Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh Và Tăng Cường Sức ...

Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh Chữa Bệnh và Tăng Cường Sức Khỏe (video hướng dẫn tham khảo cuối bài)

Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh – Đã lưu truyền và được kiểm chứng trên ngàn năm chứng tỏ tác dụng tuyệt vời của bài tập này trong việc Nâng cao Sức khỏe và Tinh thần, Một phần lý do vượt thời gian của bài tập này là người tập nó có thể chữa khỏi được nhiều loại bệnh tật khác nhau, nâng cao sức khỏe.

  • Tập Dịch cân kinh hỗ trợ điều trị viêm quanh khớp vai
  • Dịch Cân Kinh 12 Thức- Bí quyết luyện tập nội công Phật môn

Mục lục Chi tiết:

  • Bài giới thiệu 01
    • Giới thiệu
    • Các bước tập
  • Bài giới thiệu 02
    • Công dụng, cách tập (ngắn gọn)
  • Bài giới thiệu 03 (chi tiết, cụ thể)
    • Nguồn gốc
    • Tại sao lại kỳ diệu đến vậy?
    • Phương pháp luyện tập
    • Phản ứng sau khi tập
    • Một số điểm cần lưu ý
  • Các Video Về Cách Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh
    • video 1  |  video 2  |  video 3  |
  • Video về Dịch Cân Kinh 12 Thức Thiếu Lâm Đạt Ma Sư Tổ
    • video 1  | video 2  | video 3 |

Bài giới thiệu 01

Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh – Đã lưu truyền và được kiểm chứng trên ngàn năm chứng tỏ tác dụng tuyệt vời của bài tập này trong việc Nâng cao Sức khỏe và Tinh thần, Một phần lý do vượt thời gian của bài tập này là người tập nó có thể chữa khỏi được nhiều loại bệnh tật khác nhau, nâng cao sức khỏe.

Dịch cân kinh (chữ Hán nghĩa là cuốn kinh chỉ phép co duỗi gân), là tên gọi ngắn gọn của Dịch cân tẩy tủy kinh hay có nơi gọi là Đạt Ma dịch cân kinh, là một cuốn sách võ thuật dạy cách thổ nạp chân khí, nhằm cường thân kiện thể, trường sinh.

Dịch Cân KinhTẩy Tủy Kinh là 2 phần phân biệt lần lượt là Tiền bộHậu bộ của bộ kinh.

Mặc dù không phải ai tập cũng có thể chữa khỏi bệnh, tuy nhiên nhiều người tập vẩy tay Dịch Cân Kinh đã cải thiện nâng cao được sức khỏe hoặc chữa khỏi bệnh, trong đó có cả bệnh mãn tính, nan y, ung thư .v.v. Ngoài ra nếu người bình thường, không thích đi bộ hay tập các bộ môn thể thao, dưỡng sinh, khí công khác, thì có thể lựa chọn tập luyện vẩy tay dịch cân kinh ngay tại nhà, rất tiện lợi để nâng cao sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật, chính là uống thuốc bổ không mất tiền.

Các bước tập cụ thể như sau

Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.

Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.

Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi căng thẳng.

Hai mắt chọn một điểm đàng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, lỗ đít thót và nhẩm đếm.Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lấy gân, hậu môn co lên không lòi.

Vẫy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước chừng 30 phút.

Phải có quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng lên không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy khó có kết quả.

Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực tàm tổn thương các ngón chân (nên sau buổi tập vân vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bênh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn.

Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ dưới nặng” là sai và hỏng.

Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng… đấy là hiện tượng bình thường đừng ngại.

Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ “thiên khinh địa trọng”.

Bài tham khảo 02 | Mục lục chi tiết |

Vì sao tập Dịch Cân Kinh chữa được bệnh nan y?

