Văn Hóa Tộc Người c - 123doc
Có thể bạn quan tâm
Văn hóa tộc người Nng
Trang 1Chương 1 Những vấn đề chung về dân tộc Nùng ở Việt Nam
1.1 Khái niệm chung
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử, dùng chungmột tiếng nói làm tiếng nói chính thức mang tình hành chính, có một lãnh thổ bấtkhả xâm phạm, cùng chung một vận mệnh lịch sử, có chung một sinh hoạt kinh tếhay một thị trường, có chung một tính cách dân tộc thể hiện trong lối sống và vănhóa, đặc biệt là phải có chung một nhà nước
Dân tộc hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị xã hội, được chỉ đạobởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, có một tên gọi, một ngônngữ hành chính, một sinh hoạt kinh tế nói chung, với những biểu tượng văn hóachung tạo nên một tính cách dân tộc1
Dân tộc thường được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế Đây là đặc trưng quan trọng nhấtcủa dân tộc Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viêncủa dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc
Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đanxen với nhiều dân tộc anh em Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn vớiviệc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước
Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung củaquốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, tình cảm
Trang 2Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hoá dântộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bó với nền văn hoá của
cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc)
Tộc người hay dân tộc là một cộng đồng mang tính tộc người có chung một têngọi, một ngôn ngữ (trừ trường hợp cá biệt) được thể hiện liên kết với nhau bằngnhững giá trị sinh hoạt văn hóa, tạo thành một tính cách tộc người, có chung một ýthức tự giác tộc người, tức là có chung một khát vọng được cùng chung sống, cóchung một số phận lịch sử thể hiện ở những kí ức lịch sử (truyền thuyết, lịch sửhuyền thoại kiêng cử) Tộc người là một cộng đồng mang tính tộc người, khôngnhất thiết phải cư trú trên cùng một lãnh thổ, có chung nhà nước, dưới sự chỉ đạocủa một chính phủ với những đạo luật chung1
Nhóm địa phương là một bộ phận của một tộc người nhất định, có mối quan hệ
về lịch sử, ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa, có ý thức tự giác thuộc về tộc người đó.Nhóm địa phương chỉ được tạo thành khi tự bản thân có một tên gọi riêng phổ biếntrong vùng
Cộng đồng dân tộc được hình thành từ một tộc người nhất định, đa phần đượchình thành từ một hay hai, ba dân tộc nhười có trình độ phát triển kinh tế - xã hộicao hơn, ở những địa thế có khả năng phát triển, bao gồm thêm những tộc người ítphát triển, ít dân số ở những miền ngoại vi Cộng đồng dân tộc còn là sự liên minhgiữa các bộ lạc, tộc người với nhau, được hình thành trong một quốc gia xác định.Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc Dân tộc Kinhchiếm 87% dân số; 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên địabàn cả nước 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày,Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dândưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn
Trang 3người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu,Brâu)
1.2 Tên gọi, nguồn gốc của dân tộc Nùng
1.2.1 Nguồn gốc của dân tộc Nùng
Dân tộc Việt Nam là một danh từ chung để chỉ các dân tộc sống trên lãnh thổViệt Nam
Một số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ TrungHoa, hoặc Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa.Nhưng căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự hình thành các dântộc Việt Nam trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nóirằng tất cả các dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ MãLai Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:Theo các nhà nhân chủng học, nếu phân chia theo hình dáng thì loài người được
chia thành bốn đại chủng chính, đó là: Đại chủng Âu (Caucasoid), Đại chủng Phi (Negroid), Đại chủng Á (Mongoloid), Đại chủng Úc (Australoid, hay còn gọi là Đại
chủng Phương Nam) Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây), cómột bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông nam,tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại Tại đây, bộ phận của Đại chủng Ákết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ
Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien) Người Cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn
gợn sóng, tầm vóc thấp Người Cổ Mã Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướngbắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía nam tới các đảo củaIndonesia, về phía đông tới Philippines
Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây) Tạikhu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sôngDương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường
Trang 4xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành một
chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique) Do hai lần hòa nhập với
Đại chủng Á mà Chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại chủng Áhơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc Cũng chính vì thế Chủng Nam Áđược liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á
Thời kỳ sau đó, Chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổthư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt Thực ra không có đến một trăm
(bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm:
Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt,Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây,Trung Quốc và Bắc bộ Việt Nam), sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử chođến Bắc bộ (Việt Nam) Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao, Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hìnhthành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay Trong khi đó, phía nam ViệtNam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai Theothời gian họ chuyển biến thành Chủng Nam Đảo Đó là tổ tiên của các dân tộcthuộc nhóm Chàm
Việc xác định về mặt địa lý có thể hình dung như sau:
Địa bàn cư trú của người Bách Việt là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử,đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam
Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo là một tam giác mà đáy là sôngDương Tử, đỉnh là đồng bằng sông Mê kông, Việt Nam
Đại bàn cư chú của hậu duệ người Cổ Mã Lai, mà ngày nay là phần lớn các cưdân Đông Nam Á là một vùng rất rộng kéo dài từ Ấn Độ đến Philippines theo chiềutây đông, và từ sông Dương Tử xuống đến Indonesia theo chiều bắc nam
Trang 5Dân tộc Nùng là một cộng đồng các dân tộc nói ngôn ngữ Thái là dân tộc lớn ởchâu Á, có mặt ở hầu hết các nước Đông Nam Á, và có mối quan hệ với dân tộcChoang ở Quảng Tây và Vân Nam - Trung Quốc Dựa vào sự so sánh đối chiếu cáctộc người cổ đại với tộc người hiện đại ngày nay các nhà nghiên cứu dự đoán về sựtách nhóm tộc người ngôn ngữ Tày – Thái Trên cơ sở những nhóm riêng biệt này
mà dần hình thành các nhóm tộc người nói ngôn ngữ Tày –Thái ngày nay Dân tộcNùng là một nhóm tộc người được tách ra trong quá trình phát triển của lịch sử, xãhội, địa lí…
Bản sơ đồ:
Chăm, Êđê, Khơme, Việt, Mường Tày, Thái, Mèo, Dao… GiaRai… Xơ Đăng… Thổ, Chứt… Nùng…
1.2.2 Tên gọi dân tộc Nùng
Mỗi dân tộc đều có riêng một tên khác nhau, sự hình thành và cách gọi tên dântộc mình có nhiều cách lí giải khác nhau, thường thì hay dựa vào những truyềnthuyết, câu chuyện về sự ra đời của dân tộc mình, tổ tiên mình mà dựa vào đó cóthể biết tên dân tộc mình, nguồn gốc và lịch sử dân tộc Dân tộc Nùng cũng như
Nhóm Việt – Mường
Nhóm Tày - Thái
Nhóm Mèo - Dao
Trang 6những dân tộc khác trên đất nước Việt Nam đều có chung một lí giải về nguồn gốc,tên gọi của mình.
