Về Vướng Mắc Liên Quan đến Việc Phân Loại Tội Phạm đối Với Pháp ...
Có thể bạn quan tâm
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015. Qua nghiên cứu nội dung này, tôi thấy còn những khó khăn, vướng mắc cần được hướng dẫn cụ thể.
Tại Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về phân loại tội phạm về cơ bản vẫn được giữ nguyên theo Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, cụ thể là: “Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Quy định như trên khi áp dụng để phân loại các tội phạm cụ thể đối với pháp nhân thương mại phạm tội, có thể dấn tới hai cách hiểu khác nhau như sau:
* Cách hiểu thứ nhất: Do không có một điều luật nào quy định việc phân loại tội phạm áp dụng riêng đối với pháp nhân thương mại. Do vậy, Điều 9 của Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ được áp dụng chung cho tát cả các trường hợp bất kể chủ thể của tội phạm là cá nhân hay pháp nhân. Hình phạt áp dụng với pháp nhân thương mại chủ yếu là phạt tiền và cũng chỉ có hình phạt tiền được quy định là một trong những căn cứ để phân loại tội phạm đối với loại chủ thể này. Cho nên, tội phạm mà các pháp nhân thương mại thực hiện sẽ luôn thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 nêu trên.
Nếu hiểu theo cách này, sẽ thấy bất hợp lý trong quy định về phân loại tội phạm; khi rõ ràng tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả đối với xã hội của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện quy định tại từng điểm là khác nhau, có trường hợp gây thiệt hại chỉ về tài sản, có trường hợp gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng của một người hoặc nhiều người, có trường hợp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội … nhưng lại bị xếp vào cùng một loại tội phạm, bất kể là số tiền nhiều hay ít, hay có sự phân thành các mức khác nhau tương ứng với từng điều, khoản cụ thể.
Như vậy, cách hiểu này sẽ không đúng với bản chất hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện. Bởi lẽ, không thể căn cứ vào hình phạt tiền được áp dụng để xác định tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện trong các trường hợp này là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đặc điểm của pháp nhân là một chủ thể pháp luật có sự độc lập trong tài chính, được thành lập ra để hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, nên việc áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân là nhằm đảm bảo tính răn đe, có hiệu quả cũng như phù hợp với bản chất của chủ thể. Nếu như hình phạt tù được phân ra các khung hình phạt khác nhau tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi do cá nhân thực hiện, thì hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân thương mại được phân ra thành các mức khác nhau cũng có ý nghĩa như vậy.
* Cách hiểu thứ hai: Dựa vào cách xây dựng trong mỗi điều luật có quy định về trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân, có thể căn cứ theo khung hình phạt áp dụng đối với cá nhân để phân loại tội phạm tương ứng. Còn đối với pháp nhân, các tình tiết định khung tương ứng cũng được áp dụng chung cho cả hai loại chủ thể. Bởi vì, về cơ bản các điều luật quy định về tội phạm mà pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thiết kế tương tự nhau, đó là sau khi nêu các khung hình phạt được áp dụng với pháp nhân có hành vi phạm tội tương ứng với các khoản được quy định trước đó về hành vi phạm tội của cá nhân: điểm a (của khoản quy định về hành vi phạm tội của pháp nhân) tương ứng với hành vi phạm tôi (của cá nhân) quy định tại khoản 1, điểm b, tương ứng với khoản 2 điểm c, d tương ứng với khoản 3, 4 chẳng hạn …
Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”, đối chiếu với quy định tại Điều 9 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội phạm quy dịnh tại khoản 1 Điều 193 nêu trên thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này sẽ được xác định là tội phạm nghiêm trọng; phạm tội có tình tiết Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, nếu là cá nhân thì bị phạt tù theo khung hình phạt của khoản 3 điều này là từ 10 năm đến 15 năm, tức là loại tội phạm rất nghiêm trọng, thì pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều này cũng được xác định là loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Như vậy, theo cách hiểu này có phần linh hoạt và hợp lý hơn cách hiểu thứ nhất; bởi nó có thể áp dụng để đánh giá và xác định được đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện tương ứng với các mức hình phạt quy định tại các điểm a, b, c… trong mỗi khoản điều luật, Nhưng hiểu như vậy, sẽ có phần suy đoán, cũng như không có căn cứ chắc chắn, cụ thể nào để làm cơ sở cho cách hiểu này.