Lương y, Võ sư Nguyễn Tấn Xuân

Dòng sông có thủy triều lên xuống thì nước trong xanh; ngược lại, dòng sông mà nước không lưu thông thì sẽ đục ngầu, bẩn thỉu. Ở giếng nước cũng vậy, mỗi ngày có nhiều người đến lấy nước thì nước giếng trong veo, mát lành, nhưng cũng giếng nước ấy không sử dụng một thời gian dài thì nước sẽ đổi màu tối sậm, mặt giếng đầy chất bẩn.

Cơ thể con người cũng vậy, nếu không vận động dưỡng sinh mỗi ngày để khí huyết lưu thông điều hòa thì bệnh tật sẽ xuất hiện. Tập “Vẫy tay” trong Đạt Ma Dịch Cân Kinh sẽ làm cho khí huyết lưu thông tốt, vận hành khắp cơ thể để nuôi dưỡng lục phủ ngũ tạng, tống trọc khí ra ngoài thì âm dương được quân bình sẽ hết đau.

Vẫy tay trong Đạt Ma Dịch Cân Kinh được tập theo trình tự:

1/ Chọn nơi yên tĩnh, thoáng mát, đầu óc phải tập trung vào việc tập luyện và tin tưởng tuyệt đối sẽ có kết quả tốt cho sức khỏe. Ngậm kín miệng, lưỡi cong lên đụng nướu răng hàm trên, hai mắt nhìn thẳng vào một điểm phía trước mặt, hơi thở tự nhiên, thầm đếm nhẩm từng lần vẩy tay.

2/ Đứng thẳng người, hai bàn chân dang rộng song song bằng chiều ngang hai vai, từ từ đưa hai tay ra phía trước hợp với thân mình một góc 30 độ, hai bàn tay song song với mặt nền, các ngón tay khép kín. Vẫy mạnh hai tay ra sau hợp với thân mình một góc 60 độ, hai bàn tay vểnh lên trên và phải làm hết sức mình đồng thời nhíu hậu môn lại và thót lên được tính là một lần vẫy tay.

3/ Mười đầu ngón chân bấm chắc mặt nền, hai chân lên gân để thân hình dưới nặng, trên nhẹ.

4/ Mỗi ngày nên tập hai lần, tập lúc bụng trống (không no) và mới đầu chỉ nên tập mỗi lần vài trăm cái vẫy tay rồi từ từ tăng dần. Đến lúc vẫy tay trong 30 phút mà được 1.800 – 2.000 cái là thành công. Sau khi tập thấy khát nước thì cứ uống, lúc tập thấy mệt quá thì nghỉ ngay.

5/ Sẽ có những phản ứng của cơ thể như ngứa ngáy, ho, đầu khớp xương kêu lụp cụp, cảm giác máu chảy dồn dập… đó là dấu hiệu tốt, không phải lo lắng.

6/ Trong 30 phút tập được 1.800 – 2.000 cái, bệnh sẽ được tiêu trừ, cảm thấy rất yêu đời, hạnh phúc, da dẻ hồng hào, ngủ ngon, ăn khỏe, đầu óc minh mẫn, tinh thần sảng khoái.

7/ Tập “Vẫy tay” trong Đạt Ma Dịch Cân Kinh chữa được các bệnh: Suy nhược thần kinh, thấp khớp, huyết áp, tim mạch, hen suyễn, dạ dày, đường ruột… và các bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, viêm gan với điều kiện phải tuyệt đối tin tưởng và kiên trì tập luyện thường xuyên mới đạt được kết quả mong muốn.

vay tay dich can kinh 1

Bài giới thiệu 03 | Mục lục chi tiết |

Đạt ma dịch cân kinh – chữa bách bệnh, Có thể chữa cả bệnh ung thư

Nguồn Gốc Của Đạt Ma Dịch Cân Kinh Và Hiệu Quả Thần Kì Của Nó

Năm Đinh Sửu (theo công lịch là năm 917) nhà sư Đạt MA từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp, truyền giáo rồi ở lại Trung Sơn, Hà Nam (của Trung Hoa) xây dựng Thiếu Lâm Tự (Chùa Thiếu Lâm). Việc truyền tụng một tín ngưỡng mới, khác với niềm tin cũ của người bản xứ, thường dễ sảy ra mâu thuẫn, xung đột nên các đệ tử của Ông vừa lo tu dưỡng, học Phật pháp, vừa phải ra công luyện tập võ nghệ để tự vệ. Từ đó môn võ Thiếu Lâm ra đời và tồn tại mãi đến ngày nay.