Sau sự thất bạo của Nùng Chí Cao, bộ phận Tày – Thái ở lại bên kia biên giới,dần dần được tính vào tộc người Choang, một cộng đồng người gồm nhiều tộcngười khác nhau cùng và khác ngôn ngữ Nhóm hiện nay ở Việt Nam, gọi là Nùngtrong khối Choang, phần lớn sang Việt Nam ba, bốn trăm năm nay, vào đầu đờiMinh cuối đời Thanh, đặc biệt là vào thời Thái Binh Thiên Quốc Người dân gọi họ
là Nùng là do di cư từ Trung Quốc về1 Mỗi nhóm Nùng còn nhớ quê tổ của họ ởbên kia Trung Quốc, qua tên gọi, ta có thể hiểu được xưa tổ tiên họ ở địa phươngnào2 Họ di cư lẻ tẻ đến Việt Nam theo từng nhóm, cứ trú đan xen với người Tày vàcác tộc người khác, trong những thung lũng nhỏ, ít có điều kiện làm ruộng nước,phải làm rẫy, thậm chí làm thổ canh hốc đá Những nhóm tự nhận mình là Nùng,không hẳn đã có chung một ngôn ngữ, một văn hóa, một tôn giáo Các nhóm NùngPhản Sình, Nùng An, Nùng Lòi không hiểu tiếng của nhau Tiếng nói của Nùng Angần với tiếng Sán Chay (Cao Lan), có yếu tố Dao, tiếng nói Nùng Vẻn gần tiếngKađai (Cơ Lao) (theo Nguyễn Văn Lợi)
Nùng hay Nồng là tên tự gọi của người Nùng Có nhiều cách giải thích khácnhau về tên gọi này Có trường hợp giải thích bằng cách chiết tự chữ nông trongnông nghiệp Cũng có ý kiến cho rằng tộc danh này có nguồn gốc từ tên gọi củadòng họ Nông, một trong bốn dòng họ lớn ở khu vực tử hữu Giang Quảng Tây –Trung Quốc và vùng Đông Bắc Việt Nam như Chu, Vi, Hoàng, Nông
Dân tộc Nùng (các nhóm địa phương: Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An,Nùng Lòi, Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín)
1 ở biên giới Việt – Trung, phía Cao Bằng, người Tày thường nói: Pay Nồng tức là sang đất của Nùng Chí Cao, tức bên kia biên giới, người ở đó sang ta lập nghiệp được gọi là Cần Nông (người Nồng), gọi chệch đi là người Nùng
Anh tới, Nùng Lòi (Cao Bằng, Lạng Sơn) từ Hạ Lôi qua, …
Trang 7thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái của hệ ngôn ngữ Thái-Kadai, dân số 856.812người sống tập trung ở các tỉnh đông bắc Bắc Bộ như Lạng Sơn, Cao Bằng, BắcKạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang … (chiếm tới 84 %) Hiện tại, mộtlượng lớn đã di cư vào các tỉnh Tây Nguyên (11 %), chủ yếu tại Đắk Lắk NgườiNùng có quan hệ gần gũi với người Tày và người Choang (Zhuang) sống dọc biêngiới với Trung Quốc Tại Trung Quốc, người Nùng cùng với người Tày được xếpchung vào dân tộc Choang Dù xuất phát các tên gọi theo nhóm địa phương khácnhau nhưng ở Việt Nam họ đều được xếp chung vào nhóm tộc người Nùng.
1.3 Người Nùng trong lịch sử
Từ qua trình lịch sử cho thấy người Tày và người Nùng có mối quan hệ rất gầngũi về mặt nguồn gốc Về cơ bản quá trình phân tách hai nhóm này mới chính thức
có từ sau thế kỉ XI sau khi nhà Tống đánh bại Nùng Chí Cao
Năm 1041, Nùng Chí Cao lập nên nước Đại Lịch Từ đó họ tự coi mình là ngườithuộc phạm vi uy quyền, thế lực của thủ lĩnh họ Nông, tiếng Tày gọi là “Đin Nồng”(đất Nùng) Đến thế kỉ XV khi đường biên giới Việt Trung được xác lạp rõ ràng thì
đã hình thành nên quan niệm: tộc người bên kia biên giới được gọi là Nùng (hayNồng) để phân biệt bên này biên giới là Tày
Nùng Trí Cao tức Nông Trí Cao, thủ lĩnh người Nùng ở châu Quảng Uyên xưathời Lý nay là Cao Bằng, là người lập ra nước Nam Thiên Quốc sau đổi là NamViệt rồi bị nhà Tống diệt
Lo sợ bị nhà Tống trả thù, nhiều người Nùng chạy sang Ðại Việt lánh nạn vàđịnh cư luôn tại miền thượng du các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.Người Kinh gọi các nhóm này là người Thổ (người địa phương), trong khi họ tựnhận là người Thái Với thời gian, các nhóm này đổi tên thành người Thày (đọc trại
từ chữ Thái) rồi Tày để phân biệt với các nhóm người Thái đã có mặt từ trước vàcũng để phân biệt với người Nùng, cùng hệ ngôn ngữ, còn sinh trú ở Quảng Tây và
Trang 8Quảng Ðông Từ thế kỷ XIII, các nhóm Nùng không chịu nổi chính sách phân biệtđối xử của nhà Nguyên (Mông Cổ), sau đó là nhà Minh (Hán) và nhà Thanh (MãnChâu), đã từng đợt di cư vào Việt Nam, hội nhập với các nhóm Tày và Thái cùng
hệ ngôn ngữ đã có mặt từ trước, họ vẫn giữ tên gọi riêng là Nùng
Trong thực tế, các nhóm Tày, Nùng và Thái tại Việt Nam chỉ khác nhau chút ít
về cách ăn mặc và cách xây dựng nhà cửa, về văn hóa thì hoàn toàn giống nhau.Cộng đồng người Tày, Nùng hay Thái được các triều đình Việt Nam dành cho quichế tự trị để tranh thủ sự ủng hộ, chính sách này có tên “kềm cương phụ đạo”,nghĩa là tranh thủ cảm tình các vị thủ lãnh vì những người này có uy tín lớn trongcộng đồng của họ
Ả Nùng, bà là người vợ của Nùng Tồn Phúc, thủ lãnh châu Quảng Uyên, và là
mẹ đẻ của Nùng Trí Cao Ả Nùng là người phụ nữ có tiếng nói quyết định trongtoàn bộ sự nghiệp chính trị của Nùng Trí Cao
Nùng Tôn Đản, tướng nhà Lý dưới quyền Lý Thường Kiệt, chỉ huy cánh quân
bộ trong chiến dịch đánh sang Ung Châu
Năm 1833, Nông Văn Vân, một tù trưởng Tày giữ chức tri châu Bảo Lạc (ngàynay thuộc tỉnh Hà Giang) tự xưng Tiết chế thượng tướng quân, đã cùng các tùtrưởng Mường và một số làng Kinh ở miền trung du, do Nguyễn Quang Khả (trichâu Ðại Man) lãnh đạo, chiếm một vùng đất rộng lớn (Tuyên Quang, TháiNguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn lập căn cứ chống lại nhà Nguyễn Nông Văn Vân