Đồng thời, cả hai cách hiểu và giải thích nêu trên đều chưa giải quyết được vướng mắc dưới đây:
- Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật hình sự năm 2015, các hình phạt chính áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ có phạt tiền mà còn bao gồm cả hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Theo nguyên tắc quy định tại khoản 3 của Điều này thì “đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính”. Như vậy, trong những trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội bị áp dụng hình phạt đình chỉ (có thời hạn hoặc vĩnh viễn) thì tội phạm trong trường hợp này được phân loại là tội phạm gì?
- Điều 79 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong hai trường hợp:
“1. Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra.
2. Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động”.
Như vậy, nếu pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79, tương ứng với mỗi tội danh trong phạm vi Điều 76 quy định, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Nếu đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì trường hợp này có thể xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng căn cứ vào đâu để phân loại tội phạm trong trường hợp đó?
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để giải quyết các vụ án có chủ thể là pháp nhân thương mại phạm tội, không chỉ trong phân loại tội phạm mà còn liên quan đến các vấn đề như xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 27, Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015); thời hạn điều tra, truy tố, xét xử (các Điều 172, 173, 240, 241, 277, 278 Bộ luật hình sự năm 2015); thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân …
Qua nghiên cứu về chế định mới về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, tôi nhận thấy có sự vướng mắc nêu trên, dễ dẫn đến cách hiêu khác nhau; để vấn đề được giải quyết đúng đắn và có tính thống nhất, rất mong nhận được sự quan tâm nghiên cứu và đóng góp ý kiến cùng trao đổi của bạn đọc và đồng nghiệp./.
Hoàng Đức Trình- Phòng 10
Từ khóa » Cách Xác định Tội Phạm ít Nghiêm Trọng
-
Bàn Về Việc Phân Loại Tội Phạm Trong Pháp Luật Hình Sự
-
Phân Loại Tội Phạm Theo Bộ Luật Hình Sự 2015
-
Cách Phân Loại Tội Phạm Theo Quy định Mới Nhất - LuatVietnam
-
Tội Phạm Rất Nghiêm Trọng Là Gì ? Quy định Về Tội ... - Luật Minh Khuê
-
Cách Phân Loại Tội Phạm Theo Quy định Của Pháp Luật Hình Sự ?
-
Phân Loại Tội Phạm Theo Bộ Luật Hình Sự
-
Tội Phạm ít Nghiêm Trọng, Tội Phạm Nghiêm Trọng, Tội Phạm Rất ...
-
Điều 9. Phân Loại Tội Phạm Theo Bộ Luật Hình Sự
-
Hiểu Thế Nào Phạm Tội Thuộc Trường Hợp ít Nghiêm Trọng? - Phamlaw
-
Cách Xác định Tội Phạm Nghiêm Trọng, Rất Nghiệm Trọng, đặc Biệt ...
-
Tội Phạm Nghiêm Trọng Là Gì? Phạm Tội Gì Là Tội Nghiêm Trọng?
-
Tội Phạm ít Nghiêm Trọng Là Gì? Quy định Về Phân Loại Tội Phạm
-
[PDF] 1. TỘI PHẠM ĐƯỢC PHÂN LOẠI NHƯ THẾ NÀO? (Khoản 2, Điều 1 ...
-
Phân Loại Tội Phạm Là Gì? Cách Phân Loại Tội Phạm Theo Bộ Luật Hình ...