Nhiều người xin nhập môn nhưng thể chất kém không thể luyện võ được. Sư Tổ Đạt Ma bèn dạy cho một cách tập luyện để nâng cao thể lực gọi là Dịch Cân Kinh.

“Dịch – thay đổi, Cân – gân cốt, Kinh – sách quí”

Cách tập này rất đơn giản, chỉ cần kiên trì tập vẩy tay đứng phương pháp là sẽ đạt hiệu quả rất lớn: ăn ngon, ngủ tốt, sức khỏe tăng và đặc biệt là trừ được bệnh tật như: suy nhược thần kinh, cao huyết áp, hen xuyễn, các bệnh tim mạch, các bệnh dạ dày, đường ruột, thận, gan, ống mật, trĩ nội … rồi bán thân bất toại, trúng gió méo mồn lệch mắt, … đều biến hết

Nhất là các loại bệnh mãn tính của người cao tuổi, kể cả các loại ung thư đều có thể phòng và trị được. Với các bệnh về mắt, luyện Dịch Cân Kinh có thể chữa khỏi các chứng đau mắt thông thường, đau mắt đỏ và cả đục thủy tinh thể

Tại sao mà kì diệu đến vậy ?

Theo y lý cổ truyền Phương Đông, mọi bệnh tật đều do mất cân bằng “âm – dương” và trì trệ khí huyết mà ra. Khí huyết của ta vừa các Vệ Sĩ tiêu trừ các yếu tố đọc hại từ ngoài xâm nhập, vừa là Nhà Quản Lý sắp sếp lại nhưng chỗ mất cân bằng.

Y học Phương Đông rất coi trọng vai trò của ý chí, của chủ quan, của nội lực, của chữ “TÂM”. Lo lắng, Bực bội, Không tin tưởng, Độc ác, … đều tác dụng xấu tới sức khỏe. Thanh thản, Hướng thiện, Nhân đức, … vừa mang lại sảng khoái, thăng bằng, mạnh khỏe, vừa dễ cả phòng bệnh lẫn chữa bệnh. Thuốc thang Đông y chỉ kích thích, bổ trợ cho nội lực của chúng ta chống lại bệnh tật. Trái lại, ỷ vào hóa dược của “y học hiện đại” (như dựa vào quân đội ngoại quốc làm lính đánh thuê) thường có tác dụng phụ không mong muốn, nguy hại cho sức khỏe và tuổi thọ !

Tình trạng sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với “khí huyết” của họ. Về “huyết” thì rất rõ ràng và dễ hiểu vì ta nhìn thấy được.

Nhưng trong Đông y: cái gọi là “huyết” thì chúng ta không thể tách rời và hạn chế từng mặt. Nếu như máu loãng hay đặc, hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào… để mà nghiên cứu. Họ dùng cách nhìn toàn diện của quá trình sinh lý và quá rình tuần hoàn của huyết mà xem xét.

Lý luận Đông y có triết lý vững vàng. Nó mang tính chất khái quát rất cao, khi nó nêu vấn đề “khí huyết” thì tất nhiên không cô lập, như lấy một giọt máu không sức sống hoặc một bầu máu tách rời cơ thể, mà là cần phân tích đến trạng thái vận động, quá trình sinh lý và các mối quan hệ khác.

Vì “khí” cũng vậy, hào khí (là khí của người hào hiệp) không hề lay động khi đã quyết định, người xem tướng giỏi là người ranh xem khí. Sắc là do thiên vị “khí” (prana) có trong khí trời, vị không rải ra khắp cơ thể được nên mới sinh bệnh.