là anh vợ của Lê Văn Khôi ở Gia Ðịnh bị vua Minh Mạng bắt về Huế xử trảm vềtội làm phản, chính vì lo sợ bị trả thù ông mới nổi lên chống lại Quan quân nhàNguyễn phải vất vả lắm mới đánh bại Nông Văn Vân năm 1835, từ đó quan hệ giữatriều đình Huế và người thiểu số trở nên lạnh nhạt Các nhóm Thái-Tày đã khôngnhững không hưởng ứng các đợt tấn công quân Thanh tại vùng biên giới mà cònhợp tác với quân Cờ Ðen, Cờ Trắng và Cờ Vàng đánh phá các làng xã người Kinh
Trang 9Đến thế kỉ XX, đồng bào Nùng luôn sát cánh cùng người Việt cùng với các dântộc anh em chống lại bọn phong kiến, thực dân đế quốc Nhiều vùng Nùng là cơ sởcách mạng vững chắc, như Pắk Pó, Ma Lịp…và trong quê hương cách mạng ấy đãsản sinh ra những con người ưu tú như Kim Đồng, La Văn Cầu, Triệu Thị Soi…
1.4 Ngôn ngữ
Về cơ bản, hai dân tộc Tày Nùng có sự tương đồng về mặt ngôn ngữ Do ảnhhưởng của yếu tố địa phương nên tiếng Nùng có sự sai biệt nhất định, nó không chỉphụ thuộc vào địa vực cư trú mà còn có sự khác biệt giữa các nghành Nùng Chẳnghạn, người Nùng Cháo ở vùng Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc của Lạng Sơn thìtiếng Nùng căn bản đã hòa nhập với tiếng Tày của địa phương này Nhóm ngônngữ thuộc Nùng Lòi, Nùng An, Nùng Dín, Quí Rỉn thì lại mang nhiều đặc điểmriêng khác khá xa với tiếng Tày bản địa Do thời gian cư trú ở bên Trung Quốcnhiều hơn nên người Nùng chịu ảnh hưởng trực tiếp văn hóa Hán từ chính quốc, vềmặt ngôn ngữ có biểu hiện pha tạp với tiếng Hán nhiều hơn tiếng Tày Hệ thốngnhân xưng của nhiều ngành Nùng vẫn mượn hệ thống nhân xưng của Hoa Nam,như có (anh), ché (chị), cống (ông), … điều này cũng có sự ảnh hưởng đặc điểmriêng của người Nùng, trong tiếng Tày đọc “Hoàng đế vạn vạn tuế”, “Nam mô bồtát” thì trong tiếng Nùng đọc là “Vòong táy mản mản soi”, “Nan u phù xà”, …
1.5 Sinh hoạt kinh tế của người Nùng
Nguồn sống chính của người Nùng là lúa và ngô Họ kết hợp làm ruộng nước ởcác vùng khe dọc với trồng lúa cạn trên các sườn đồi Người Nùng làm ruộng nướcthành thạo như người Kinh, người Tày Song nơi cư trú của họ là khu vực chuyểntiếp từ vùng thấp và vùng cao nên ruộng ít nước, nương rẫy có vai trò hết sức quantrọng Đất trồng trọt có thể chia làm ba loại, ruộng nước ở cacd thung lũng hẹp, khócanh tác và thường thiếu nước; nương thâm canh ở thung lũng còn rẫy ở nơi rừnggià hoặc rừng tái sinh có nhiều cây to, rừng nứa um tùm Công việc phát dọn nương
Trang 10rẫy của người Nùng thường vào tiết Cốc Vũ, Thanh Minh, gieo hạt vào đầu tháng
tư Xa xưa đồng bào chọc lỗ tra hạt, nhưng gần đây đã phổ biến gieo trồng bằngphương pháp vải giống kĩ thuật canh tác có nhiều kinh nghiệm, đã xen canh gối
vụ, bón nhiều loại phân, nên cây trồng đạt năng xuất cao
Người Nùng tích lũy được nhiều kinh nghiệm chăn nuôi gia cầm, gia súc và tạođược giống tốt như lợn đen Mường Khương, Lạng Sơn ngựa Cao Bằng…Tuy vậy,cách chăn nuôi còn mang tính tự nhiên Trâu bò xưa thả rông trong rừng, gia cầmnuôi dưới gầm nhà Nghề phụ gia đình của người Nùng rất phong phú Đó là nguồnlàm giàu của đồng bào, một nguồn hàng trao đổi để bù đắp lương thực do thiếuruộng nước Nổi bật nhất là nghề trồng bông dệt vải và nghề rèn đúc Trồng bôngdệt vải, nhuộm vải phát triển nhất ở Hà Quảng, Quảng Hòa (Cao Bằng), Cao Lộc,Bình Gia (Lạng Sơn) Còn nghề rèn, đúc ở người Nùng An Người Nùng cũng nỗitiếng với các sản phẩm đan lát, dệt chiếu, làm thùng gỗ, yên ngựa, làm giấy, nghềtrúc, làm đường phên…Mỗi nhóm Nùng, mỗi làng có những nghề riêng đặc sắc Đồng bào Nùng còn trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt,hồng Hồi là cây quí nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể.Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghềmộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm
1.6 Dân số, địa bàn cư trú
Dân tộc Nùng có gần 856.000 người Họ sống tập trung là ở các tỉnh LạngSơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang Người Nùnggồm có các nhóm: Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phàn Sinh, Nùng Cháo,Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài
Đồng bào Nùng sống thành từng bản trên các sườn đồi, thung lũng, chân núi,ven các sông, suối Đồng bào thường ở nhà sàn làm bằng gỗ tốt, lợp ngói mánghoặc lợp tranh.Thông thường trước bản là ruộng nước, sau bản là nương và vườn
Trang 11cây ăn quả Mỗi bản thường bao gồm dăm bảy đến chục nóc nhà quần tụ với nhau.Cây Đa, bến nước, mếu thờ thổ công, sân chơi là nơi hội họp trong các ngày hội,ngày lễ … Người Nùng sống xen ghép với người Tày nhưng vẫn sống theo từngbản riêng Xưa kia mỗi bản hoặc vài bản bố trí thành một hệ thống phòng thủ đểchống bọn trộm cướp, giặc dã
Trang 12Chương 2 Văn hóa tộc người Nùng
2.1 Ẩm thực
Người Nùng ăn cơm tẻ là chủ yếu Trong những ngày lễ, tết, đồng bào thườnglàm nhiều loại bánh từ gạo và có tục uống rượu bằng thìa So với người Tày, ngườiNùng ăn Ngô nhiều hơn Ngô xay thành bột nấu cháo đặc như bánh đúc Trong bữa
ăn, ngoài rau, dưa, còn có thịt cá nhưng không nhiều Thức ăn thường xào, rán ítluộc Các ngày lễ tết có nhiều loại bánh, khi có khách người Nùng thường chúcrượu nhau bằng thìa Đây là nét độc đáo trong phong cách ăn uống của đồng bàoNùng Người Nùng không ăn trầu như các dân tộc khác, thường khi nam nữ đếntuổi trưởng thành đều bịt một chiếc răng vàng ở hàm trên
2.2 Trang phục
Nam, nữ đến tuổi trưởng thành đều bịt một chiếc răng bằng vàng ở hàm trên
