai hình thức văn tự phản ánh, qua nhiều thể loại văn bản khác nhau, cũng như thông qua ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống xã hội.

Hai mặt biểu hiện của hạn chế việc hiểu về Hán Nôm đối với người Việt, đó là:

Không biết được mặt chữ và phân biệt sự khác nhau giữa hình thể chữ Hán và chữ Nôm, thường nhầm lẫn hai hình thức văn tự này. Không phân biệt sự khác nhau giữa Hán cổ, Hán hiện đại và chữ Nôm. Nhìn chung, đều gọi chung là chữ Nho, chữ Tàu. Quan niệm trên biểu hiện ngay cả đối với người được học chứ chưa nói số đông, mặc dù nói tiếng Việt thạo, viết tiếng Việt thạo.

Nói tới chữ Hán không tách rời âm Hán Việt từng chữ. Âm Hán Việt là vỏ âm thanh đọc chữ Hán, được người Việt đọc và sử dụng theo thói quen của mình. Sự xuất hiện âm Hán Việt, đồng nghĩa với những hiện tượng phức tạp xảy ra trong lòng tiếng Việt. Đó là hiện tượng đồng âm giữa từ Hán Việt với từ Hán Việt, đồng âm giữa từ Hán Việt với từ thuần Việt. Chẳng hạn: âm đông (HV: mùa đông, mùa thứ tư trong năm) - đông (HV: hướng đông, hướng mặt trời mọc) - đông (thuần Việt: đông đúc) - đông (thuần Việt: đông đặc). Hiện tượng đồng âm nói trên là cản trở lớn cho người Việt, cũng như người nước ngoài học tiếng Việt, trong quá trình nhận thức và sử dụng tiếng Việt.

Việc dạy chữ Hán, chữ Nôm mới chỉ thu hẹp trong một số ít trường đại học, ở một số trường cao đẳng. Nhưng thời lượng dạy nhìn chung không đáp ứng được yêu cầu mà thực tế đòi hỏi. Lẽ ra ở các trường Cao đẳng Sư phạm từ lâu cần phải có chương trình dạy Hán Nôm có tính qui phạm, chuẩn mực phục vụ trực tiếp, hiệu quả chuẩn bị hành trang cho các nhà sư phạm, trước khi vào đời với nghề dạy học của mình. Xem Hán Nôm là di sản văn hoá, trong đó xuất phát từ hai hình thức văn tự, tạo nên kho tàng văn hóa tinh thần thật sự phong phú. Biểu hiện của văn hóa Hán Nôm gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt, đi vào tiềm thức, tâm linh, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân ta. Việc không am hiểu chữ Hán và chữ Nôm (yêu cầu tối thiểu) vẫn còn là cản trở không nhỏ trong đời sống tinh thần hàng ngày của người Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Đứng từ nhiều phía để nhìn nhận Hán Nôm, hầu như tất cả các lĩnh vực đều ít, nhiều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến kiến thức Hán Nôm. Thư tịch Hán Nôm còn lại với số lượng lớn, có không gian và thời gian rộng, chất liệu thể hiện đa dạng, phong phú, với nhiều thể loại khác nhau. Khám phá những bí mật tiềm ẩn ở những văn bản Hán Nôm, trong đó hàm chứa kiến thức của nhiều lĩnh vực về xã hội nhân văn, tôn giáo, y học, quân sự, mĩ học, địa lý... là công việc của những nhà nghiên cứu. Bề nổi những kiến thức được chuyển tải bằng vốn từ vựng, phương tiện thông tin đến với người tiếp nhận, phần lớn lại là những thuật ngữ, khái niệm kết hợp từ những yếu tố gốc Hán. Đó chính là hạn chế đối với việc lĩnh hội kho tàng di văn phong phú của dân tộc trên mọi lĩnh vực.

3. Hán Nôm với giáo dục trong nhà trường, đi tìm những giải pháp

Vấn đề Hán Nôm trong giáo dục nhà trường đang là tiêu điểm cho mọi sự chú ý của xã hội. Vậy định hướng cho vấn đề này và cách tiếp cận như thế nào, còn đang là câu hỏi, chưa có lời giải cụ thể, còn nằm trong ý tưởng.

3.1. Từ lâu, những hạn chế trong việc xã hội hóa Hán Nôm đã được đặt ra. Song những hạn chế đó chưa được khắc phục, nói đúng hơn là chưa có những giải pháp cụ thể khắc phục, lỗ hổng mà lâu nay chưa khỏa lấp được. Xã hội hóa Hán Nôm trước hết phải bắt đầu chính từ Hán Nôm. Sự vận động tự thân của Hán Nôm trong môi trường văn hóa chung là tiền đề để Hán Nôm từng bước nâng cao vị thế của mình, xứng đáng với ngàn năm ông cha ta dùng chữ Hán, chữ Nôm để viết. Mặt khác, tính định hướng cho qui mô phát triển Hán Nôm lại là kim chỉ nam, để Hán Nôm phát huy những tiềm năng chưa được khơi dậy, nhằm phục vụ một cách tốt nhất sự nghiệp chấn hưng văn hóa của dân tộc.