Cho nên các “khí” của Đông y không bác bỏ cái khí trong không khí mà nó mang lại một nội dung có tính khái quát rộng lớn hơn.

Ta thở không khí vào phổi, ăn vào bụng, ruột hấp thu chất dinh dưỡng, các chất ấy và không khí được đưa đến các tế bào của toàn thân, để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt năng, đồng thời cũng đưa những khí thải và thức ăn từ các tế bào trên cơ thể, thu hồi về để bài tiết ra ngoài.

Tuần hoàn tốt, phát huy tác dụng tốt của máy, thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sinh hoạt sức khỏe của con người đương nhiên đảm bảo.

Cho nên trong lý thuyết “khí huyết” không thể đơn độc chỉ có “huyết mà không có “khí” và ngược lại chỉ có “khí” mà không có “huyết”.

Trong Đông y cho rằng máu thuần chủ yếu trong cơ thể con người là “Âm-Dương” mà cũng là “khí huyết” (Âm là khí và Dương là máu).

Luyện “Dịch Cân Kinh” làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên nó có tác dụng chữa bệnh tốt.

Áp dụng “Dịch Cân Kinh” để chữa ung thư. Người xưa dùng “Dương tâm đan” kết hợp với luyện “Dịch Cân Kinh” để chữa khỏi hẳn bệnh ung thư. Tác dụng của thuốc là rút ngắn thời gian điều trị, chứ nó không có tác dụng chữa bệnh, nói như người xưa là “Mạch máu chia đi”. Trong một đơn vị quân đội chẳng hạn, cùng sinh hoạt như nhau, sau một bữa ăn lạ, có người đau bụng đi kiết, đi tả, nhưng cũng có người chẳng bị làm sao. Đây là “Mạch máu chia đi” nên nó giúp cơ thể thải độc tốt. Vậy luyện tập “Dịch Cân Kinh” là chính. Nay ta phân tích bệnh ung thư là gì? Người xưa quan niệm ung nhọt chia ra hai loại: “Âm thư và Dương thư” và có câu: “Dương thư dễ lành, Âm thư khó trị”

Dương thư thì ai cũng biết là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi vỡ, có máu mủ, và ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư là cái nhọt mọc bên trong cơ thể, không có đầu, không vỡ, chỉ to dần rồi lan tràn, có khi rắn như đá gọi là thạch thư. Nguyên nhân đều do kết tụ của khí huyết làm trở tắc kinh lạc mà các phế vật cần thải, không thải được. Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch gan, các chất làm khô… do không đủ nhiệt năng, nên công năng của máy giảm sút không thể thải được các chất không cần thiết cho cơ thể ra ngoài.

Luyện “Dịch Cân Kinh” tay vẫy đúng pháp, miệng dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ. Các sự chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ, nên mới khỏi bệnh.

Vẫy tay theo “Dịch Cân Kinh” cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột và dạ dày tiếp được thêm khí nên cũng gây nên tác dụng hưng phấn, và khi chức năng của máu tăng lên thì giúp cho việc “tống cựu nghinh tân” được tốt, “khí huyết” thăng bằng, là đã khỏi bệnh.

Theo số liệu thống kê: Cụ Quốc Chu 70 tuổi, phát hiện u ác ở não và ở phổi, được phổ biến “Dịch Cân Kinh” và luyện ngày một buổi, mỗi tối 2.160 lần. Sau 5 tháng thì hết và khỏi bệnh. Ông Trương Công Phát, 46 tuổi, phát hiện ung thư máu, tập ngày 3 buổi, mỗi buổi vẫy tay 1.800 lần (có dùng thuốc Dương tâm đan…), sau 3 tháng đã đi làm. Đã ba năm vẫn khỏe mạnh. Cụ Từ Mạc Đính, 80 tuổi, bị ung thư phổi kiêm bán thân bất toại, tập 5 tháng khỏi bán thân bất toại, kiểm tra lại thì khối ung thư phổi cũng biến luôn.