và như thế được xem là làm đẹp, là người sang trọng Phụ nữ mặc áo năm thân vàcài một hàng cúc bằng nút vải phía bên nách phải Tùy từng nhóm Nùng địaphương mà áo dài, ngắn, rộng, hẹp khác nhau, nhưng ở đoạn cổ tay và lá sen baogiờ cũng đắp một miếng vải và bốn túi áo không có nắp Nam, nữ đều mặc một loạiquần nhuộm màu chàm, cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân Phụ nữ Nùngthường đeo tạp dề trước bụng, khi gồng gánh còn mang thêm miếng nệm vai Điểmkhác nhau giữa các nhóm, một trong những biểu hiện là cách đội khăn và các loạikhăn trang trí khác nhau đôi chút Nam mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, với một hàng cúcvải và bốn túi không có nắp
2.2.1 Nữ phục
Hiện tại, dân tộc Nùng sinh sống ở nước ta tự phân thành nhiều nhóm địaphương, mà sự khác biệt giữa họ chỉ là sắc thái văn hoá thể hiện qua tiếng nói,phong tục, lễ nghi, trong đó dễ thấy hơn cả là trang phục cổ truyền, đặc biệt là nữ
Trang 13phục Về phương diện loại hình các bộ phận trang phục, nữ phục Nùng gồm loại áocánh ngắn 5 thân và 4 thân, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu,…Tuy nhiênbản thân người Nùng cũng như các dân tộc láng giềng khác vẫn dễ dàng nhận rađâu là người Nùng, trước hết nhờ vào màu sắc vải may mặc, một số chi tiết trongcách thức may cắt, thói quen ưa mặc rộng hay hẹp và hoa văn trang trí trên trangphục Nữ phục Nùng Giang màu xanh nhạt, Nùng Dín màu xanh thẫm hay tímthan, Nùng Lòi màu xanh đen hơi ngả phớt màu Phụ nữ Nùng mặc cả loại áo ngắn
5 thân và 4 thân Áo ngắn 4 thân: cổ áo tròn, xẻ ngực, nẹp và gấu áo rộng, hai túinhỏ ở vạt trước, cài 9 hàng cúc vải ở nẹp áo Loại áo này phần lớn dùng mặc trongnhà, đi lao động hay mặc trong áo dài năm thân.Chỉ riêng nhóm Nùng Dín thì áongắn 4 thân lại là loại áo mặc chính, còn loại áo 5 thân may ngắn, chỉ vừa che kínbụng, dùng mặc trong nhà, khi đi ngủ, mặc lót trong loại áo 4 thân khi đi ra khỏinhà Loại áo 4 thân của Nùng Dín may cắt khá độc đáo Áo may thành hai lớp vải,lớp ngoài vải dầy, lớp trong vải mỏng hơn Ống tay áo rộng, dài tới cổ tay, gần cửatay có đáp thêm một khoanh vải khác màu Nẹp áo ngực đơm hàng cúc bạc 13chiếc Phụ nữ Nùng An, Nùng Inh, Nùng Giang, Nùng Phàn Slình đều mặc loại áongắn năm thân ở trong nhà cũng như khi ra ngoài đường Nét tương đối khác biệtcủa loại áo năm thân này là cổ áo thường may liền với nẹp áo xuôi về phía náchbên phải, trên đó có thể trang trí những miếng vải khác màu hay dải hoa văn
Loại áo dài năm thân của phụ nữ Nùng cũng như loại áo dài năm thân của nhiềudân tộc láng giềng khác Giữa các nhóm Nùng, loại áo dài này chỉ khác biệt đôichút, thể hiện ở độ dài ngắn, rộng hẹp, hoa văn trang trí,…Thí dụ, áo dài của NùngGiang, phần vải khác màu khâu đáp dọc nẹp áo ngực và cửa tay kích thước lớn hơn
so với áo dài của Nùng Lòi và Nùng Inh, trong khi đó áo của phụ nữ Nùng An lại
để trơn đồng màu Chính tên gọi Nùng Khen Lài (Nùng tay hoa) là chỉ việc trang trínhững khoang vải màu trên cánh tay áo dài 5 thân này Độ dài của áo cũng có sự
Trang 14khác biệt áo phụ nữ Nùng Xuồng khá dài, phủ quá gối, trong khi áo phụ nữ Nùng
An chỉ vừa phủ mông, còn áo Nùng Phàn Slình thì ngắn hơn nữa, chỉ quá thắtlưng…Phụ nữ Nùng Dín khi đi lấy chồng may chiếc áo mới có trang trí đặc biệt,
gọi là May Chát Shựa Loại áo này kiểu xẻ ngực, 4 thân như áo ngày thường,
nhưng đây là áo mới, trang trí công phu trên cổ, nệp và gấu áo Dải hoa văn gắn
vào cổ áo gọi là hô môi, tạo thành bởi những hạt bạc, gắn thành các hình răng cưa
gọi là cúc mẹ Ngoài cổ áo và nẹp trang trính những miếng bạc nhỏ, gấu áo cũngthêu những đường chỉ màu xanh đỏ, vàng hình thẳng song song và răng cưa
Váy của người Nùng phân rõ thành cạp váy, giải buộc váy, thân váy và gấu váy.Nhiều khi họ gọi cạp váy là đầu váy, còn gấu váy là chân váy Thân váy được ghéplại từ 4 mảnh, gấu váy được đáp thêm vải khác màu, vừa cho gấu váy cứng vừa làmđẹp Khi mặc, người ta gấp phần váy thừa ra phía trước hoặc phía hông Khi đi chợ,
đi thăm viếng, người ta để gấu váy phủ thấp chấm mắt cá chân, còn khi đi làm thìkéo gập váy lên cao cho tiện và sạch sẽ hơn Đáng chú ý hơn cả là váy của phụ nữNùng Dín.Váy may cắt theo kiểu váy xoè xếp nếp, khác với váy của một số nhómđịa phương khác của người Nùng, người Tày nhưng lại có phần giống với kiểu váyxoè xếp nếp của người Mông, Thu Lao, một số nhóm Dao,…Váy tạo thành bởi hailớp vải, lớp ngoài dày và cứng hơn, còn lớp trong thì mỏng và mềm Váy khôngkhép kín hai mép vải dọc thân váy lại mà để hở khi mặc, mép nọ đè chồng lên mépkia, làm cho người mặc vẫn có cảm giác kín đáo Váy của phụ nữ Nùng Dín đượctạo nên từ cạp váy, đầu váy, thân váy và gấu váy Cạp váy nối với đầu váy, hai bêntạo thành hai dây vải dài dùng để thay cho thứ dây lưng hay giải rút, thắt cho váygiữ chặt vào eo lưng Đầu váy thường là mảnh vải khác màu, trắng hay xanh, khâuliền một phía với thân váy, phía kia với cạp váy Đầu váy có chiều dài khoảng gấprưỡi vòng bụng, nhưng lại ngắn hơn rất nhiều chiều ngang của vải thân váy Dovậy, khi khâu lại với nhau, thân váy phải xếp nếp sao cho đều, khi mặc các nếp xếp
Trang 15gối nhau đều đặn chảy dài theo chân váy Khi đi làm, để cho gọn ghẽ, dễ cử động,
người ta túm một túm vải thân váy ở phía sau, buộc lại tạo thành cục gọi là phàn
phái (túi vải), từ đó mới có tên gọi là Nùng U hay Nùng phàn phái.