Xã hội hóa Hán Nôm, đồng nghĩa với việc phổ cập những tri thức về Hán Nôm đối với đông đảo mọi người. Vấn đề ở chỗ, phạm vi kiến thức cần có ở mức độ nào? đối tượng nào là chủ yếu ? Lập trình cho từng loại đối tượng như thế nào là phù hợp và mang tính khoa học. Mặt bằng tri thức về Hán Nôm và văn hóa Hán Nôm cho mọi đối tượng ở trình độ nào là hợp lý.

Xã hội hóa Hán Nôm được thực hiện bằng hai con đường là giáo dục và quảng bá thông tin. Giáo dục ở các bậc học với thời lượng khác nhau, phù hợp với khả năng và trình độ nhận thức ở từng bậc học cụ thể. Quảng bá thông tin bằng các phương tiện thông tin đại chúng, qua tài liệu sách vở, internet v.v.. Từ đó, mọi người ở những lứa tuổi khác nhau có thể lĩnh hội được, thấm nhuần qua quá trình nhận thức. Xã hội hóa Hán Nôm thực sự là mục đích nhằm khẳng định nét đẹp, bản sắc của truyền thống văn hóa dân tộc.

3.2. Dạy và học Hán Nôm nhu cầu ngày càng đòi hỏi bức xúc. Tính chất bức xúc từ hai phía chủ quan và khách quan. Phía chủ quan trong thực tế, tuy đã có những cố gắng nhất định, nhưng còn thể hiện sự bất cập nhiều mặt như phạm vi, đối tượng, chương trình, thời lượng, đường hướng chủ đạo, nội dung, hình thức. Từ 1970, lần đầu tiên nhà nước ta cho phép ra đời chuyên ngành đào tạo Hán Nôm tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Bên cạnh một chuyên ngành đào tạo Cử nhân Hán Nôm, đồng thời Ban Hán Nôm (tiền thân của Viện Hán Nôm) cũng được thành lập. Có thể nói, đây là cơ hội để cứu vãn tình hình Hán Nôm đang dần bị mai một về những thư tịch, di văn Hán Nôm cổ.

Hơn ba mươi năm đã trôi qua, thành tựu đạt được trong việc sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu, đào tạo Hán Nôm là rất lớn, và đáng trân trọng. Riêng lĩnh vực đào tạo bao gồm các hệ chính qui, mở rộng, vừa học vừa làm, dự thính với hàng trăm sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Hán Nôm hệ chính qui. Ngoài ra, còn số lượng không nhỏ những người theo học là những nhà nghiên cứu, các nhà giáo, tăng ni, lương y, học sinh, nghiên cứu sinh nước ngoài: Nga, Mỹ, Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc v.v.. Kết quả trên là minh chứng cho sự phát triển của một ngành đào tạo văn tự cổ, khi có chủ trương và mở ra hướng đi đúng đắn.

Đào tạo Cử nhân Hán Nôm và giáo dục Hán Nôm ở bậc đại học không ngừng được mở rộng. Song từ nhiều lý do, sự phát triển chưa liên tục và vững chắc, kiến thức Hán Nôm đối với ngành xã hội nhân văn đều phải học ở mức độ cần thiết. Theo đó, một số ngành khoa học tự nhiên như địa lý, y học, dược học... cũng cần biết để am hiểu những thuật ngữ chuyên môn của mình.

Việc mở rộng đào tạo Hán Nôm ở Huế, thành phố Hồ Chí Minh là tín hiệu tốt cho sự phát triển của một ngành học. Nhưng vẫn chưa đủ, một khi chưa đa dạng hóa các hình thức đào tạo, để đáp ứng với nhu cầu phong phú hiện nay của xã hội.

3.3. Hệ thống các trường sư phạm, cao đẳng đưa Hán Nôm vào chương trình giảng dạy như đã từng thực hiện là hợp lý. Vấn đề ở chỗ lượng kiến thức truyền thụ cho đối tượng là những nhà sư phạm tương lai như thế nào, với thời lượng bao nhiêu là đủ. Lời giải cho câu hỏi đặt ra ở hệ thống các trường Cao đẳng chưa mang tính thống nhất, đồng thuận. Trong thực tế, chương trình đào tạo Hán Nôm ở các trường Cao đẳng những năm gần đây có cải thiện, song vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi cơ bản, nhằm nâng cao trình độ Hán Nôm cho sinh viên Cao đẳng các ngành xã hội và nhân văn.

Đào tạo những nhà sư phạm, trước hết phải là khuôn mẫu, mực thước trong việc dùng tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Khi nói đến tiếng Việt, gắn liền với nó chính là hệ thống từ Hán Việt. Nhìn nhận một cách nghiêm túc, qua khảo sát giáo viên dạy môn xã hội học ở các trường tiểu học, trung học cơ sở địa bàn Hà Nội cho thấy phần đông còn rất hạn chế về kiến thức Hán Nôm. Đặc biệt hiểu từ Hán Việt còn mơ hồ, chung chung. Sở dĩ chưa khắc phục được tình trạng trên, ý kiến chung của họ là thời gian và chương trình học Hán Nôm quá mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đòi hỏi.