Nguyên nhân bệnh ung thư hiện nay trên thế giới còn đang bàn cãi, chưa có thuốc đặc hiệu chữa ung thư.

Nhưng về nguyên nhân ung thư thì thuyết “khí huyết” của Đông y đã lập luận rõ ràng. Vì quá trình sinh lý của con người là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh phức tạp. Giữa cái sống và cái chết, giữa ốm đau và mạnh khỏe, giữa già sớm và trẻ dài. Nhưng kết quả của cuộc đấu tranh là do nhân tố nói tại quyết định, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài.

Nên xem cơ thể con người là một chính thể vận động. Trong vận động này có lục phủ, ngũ tạng đều dựa vào nhau (tức là tương sinh), ức chế lẫn nhau (tức là tương khắc), nhưng “khí huyết” có tác dụng đến tất cả lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do “khí huyết” không chu đáo mà sinh ra. Đông y đã xác định rằng cuộc đấu tranh của cơ thể với bệnh ung thư là cuộc đấu tranh trong nội bộ cơ thể con người, từ đó mà xây dựng quan điểm cho rằng bệnh ung thư là thứ bệnh chữa được.

Đương nhiên bệnh tật do sự trì trệ “khí huyết” mà ra, nó lại làm hao tổn thêm “khí huyết”. Việc tập luyện làm cho khí huyết thay đổi để tự chữa bệnh là thế.

Từ đó mà xây dựng được lòng tin vững chắc của người bệnh, đối với việc tự chữa bệnh ung thư, để tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập “Đạt Ma Dịch Cân Kinh”. Bởi phương pháp này thay đổi và tăng cường “khí huyết”, vì thế nó trị được “trĩ nội”, “trĩ ngoại”. Ông Hồ Thức Nguyên bị trĩ nội và đau đầy bụng, chỉ tập một tháng là khỏi. Trước đây mỗi lần ông ngồi xổm là đom bị lòi ra. Chỉ sau một tháng luyện tập là đom hết lòi, mà bệnh đau bụng cũng mất.

Tập “Dịch Cân Kinh” thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung. Và chữa khá nhiều bệnh như:

Suy nhược thần kinh. Huyết áp cao. Bệnh tim các loại. Bệnh thân. Bán thân bất toại. Trúng gió, méo mồm, lệch mắt. Hen suyễn.

Thậm chí dứt bệnh ác hiểm là bệnh ung thư cũng khỏi

Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do “khí huyết” (Âm-Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” giải quyết được vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả.

Tâp trung đầy đủ ý chí và tinh thần để kiên trì tập luyện theo ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH là làm cho khí kuyết lưu thông đều khắp cơ thể, vào cả lục phủ ngũ tạng, các hệ mạch lạc thần kinh … nên có tác dụng kỳ diệu vậy đó !

PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP

Trước tiên nói về tinh thần:

Phải có hào khí: nghĩa là có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, kiên nhẫn, vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra tán vào mà bỏ dở.

Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.

TƯ THẾ :

“Trên không, dưới có, lên ba, xuống bảy”

Trên phải không, dưới nên có. Đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón tay xòe như quạt. Khi vẫy, lỗ đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, ngón chân bấm chặt đất như trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu lĩnh khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh’.

Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý tập chung vào tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái trèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.

Khi vẩy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẩy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.

“Trên ba, dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ 3 phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả mới tốt.

Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.

Các Bước và Động Tác Tập Cụ Thể:

1. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.

2. Hai tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.

3. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu và miệng trạng thái bình thường.

4. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi căng thẳng.

5. Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám, đùi vế chắc, lỗ đít thót và nhẩm đếm.

6. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước theo quán tính, tuyện đối không dùng sức, chân vẫn lấy ân, hậu môn co lên không lòi.

7. Vẩy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên đến 1000 cái vẩy tay, ước chừng 30 phút.

8. Phải có quyết tâm tập đều đặn, lần vẩy tay tăng dần lên, không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ tập, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy khó có kết quả.

vay tay dich can kinh 2

vay tay dich can kinh 3

vay tay dich can kinh 1

Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng hết sức làm tổn thương các ngón chân. Sau buổi luyện tập nên vê vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần.

Nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn.

Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn. Nếu tinh thần không tập chung, tư tưởng phân tán, khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ, dưới nặng” là sai và hỏng.

Khi vẩy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện ” đánh rắm”, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng … đấy là hiện tượng bình thường, có phản ứng là tốt, là đã có hiệu quả, đừng ngại.

Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ “thiên khinh địa trọng”.

Bệnh gan:

Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện là có kết quả.

Bệnh mắt:

Luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó có thể chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).

Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được”, khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là bộ phận của cơ thể.

Những Phản Ứng Sau Khi Tập

Khi tập “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” có thể có những phản ứng, đều là hiện tượng thải bệnh, không đáng ngại. Xin liệt kê ra đây Những phản ứng thông thường (có thể có những phản ứng khác nữa không liệt kê hết được).

1. Đau, Buốt 2. Tê Dại 3. Lạnh. 4. Nóng. 5. Ngứa 6. Đầy hơi  7. Sưng 8. Ra mồ hôi. 9. Đau lưng 10. Đầu nặng. 11. Nấc. 12. Nôn mửa, ho. 13. Lông, tóc dựng đứng. 14. Giật gân, giật thịt. 15. Âm nang (bìu dái) to lên. 16. Máy mắt, mí mắt giật. 17. Hơi thở ra nhiều, thở dốc. 18. Chảy máu cam 19. Huyết áp biến đổi. 20. Sắc mặt biến đổi. 21. Chảy máu cam. 22. Đau mỏi toàn thân. 23. Ứa nước miếng. 24. Tiểu tiện nhiều. 25. Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen. 26. Có cảm giác như kiến bò, hoặc kiến cắn. 27. Đau xương, có tiếng kêu lục cục. 28. Có cảm giác máu chảy dồn dập. 29. Ngón chân nhức nhối như mưng mủ. 30. Cụm trắng ở lưỡi biến đổi. 31. Da cứng và da dầy (chai chân, mụn cóc) dụng đi. 32. Trên đỉnh đầu mọc mụn. 33. Bênh từ trong da thịt tiết ra. 34. Ngứa từng chỗ hay toàn thân.

Các phản ứng trên là do trọc khí trong người bị bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ứ đọng, tức tử bệnh tật.

Có phản ứng sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, ta vẫn tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.

Luyện Tập Đạt BỐN TIÊU CHUẨN Như sau:

Nội trung tố: tức là nâng can khi lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.

Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh”.Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dắn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.

Ngũ tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây họat động mạnh hơn mức bình thường:

* Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu. * Lão cung: hai huyệt của hai gan bàn tay. * Dũng tuyền: hai huyệt của hai gan bàn chân.

Khi luyện “Vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh” 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tời hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.

Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu. Minh nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương cân bằng, cơ thể thịnh vượng.

MỘT SỐ ĐIỂM CẨN CHÚ Ý

Số lần vẩy tay không nên ít: từ 600 lần đến 1.800 lần (30 phút mới là toại nguyện cho đợt điều trị).

Bệnh nhân nặng, có thể ngồi mà vẫy tay, tuy ngồi nhưng vẫn phải nhớ thót đít và bấm 10 ngón chân

Số buổi tập:

* Buổi sáng thanh tâm -> tập mạnh. * Buổi chiều trước khi ăn -> tập vừa. * Buổi tối trước khi ngủ -> tập nhẹ.

Có thể tập nhiều nhất là bao nhiêu ? Ngưỡng cửa của sự chuyển biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy 3.000 tới 6.000. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số ta tập là thích hợp.

Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh. Bình thường vẫy 1.800 cái hết 30 phút. Vẫy tay tới lúc nửa trừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đây là lục động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng.

Vẫy tay nhanh quá làm cho nhịp tim đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông

Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ? Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao khác biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc biệt của nó là dùng ý mà không dùng sức. Nhưng nếu vẫy nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực cũng không được chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi.