Dây lưng của bộ nữ phục của các nhóm Nùng cũng có những nét khác biệtnhau.Tiêu biểu hơn cả vẫn là dây lưng của nhóm Nùng Dín Dây lưng dệt bằng sợi
tơ tằm, trên mặt vải dệt những đường nét hoa văn hình thang song song, hình răngcưa, quả trám, lượn sóng, hình chim cách điệu,…Khi mặc, quấn dây lưng quanhbụng, hai đàu dây dắt mối ở hai bên hông Dây lưng của phụ nữ Nùng Lòi bằng sợibông dệt và nhuộm chàm, hai đàu dây thả mối phía sau dài chấm bắp chân Dâylưng của nhóm Nùng An thì tuyền một màu xanh chàm, còn phụ nữ Nùng Xuồngthì thì thắt nhiều vòng thắt lưng ra ngoài áo dài, trên đó có dắt dây xà tích bằngđòng hay bạc, nổi rõ trên nền thắt lưng chàm Cách chải bới tóc và phủ khăn độiđầu bao giờ cũng thể hiện nét riêng của các nhóm Nùng Phụ nữ Nùng An vấn tócgiống như phụ nữ Tày, sau đó phủ ra ngoài bằng chiếc khăn vuông nhỏ dệt hoa hayvải chàm trơn, hai mối khăn buộc ra phía sau, đáy dưới lớp khăn vấn Phụ nữ NùngInh, Nùng Lòi vấn tóc rồi đội khăn chàm ra ngoài giống như cách đội của phụ nữKinh Phụ nữ Nùng Giang lại vấn tóc rồi đội ra ngoài chiếc khăn trắng, phủ hếtphần tóc và hai tai, gáy Phụ nữ Nùng Phàn Slình lại có nét khác biệt hơn: họ gấpchiếc khăn dệt hoa văn rất đẹp rồi quấn một vòng từ trước trán ra sau gáy Phụ nữNùng Dín có hai loại khăn đội đầu, loại khăn thường ngày vẫn đội gọi là bẩupạ,còn loại khăn chỉ đội khi cưới xin, hội hè, gọi là bẩu chịp Hai loại khăn nàykích thước như nhau, dài khoảng 1,5m, nhuộm chàm, rìa khăn có viền chỉ đỏ Khácbiệt giữa hai loại là khăn bẩu chịp có gắn thêm những mảng hoa văn Một mảnghoa văn gắn trên mặt khăn trước trán, gọi là pạc môi, còn miếng gắn trên khăn phíasau gáy gọi là thẳng khăn Các mảng hoa văn này tạo ra bằng cách gắn các miếngbạc nhỏ để tạo nên các hoạ tiết hoa văn, giống như trang trí hoa văn trên cổ áo
Trang 16Những bộ phận còn lại của bộ trang phục Nùng là tạp dề, xà cạp, đệm vai, giầyvải, và một số đồ trang sức làm bằng kim loại đeo trên người Tạp dề là miếng vảithường đồng màu với quần áo, chiều dài phủ từ thắt lưng tới quá gối, chiều rộngche kín thân váy hay ống quần mặc bên trong Xà cạp làm từ vải bông để trắng haynhuộm chàm, vừa để chống lạnh, muỗi, vắt khi đi rừng hay làm ruộng, nương, vừagiữ cho chân phụ nữ thon tròn,trắng trẻo, một nét đẹp của phụ nữ Khi đi chơi chợ,thăm hỏi bà con, phụ nữ Nùng còn đi giầy vải, che ô đó là những thứ mà người thợthủ công dân tộc có thể làm được, hay mua ử các phiên chợ vùng núi biên giới Phụ
nữ Nùng dùng nhiều loại trang sức hơn là phụ nữ Tày, đó là các loại vòng cổ, vòngtay, trâm cài tóc, dây chuyền, bịt răng vàng, các loại vòng hay hoa tai…
2.2.2 Nam phục
Về cơ bản, trang phục nam giới Nùng giống như trang phục nam giới Tày vànhiều dân tộc khác.Sự khác biệt có chăng chỉ ở một vài chi tiết, chẳng hạn như namgiới Nùng mặc áo cánh 4 thân xẻ ngực và quần may hơi khít vào người và ngắnhơn so với quần áo của đàn ông người Tày hay ở một vài nhóm Nùng Trên trangphục của cả nam và nữ tuy ít nhưng vẫn thấy trang trí bằng những dải vải ghépkhác màu Các đường viền chỉ màu ở tà hay gấu áo Nam giới Nùng cũng ưa xămmình,bịt răng vàng, đeo các loại vòng hơn nam giới Tày…
2.3 Nhà ở
Người Nùng thường ở nhà sàn, nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất, trong đó nhàsàn là kiểu nhà truyền thống ưa thích của họ Nhà thường khá to, rộng, có ba gian,vách thường bằng gỗ và lợp ngói máng Cách đây chưa lâu, nhà sàn là sự tổng hợp:người ở trên sàn, gầm sàn nhốt trâu, bò, lợn, gà…trên gác chứa dụng cụ sản xuất,nông phẩm Nhà đất hiện nay là hiện tượng khá phổ biến ở vùng đồng bào Nùng,dọc suốt các vùng biên giới, sát đường giao thông, tường trình hoặc xây đá, máingói
Trang 17Nhà nửa sàn nửa đất mang tính tạm bợ chỉ còn lại ở những gia đình sống ducanh, du cư Việc bố trí trong nhà giữa các nhóm Nùng cơ bản giống nhau Nhàđược chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối đi ở gian giữa, phần trong đặtbếp, là nơi sinh hoạt của phụ nữ trong gia đình Phần ngoài, dành cho nam giới vàđặt bàn thờ tổ tiên Phía sau nhà có cầu thang phụ, ở đấy có máng nước dùng đểtắm rửa Phân chia này cũng áp dụng đối với khách là nam hay nữ.
Nhà của người Tày - Nùng có những đặc trưng riêng không giống các cư dânkhác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày-Thái Bộ khung nhà Tày-Nùng cũng đượchình thành trên cơ sở các kiểu vì kèo Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau, nhưng chủyếu là bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột Để mở rộng lòng nhà người ta thêm mộthoặc hai cột vào hai bếp vì kèo ba cột để trở thành vì kèo năm hoặc bảy cột Songkhông có vì kèo nào vượt quá được bảy cột
Bộ khung nhà chúng ta dễ nhận ra hai đặc trưng:
Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa hai cột có một trụ ngắn hình "quả bí"(hay quả dưa: nghé qua), đầu đấu vào thân kèo
Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người takhông dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.Mặt bằng sinh hoạt của nhà Tày-Nùng trên cơ bản là giống nhau, mặt sàn chialàm hai phần: một dành cho sinh hoạt của nữ, một dành cho sinh hoạt của nam Cácphòng và nơi ngủ của mọi thành viên trong nhà đều giáp vách tiền và hậu
Nói đến nhà Tày-Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt,
đó là "nhà phòng thủ" Thường là có sự kết hợp gữa nhà đất và nhà sàn (đúng hơn
là nhà tầng) Tường xây gạch hoặc trình rất dày (40-60 cm) để chống đạn Trêntường còn được đục nhiều lỗ châu mai Có nhà còn có lô cốt chiến đấu Loại nhànày chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía bắc để phòng chống trộm cướp
Trang 182.4 Quan hệ gia đình
Trong gia đình, quan hệ giữa bố chồng, anh chồng với nàng dâu có sự cáchbiệt nghiêm ngặt Theo phong tục Nùng, dù là con anh, con em, con chị ai nhiềutuổi hơn được gọi là anh, là chị Đồng bào Nùng có thói quen ít khi gọi thăng tênngười ông, người bố mà thường gọi theo tên của đứa cháu đầu, con đầu của họ Khiđặt tên con phải tuân theo hệ thống tên đệm của dòng họ
Việc dựng vợ, gả chồng do bố mẹ quyết định trên cơ sở môn đăng hộ đối giữahai gia đình sự ưng thuận của con cái và lá số của đôi nam nữ Cưới xin của ngườiNùng rất tốn kém, nhà gái thường thách cưới rất cao, tiền hàng triệu, lợn hàng tạthịt…Theo quan niệm xưa, có như vậy bố mẹ mới mát lòng, “mát mặt mát mày”với hàng xóm Con gái về nhà chồng phải có nhiều của hồi môn như chăn, màn,gối, chậu rửa mặt, cô dâu chưa hẳn đã có mặt ở nhà chồng, mà chỉ có mặt khi nhàchồng có công việc bạn rộn, lễ tết và có người sang đón Tình trạng kéo dài đến khisắp có con Người phụ nữ khi lấy chồng xem như hoàn toàn thuộc về nhà chồng.Nếu bỏ chồng lấy người khác, thì phải trả lại tiền cưới, để lại nhà cửa và con cái…
Ở người Nùng, tiểu gia đình với tôn ti trật tự phong kiến đã thống trị từ lâu.Người đàn ông làm chủ gia đình, làm chủ tài sản, có quyền quyết định tất thảy mọiviệc trong nhà và tham gia các công việc xã hội Người đàn bà giữ vai trò phụthuộc,không có quyền thừa kế tài sản, chỉ chăm lo công việc nhà, không được đihọc, không được tham gia các công việc xã hội Trong trường hợp gia đình không
có con trai thì thường nhận một đứa cháu tri làm con nuôi để thừa kế tài sản vàchăm lo công việc cúng bái trong gia đình Nếu gia đình có con gái thì cưới rể đờicho con gái, trong trường hợp này người con rể được thừa kế tài sản, chăm lo việccúng bái bên nhà mình và bên nhà vợ Tư tưởng trọng nam khinh nữ rất đậm nét,không chỉ trong vấn đề thừa kế tài sản, giải quyết công việc gia đình và ngoài xã
Trang 19hội mà còn ở nhiều mặt khác nữa Trong căn nhà của người Nùng thường có quyđịnh rõ ràng và khá chặt chẽ nơi ăn ở của từng giới.