Vậy vấn đề đặt ra là: Trong quá trình chuẩn hóa giáo viên các cấp ở bậc phổ thông, việc dạy Hán Nôm trong hệ thống các trường Cao đẳng cần có chương trình thống nhất, xuyên suốt, định lượng hợp lý mới có thể khắc phục được tình trạng bất cập hiện nay.

3.4. Vấn đề dạy Hán Nôm ở bậc phổ thông

Hán Nôm đặt ra ở hệ thống các trường phổ thông là vấn đề lớn, lâu nay còn bỏ ngỏ. Thực tế đó có nhiều lý do khác nhau, cho đến nay vẫn chưa được khắc phục. Đã đến lúc cần nêu vấn đề, có giải pháp thoả đáng, có hướng đi đúng cho vấn đề này.

Sự nghiệp cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Trong đó giáo dục phổ thông đang tập trung sự chú ý của mọi giới, mọi tầng lớp nhân dân mặt bằng giáo dục, cải cách hệ thống sách giáo khoa, qui chế thi cử, đánh giá chất lượng từng cấp học cụ thể.

Như chúng ta đã biết, việc dạy tiếng Việt cho học sinh các cấp từ tiểu học trở lên bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu. Tiếng Việt là nền tảng cho hoàn thiện nhân cách, là chìa khoá mở ra khả năng lĩnh hội, tiếp nhận tri thức từ dễ đến khó cho mỗi học sinh. Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò của việc đưa Hán Nôm, cụ thể hơn là chữ Hán, từ Hán Việt vào chương trình dạy cho học sinh phổ thông lồng trong quá trình dạy tiếng Việt.

Để có thể giúp học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học có được mặt bằng Hán Nôm cần thiết, mà trước hết là mặt bằng hiểu biết về vốn từ Hán Việt trong tiếng Việt, học sinh phổ thông cần nắm được lượng chữ Hán - yếu tố gốc Hán tối thiểu. Theo thống kê trong tiếng Việt hiện có trên dưới một ngàn yếu tố gốc Hán có khả năng hoạt động tự do thường xuất hiện trong giao tiếp nói và viết(2). Trong số đó, có khoảng hơn nửa yếu tố tần số hoạt động cao(3), có khả năng tạo từ trong tiếng Việt khi kết hợp các yếu tố, bởi những phương thức khác nhau sẽ tạo nên những từ Hán Việt mới, ghi lại những khái niệm mới xuất hiện.

Nên chăng ở mỗi cấp học cần định lượng một số chữ Hán tương ứng với yếu tố Hán Việt, gốc Hán nhất định. Cấp học cao hơn, nâng dần số lượng chữ Hán, yếu tố Hán mới, phù hợp với khả năng tư duy của học sinh theo lứa tuổi. Sự kết hợp chặt chẽ giữa việc dạy chữ Hán và tiếng Việt, là một quá trình thống nhất, tạo khả năng so sánh, liên hệ và khu biệt về cách hiểu từ và sử dụng từ trong khi viết, nói của học sinh tốt hơn. Vấn đề ở chỗ dạy chữ Hán - yếu tố Hán việc đơn âm, được cụ thể hóa như thế nào, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

Nếu coi việc dạy chữ Hán đối với hệ phổ thông lấy tiêu chí âm Hán Việt của từng yếu tố gốc Hán và nghĩa của những từ tố đó làm mục đích chính, thì phần viết chữ Hán chỉ là nền khuyến khích, tạo sự hứng thú cho học sinh trong quá trình học. Quá trình tích luỹ vốn từ Hán Việt qua việc học chữ Hán đối với học sinh phổ thông, đồng nghĩa với việc hiểu và cảm thụ văn học, nhất là văn học trung đại của hai cấp học phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Đồng thời giúp học sinh hiểu hơn những khái niệm thuộc các môn học tự nhiên, được phiên âm qua từ Hán Việt.

Vấn đề Hán Nôm đặt ra trong nhà trường ở các bậc học, tuỳ mức độ khác nhau, mới chỉ là những nét chấm phá, nhằm nhấn mạnh vai trò của Hán Nôm trong sự nghiệp cải cách giáo dục thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó, để từng bước xã hội hóa Hán Nôm, nâng cao mặt bằng hiểu biết về từ Hán Việt nói riêng và tiếng Việt nói chung, góp phần thực hiện công cuộc chấn hưng truyền thống văn hóa dân tộc.

Chú thích:

(1) Phan Ngọc: Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1990.

(2) Lý Lạc Nghị - Jim Waters: Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb. Thế giới 1997.

(3) Phan Ngọc, Sđd./.

(Thông báo Hán Nôm học 2004, tr.477-490)

In
Lượt truy cập:

Từ khóa » Dịch Chữ Hán Nôm Sang Chữ Việt