Vẫy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính vẫn là chuyển động bắp vai.

Bệnh phong thấp thì nên dùng mức “nặng” một chút. Bệnh huyết áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ.

Tóm Lại:

Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh (nặng) là bả (loại bỏ các chất cặn bã có hại trong người, tức là bệnh tật). Lý luận này cũng đang được nghiên cứu.

Mức độ vẫy tay: Chỉ vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, không vẫy về phía trước, mà do phản xạ của cánh tay cho là 3 phần.

Có cần đếm không? Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có tác dụng làm cho óc được bình tĩnh, tim được trầm tĩnh, có tác dụng làm cho bộ não được thăng bằng và nghỉ ngơi (và không được nghỉ ngơi lung tung). Chính khí được bồi dưỡng.

Hoàn cảnh vẫy tay: Không có gì là đặc biệt về hoàn cảnh, tập ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời dĩ nhiên nơi nào có dưỡng khí trong sạch và yên tĩnh vẫn tốt hơn.

Trước và sau khi tập: Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái được yên tĩnh, để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn “khí công”, đến khi tập cũng nên bình tĩnh mà vò 10 đầu ngón chân, 10 đầu ngón tay. Những người không đủ bình tĩnh, cần chú ý tới điều này.

Tập “Dịch Cân Kinh” thế nào cho đúng? Sau khi tập cảm thấy ngực và bụng nhẹ nhàng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước miếng ứa ra, đại tiện nhuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đấy là tập đúng. Rất ít khi tập sai, tỉ lệ không tới 1%.

Sau khi tập đại đa số đều thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau, nguyên nhân chính là tư thế khi tập có thích hợp với thể chất người tập hay không.

Lúc bắt đầu tập nên chú ý đến điểm nào?

Nửa thân trên buông lỏng thượng – hư. Nửa thân dưới giữ chắc – hạ thực. Tay ra phía trước không dùng lực (nhẹ). Vẫy tay ra phía sau có dùng sức (nặng).

Tập đếm số tay vẫy ngày một tăng, ngày 3 buổi tập, kiên quyết “tự chữa bệnh cho mình”.

Trạng thái tinh thần lúc tập: có liên quan gì đến hiệu quả không? * Hết lòng tin tưởng. * Kiên quyết tới cùng. * Tập đủ số nhất định, tập thường xuyên. Có thể hiệu quả rất lớn.

Nếu khi tập, khi nghỉ không đủ số nhất định. Lòng còn nghi hoặc. Còn bị động dư luận ngoài. Thấy phản ứng đã lo sợ, bỏ tập. Hỏi làm gì có kết quả tốt.

Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc, những trường hợp ấy cũng hạn hữu, như trên đã nói, không tới một phần trăm.

Khi tập có phải kiêng gió, kiêng lạnh không? Tránh gió lùa, mùa hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió.

Khi tập luôn luôn bấm mấy ngón chân, thót lỗ đít, để giữ tư thế “thượng hư – hạ thực”.

Vẫy tay từ ít tới nhiều phải đạt tới 1.800 cái trở lên mới có hiệu quả.

Có phản ứng đừng ngại mà ngừng tập, vì đó là diễn biến tốt, cứ tập số đếm như cũ, qua phản ứng, sẽ tăng số lần vẫy tay lên.

Kiên trì, quyết tâm luyện tập, tin tưởng “các bệnh tật sẽ khỏi”.

Vững lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc sống. Chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể dời núi (nghĩa bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến chốn, thì bệnh nguy nan như trái núi cũng phải dời khỏi người).

Có quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậm là ngần ngại càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh.

Tổng hợp

Thẻ: cách vẩy taycach vay tay dich can kinhdịch cân kinhđạt ma dịch cân kinhvay tay chua benhvẩy tay dịch cân kinh

Từ khóa » Công Dụng Của Vẫy Tay Dịch Cân Kinh