2.5 Tôn giáo, tín ngưỡng
Trong thờ cúng của dân tộc Nùng, chủ yếu là thờ cúng tổ tiên Tổ tiên thườngđược cúng trong nhà, không phân biệt gia đình đó thuộc chi trưởng hay chi thứ,ngay cả khi các con trai đã ra ở riêng mà bố mẹ còn sống cũng đã lập bàn thờ đểthờ cúng tổ tiên Sau khi bố mẹ qua đời, vong linh được rước về thờ ở mỗi gia đình.Dưới mỗi mái nhà đều có lập một giường thờ được trang trí cẩn thận, nơi, bàn thờ
được đặt nơi trang trọng nhất, có trang hoàng đẹp đẽ, có phùng slằn (Nơi ghi tổ tiên
thuộc dòng họ nào) Bàn thờ tổ tiên có bài vị, lư hương và được đặt vào nơi trangtrọng nhất, thường ngang với sàn nhà ở gian giữa, nằm giữa hai cột chính Mỗitháng hai lần, vào ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng chủ gia đình quét rọnbàn thờ, thắp hương nhang, cúng bằng chè hoặc rượu Còn trong các ngày lễ tết thìphải cúng bằng đồ ăn thức uống mà con cháu dùng trong các dịp đó Các bậc tổtiên, không cứ là bao nhiêu đời, từ bố mẹ trở lên thì được thờ ỏ đó
Những gia đình có người làm thầy tào, thầy pụt, thầy then…thì lập thêm mộtbàn thờ, thờ “thánh tướng và âm binh” nữa Cũng trong các dịp lễ tết, ngày mồngmột và ngày rằm mỗi tháng phải thắp hương nhang, cúng, cấp vàng mã…
Gia đình nào thờ cúng táo quân thì phải giữ gìn bếp cẩn thận, như không đượcnhổ, bỏ giấy viết vào bếp, không được xào nấu các thức ăn gọi là những “thức ăntạp”, như: thịt trâu, bò, chó,…
Ngoài ra, mỗi nhà còn thờ bà mụ: Mẹ Hoa (Thần bảo hộ trẻ nhỏ) thường đượcthờ ngay đầu giường của phụ nữ đã có con, cúng vào dịp lễ tết, mẹ cửa (thần trôngnhà) Vào những ngày đầu tháng, ngày rằm họ thường đốt hương Ngày lễ, tết cócúng chè, rượu và các món ăn Người Nùng cúng ma sàn (phi háng chàn) và các côthần đầu ngõ vào dịp Tết nguyên đán Những loại ma trên đây thường phải cúng
Trang 20khi trong nhà có người đau ốm, khi bói thấy chúng đòi thức ăn hoặc con cháu phạmphải những điều kiêng khem trong nhà.
Khác với người Tày, người Nùng rất phổ biến tục thờ “ma ở ngoài sàn” (Phihang chàn) Theo thần tích, vị thần này cũng là vị thần thổ địa Nhưng đối với một
số họ ở người Nùng phi hang chàn lại là thần An Phủ Đại Vương, tức Nùng TríCao, một thủ lĩnh người Tày – Nùng vào thế kỉ XI Đồng bào cho rằng vị thần nàyrất linh thiêng, mỗi khi mổ lợn đều phải thờ cúng tại sàn phơi trước khi đem bánhoặc nấu nướng Việc cũng chẳng có gì là phức tạp, chỉ việc căt thủ lợn đặt trên tàu
lá chuối cắm vài nén hương
Có thể phân biệt được nhà người Tày với người Nùng một cách dễ dàng trongcác dịp lễ tết Khác với người Tày, gia đình người Nùng nào cũng có một bàn thờđặt cạnh cửa trước; tại đấy người ta đặt vài loại tết và thắp hương trong ba ngày tết.Theo quan niệm của họ xung quanh ta có vô số ma quỷ, ngày tết cần bày các lễ vật
ở đó, ma nào đi qua nếu cần thì lấy khỏi vào nhà người ta
Người Nùng còn thờ các thần thổ địa, thần thổ công, thành hoàng là những vịthần công cộng của toàn bản, có khi của toàn mường, có nhiệm vụ bảo vệ sinh linhmùa màng Đối với các thần thổ công thì cứ ngày mồng một tết nguyên đán, các giađình trong chòm xóm đều phải mang lễ vật đến cúng Khi trong chòm xóm cóngười chết, khi một căn nhà mới mọc lên thì gia chủ phải sửa lễ báo cho thổ côngbiết
Thành hoàng hầu như địa phương nào cũng có, nhưng không nhất thiết bảnnào cũng có miếu thờ, có khi vài chòm xóm lân cận mới có một cái đình chung.Hàng năm các gia đình tụ tập lại để cúng
Những gia đình cùng một dòng họ thì cùng chung một miếu thờ thổ công, thổđịa Các thầy tào, thầy mo theo ý tưởng từ xưa họ có khả năng tiếp xúc với các loại
Trang 21ma thần nên được gọi là cần tha hùng (người mắt sáng) Họ hành nghề cúng bái,
cầu sự tốt lành cho người dân Vì thế họ được mọi người kính nể
2.6 Văn học, nghệ thuật
Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hóa dân gian phong phú và có nhiều lànđiệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc Nổi bật nhất trong văn nghệ dân gian Nùng làlối hát đối giữa Nam và Nữ (Sli) - một lối hát ví, hát giao duyên của thanh niênnam nữ Đặc điểm của các điệu Sli là diễn xướng tập thể, mỗi bên nam nữ khi hátvới nhau thường phải có từ hai người trở lên, hát theo hai bè Lời ca của các điệuSli được cấu tạo theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn bát cú Mỗi nhóm Nùng
có một làn Sli độc đáo: điệu Soong lằn, nhì hào của người Nùng Phàn Sình, Si ới của người Nùng Lòi, Hà lều của người Nùng An, Tả Sli của người Nùng Giang,
tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hòa quyện vào âm thanh tựnhiên của núi rừng gây ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần lên xứ Lạng.Then là làn điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểudiễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương…NgườiNùng rất yêu ca hát, mọi người có thể Sli bất cứ lúc nào và ở đâu mỗi khi rãnh rỗi.Những cuộc Sli thường kết thúc bằng sự trao đổi vật kỷ niệm như vòng tay, nhẫn,khăn mặt, túi…Ngoài hát đối đáp người Nùng còn tổ chức các đội múa sư tử, mộthình thức sinh hoạt nghệ thuật lành mạnh và là môn thể thao vui khỏe được thanhniên ưu thích Hội múa sư tử còn là dịp các trai bản luyện tập võ thuật, để bảo vệquê hương đất nước khi có giặc giã, trộm cướp Ngoài ra còn có thơ cổ phong, cổlẩu, truyện cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn rất phong phú Cổ lẩu là những bài thơtrong đám cưới dùng để chúc tụng nhau Nghệ thuật âm nhạc của người Nùng kháphát triển nhưng nhạc cụ thì lại khá nghèo nàn, hầu như chỉ là các loại thuộc bộ gõđánh Múa cũng rất nghèo nàn, chủ yếu được dùng trong tôn giáo tín ngưỡng
Trang 22Trong các dịp lễ tết, hội lồng tồng, chợ xuân,…có các trò chơi gieo đúm, đánh cầulông, đánh quay, kéo co,…
Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội
"Lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàngnăm
Hát Sli - một làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng: Hát Sli (vả Sli) là một làn
điệu đặc trưng của dân tộc Nùng Có thể kể đến một số kiểu loại chính như: NgườiNùng Cháo có Sli Slình làng, nguời Nùng Giang có Sli Giang, người Nùng Phànslình có Sli bốc, sli Phàn slình… Thực chất Sli (vả Sli) là một hình thức hát thơ(kiểu như Phong Slư của dân tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất) Slicủa đồng bào Nùng được coi là một thể loại trữ tình dùng trong các ngày hội, ngàychợ, ngày cưới, ngày vào nhà mới… Trước đây, đã là người Nùng, hầu hết ai cũngbiết hát Sli, yêu thích Sli bởi ngoài việc ví, đối … lời hát Sli còn được coi như tiếnghát giao duyên Hát Sli thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi người với những lời Sli
ví von, bóng bẩy, tinh nghịch, xa xôi, ẩn chứa rất nhiều hàm ý… Đối với Sli giaoduyên, thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối đốiđáp Bao giờ cũng có người đứng ra Sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng) Người háttrước thường là người có giọng vang, trong và phải có khả năng ứng đối khéo léo,tài tình và nhanh nhậy Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải
có người nhanh chóng cất lời Sli để đáp lại Lời Sli đôi khi không chỉ bao hàm nộidung mượt mà, tế nhị của chuyện tình cảm ấm nồng, đằm thắm của bao đôi trai gái
mà còn có cả muôn mặt của đời sống như các hiện tượng tự nhiên, các mốc thờigian cùng sự kiện nhân vật và lịch sử… đôi khi có cả những lời chào mời sangtrọng, những lời thách đố kiêu ngạo, đáng yêu… Về hình thức thể loại, nhìn chungSli có những bài thơ có độ dài ngắn khác nhau Có bài Sli chỉ khoảng 4 đến 8 câu,lại có những bài Sli dài đến hàng trăm câu, câu thơ thường chỉ có từ 5 đến 7 chữ
Trang 23Vần của bài thơ được xác định bởi vần của chữ cuối cùng câu đầu tiên của bài thơ.Các chữ cuối cùng của các câu chẵn tiếp theo được gieo gối vần trên cơ sở hiệp vầnvới chữ cuối cùng câu đầu tiên Thông thường vần trong bài Sli đều là thanh bằng.Chẳng hạn bài Hội chợ- Sli Phàn Slình ở hội chợ Xuân Dương(Na Rì): Vằn nàybươn sham háng nhì hả Dỉ noọng quẩy sẩy mại cần mà Shíp nhì bươn pi vằn toọcĐếch kế Sli cốc tèo mà lầy… (Hôm nay ngày hội 25 tháng 3 Anh em ở gần xa về
dự Cả năm chỉ có một ngày như thế Trẻ già, trai gái tới cùng vui…) Có thể nói, Sli
là một làn điệu mang đậm dấu ấn bản sắc của đồng bào dân tộc Nùng Đến nay,người biết hát Sli không nhiều, nhất là Sli theo đúng nguyên bản ngày xưa Đâychính là nét văn hóa đặc sắc rất cần được bảo tồn và phát huy
Hát soong hao – Nét văn hoá đẹp của dân tộc Nùng: Tiếng Nùng, soong hao
có nghĩa là hai ta, đôi ta Hát soong hao là hình thức sinh hoạt dân ca trữ tình đốiđáp nam nữ của các thế hệ thanh niên dân tộc Nùng ở huyện Lục Ngạn và một phần
ở các huyện Sơn Động, Yên Thế, Lục Nam Hát soong hao được tiến hành chủ yếuvào mùa xuân, từ những phiên chợ đầu năm đến những phiên chợ cuối cùng củatháng ba âm lịch Hát soong hao ở Lục Ngạn đông vui nhất vào những ngày mùngtám tháng giêng, mời tám tháng hai âm lịch, trùng vào ngày hội Từ Hả và hội chợChũ Ngày rằm tháng tám âm lịch đi chợ Biển Động, trai gái dân tộc Nùng rủ nhau
đi từng đoàn Họ vào chợ chỉ mua bán qua loa rồi kéo nhau vào các nhà hàng ănuống và hát với nhau Nam ngồi một dãy, nữ ngồi một dãy, đối diện nhau mà hát.Trời ngả về chiều họ mới đứng dậy ra về, cuộc hát kéo dài theo con đường về bản
xa và nhiều đôi đã thành vợ thành chồng sau đó
Lệ buộc cót, nét văn hóa truyền thống của người Nùng: Mỗi một vùng một
dân tộc đều có nét văn hoá truyền thống riêng, người Nùng Bắc Kạn họ sống xenvới các dân tộc khác Họ có nét văn hoá riêng rất độc đáo, tạo ra truyền thống tốtđẹp Một trong những truyền thống là lệ buộc cót (tiếng Tày, Nùng gọi là lẹ lảm
Trang 24dảo), là một phần nghi thức trong lễ Kỳ Yên của người Tày, Nùng Trong lễ Kỳ
Yên có nghi thức “Pủ lường pủ váng” có nghĩa là (đắp bồ đắp cót) Cót ở đây tượng trưng cho cót gạo nuôi dưỡng người già, cũng là “cót hộ mệnh” được con cháu bồi đắp tiếp, cầu cho người già được sống lâu, khoẻ mạnh “thực túc sức
cường” Ở lệ buộc cót gồm có: Một cái cót hình trụ tròn, rỗng trên dưới, để ở giữa
đựng gạo, một cái cân tiểu ly mang ý nghĩa trường thọ, sống lâu, một ngọn chuốinon, một ngọn dâu tằm non tượng trưng cho sự trẻ trung, tươi tắn Một cây đèn,một cây chuối non, một đoạn tre non cả rễ Tất cả đều thể hiện cho số mệnh sốnglâu, trường tồn Những ý nghĩa đó đã thể hiện rất rõ ở lời lẽ của Bụt(then) Trong lễbuộc cót khi Bụt khởi lễ đắp cót hộ mệnh thì các con cháu, họ hàng những ngườitrong gia đình sẽ xúc gạo ở cái thúng cạnh đó cho đầy ắp Có một người là namgiới khoẻ mạnh, đạo đức tốt phải lên tầng gác buộc cót Người này sẽ lấy cái cóttượng trưng ở dậu gạo và ngọn dâu, ngọn chuối non để ở trong cót đặt lên xà nhà.Sau lễ buộc cót, con cháu của người được làm lễ sẽ đem cây chuối non và đoạn trenon có cả rễ ra vườn trồngcho cây sinh sôi phát triển Lễ buộc cót đã thể hiện sựkính trọng, lòng yêu thương và sự quan tâm của con cháu đối với ông bà, cha mẹ.Đây là hình thức mừng thọ của người dân tộc Nùng “lễ buộc cót” đã mang đậm đàbản sắc dân tộc, đã thể hiện truyền thống tốt đẹp của người dân tộc nùng
Hát Cỏ Lẩu – nét văn hoá đặc sắc của người Nùng: Đây là một loại hình thơ
ca dân gian khá phổ biến của người Nùng Phàn Slình, Nùng Cháo, Nùng Giang Đó
là những câu hát được dùng trong đám cưới của người Nùng Những bài hát nàyđược sử dụng tương tự như hát quan làng (thơ lẩu) của người Tày Nội dung chủyếu là kể chuyện đám cưới Kể về một trình diễn trong đám cưới của người Nùngbắt đầu từ các bước ăn hỏi, xin số mệnh để so tuổi, báo mệnh hợp, lễ sêu tết chođến lễ báo cưới, lễ cưới Cũng như bao dân tộc khác, ngày cưới là ngày trọng đại,vui nhất trong đời mỗi người, cái vui ấy chan hoà trong mọi người ở mọi lứa tuổi
Trang 25Vì vậy, nên phải có những lời ca, tiếng hát phải có Cỏ lẩu Dẫu đám cưới là nơi ồn
ào, náo nhiệt đông vui nhưng nếu lời ca của Cỏ lẩu cất lên thì tất cả đều chú ý lắngnghe Về cơ bản, Cỏ lẩu có hai hình thức diễn xướng giữa hai họ nhà trai và nhàgái, hai là diễn xướng đối đáp giữa bạn bè cô dâu và chú rể Cũng như đám cướingười Tày, kể từ khi họ nhà trai đến cổng nhà cô dâu, muốn bày tỏ điều gì đều phảithông qua Cỏ lẩu Từ việc xin vào cổng, xin lên cầu thang, xin vào nhà, xin chỗngồi, xin cho chú rể vái lậy tổ tiên, ông bà, xin cho chú rể đi mời trầu thuốc…chođến xin cho chú rể vào buồng đón cô dâu, xin cho chú rể được cùng cô dâu trở vềnhà trai…đó là Cỏ lẩu gắn liền với nghi lễ Bên cạnh đó, Cỏ lẩu cũng giúp bạn bè
cô dâu chú rể tìm bạn và kết duyên Nhìn chung, những bài Cỏ lẩu hết sức chânthực, cụ thể và sinh động về hệ thống phong tục và nghi lễ trong đám cưới Trong
đó nhiều nhất ở gia đình đưa đón dâu Ngoài ra, Cỏ lẩu còn được coi là hệ thốngbài ca có tính giáo huấn cao Nó dạy cho con người sống tốt hơn, hướng thiện hơn,dạy cho con dâu, con rể biết thêm nhiều điều ứng xử trong cuộc sống mới
2.7 Hôn nhân và gia đình của người Nùng
2.7.1 Tục Kết Tồng của người Nùng
Người Nùng còn có tục “Kết Tồng” Tục Kết Tồng không chỉ có ở người Nùng
mà còn có ở người Tày, người Mông…nhưng ở người Nùng, người Tày thì phongtục giống nhau hoàn toàn Đây là một phong tục đẹp giàu tính nhân ái, giúp đỡnhau, coi trọng nhau trên cơ sở một kiểu quan hệ họ hàng mới, đôi khi còn gắn bóthắm thiết hơn cả họ hàng Tính nhân văn trong quan hệ kết bạn này cũng có ởngười Kinh và nhiều dân tộc khác nhưng không đâu đậm nét như ở người Nùng,người Tày “Tồng” tiếng Nùng, Tày có nghĩa là hợp nhau, giống nhau Hai ngườibạn giống nhau ở nhiều điểm, tâm đầu, ý hợp, có thể sống chết cùng nhau thì kếtTồng Kết Tồng đối với cả trai và gái từ 18 tuổi trở lên Trai kết Tồng trai, gái kếtTồng gái Tục kết Tồng cho phép thanh niên tìm bạn trên những cơ sở sau Bạn
Trang 26Tồng cùng tuổi, cùng năm sinh; Bạn Tồng cùng cảnh ngộ; Bạn Tồng có sự trùngtên; Bạn Tồng cùng nghề nghiệp; Bạn Tồng cùng sở thích Thường thì hai ngườibạn đi lại tìm hiểu nhau kĩ lưỡng, thấy có những điểm giống như tục lệ cho phép,
họ tâm sự cùng nhau đến nhà nhau để biết rõ cha mẹ, anh em họ hàng nội ngoại củanhau Một thời gian hai người đã hợp nhau đã hiểu biết hết về bố mẹ, con cái củanhau họ sẽ chuẩn bị làm lễ kết Tồng Mỗi người chỉ kết Tồng tối đa với hai người,song thường chỉ có một và sẽ là bạn Tồng suốt đời Người ta có thể có nhiều bạn,
có thể thân nhưng không phải là bạn Tồng Hai bạn kết Tồng sẽ qua buổi lễ chínhthức ở nhà mình và ở nhà bạn Buổi lễ thường có mặt cha mẹ, ông bà, chú bác, họhàng tham dự và chứng kiến, họ cùng làm một bữa cỗ thịnh soạn để những ngườichứng kiến cùng ăn Như vậy, đôi bạn Tồng đã coi nhau là ruột thịt, họ hàng cha
mẹ, ông bà…của những người này cũng như họ hàng cha mẹ, ông bà của ngườikia, vợ hoặc chồng của hai bên được quý trọng hết mức Những đứa con tuỳ theotuổi mà gọi nhau theo lễ anh em, coi nhau như một nhà Kể từ lễ kết nghĩa, họ qualại nhà nhau, giúp nhau tất cả những công việc nhà cửa, giỗ Tết, cưới hỏi…tiền củagạo nước, vui buồn họ san sẻ cùng nhau Cưới xin họ cùng lo toan, tang ma họcùng để trở Cả việc vui, việc buồn trong quan hệ họ hàng, họ cùng chia sẻ, gánhvác Nghĩa tình của bạn Tồng này còn được duy trì đến đời con, cháu, chắt
2.7.2 Lễ ướm hỏi (Lễ dặm)
Tông lễ ướm hỏi của người Nùng Sín, nhà trai tìm một bà mối đứng tuổi đếnnhà gái tham hỏi và tìm hiểu mọi mặt về cô gái, đồng thời giới thiệu chàng trai vàgia đình anh ta Còn người Nùng An thì tìm một bà cô trong họ thay mặt nhà traimang lễ vật gồm hai mươi lá trầu, một cây võ, một cân đường đựng trong một cái
dỏ tre, tới nhà gái chạm ngõ Lễ này chỉ tiến hành vào những này chẵn (theo lịchâm) và kiêng những ngày không hay (Hươu giác, cú kêu…) Nếu được ưng thuận,
Từ khóa » Khái Niệm Văn Hóa Tộc Người Là Gì
-
Văn Hóa Tộc Người Và Các đặc Trưng Cơ Bản Của Tộc Người?
-
Nhân Học Tộc Người - Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam
-
[PDF] TIẾP CẬN VĂN HOÁ CÁC TỘC NGƯỜI VIỆT NAM BẰNG CON ...
-
TỘC NGƯỜI VÀ VĂN HÓA TỘC NGƯỜI - Đặng Thị Vân Chi
-
Khái Niệm Tộc Người Là Gì
-
Tộc Người Là Gì? - Binhminh25102016
-
Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Là Gì? Khái Niệm, Biểu Hiện Và ý Nghĩa?
-
Văn Hóa Việt Nam – Wikipedia Tiếng Việt
-
Văn Hóa – Wikipedia Tiếng Việt
-
Vấn đề Quan Hệ Dân Tộc Và Phát Triển ở Nước Ta Hiện Nay
-
PGS,TS Lê Quy Đức "đa Dạng Văn Hóa Tộc Người Và Bản Sắc Văn ...
-
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Văn Hóa Con Người
-
Dân Tộc Thiểu Số Hay Tộc Người? - Báo Đồng Nai điện Tử
-
Bàn Thêm Về Khái Niệm, Thuật Ngữ Dân Tộc Và Tộc Người ở Việt Nam